Bản án về tội giết người số 504/2023/HS-PT

TÒA ÁN NHÂN DÂN CẤP CAO TẠI HÀ NỘI

BẢN ÁN 504/2023/HS-PT NGÀY 11/07/2023 VỀ TỘI GIẾT NGƯỜI

Ngày 11 tháng 7 năm 2023, tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Thái Bình, Tòa án nhân dân cấp cao tại Hà Nội, mở phiên tòa xét xử phúc thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 316/2023/TLPT-HS ngày 27 tháng 3 năm 2023 đối với bị cáo Lại Văn H, do có kháng cáo của bị cáo và kháng cáo của người đại diện hợp pháp của người bị hại đối với Bản án hình sự sơ thẩm số 13/2023/HS-ST ngày 14 tháng 02 năm 2023 của Tòa án nhân dân tỉnh Thái Bình.

* Bị cáo có kháng cáo, bị kháng cáo:

Lại Văn H, sinh ngày 15/3/1975, giới tính: Nam; nơi cư trú: thôn Hưng T, xã Quang B, huyện Kiến X, tỉnh Thái Bình; quốc tịch: Việt Nam; dân tộc: Kinh; tôn giáo: Không; trình độ học vấn: 9/12; nghề nghiệp: Lao động tự do; con ông Lại Văn Kh và bà Đinh Thị Nh; có vợ là chị Đinh Thị H1 và có 02 con; tiền án, tiền sự: Không; bị cáo bị tạm giữ từ ngày 17/02/2022, đang bị tạm giam tại Trại tạm giam Công an tỉnh Thái Bình; có mặt.

* Người bào chữa cho bị cáo do Tòa án chỉ định: Luật sư Phạm Hữu Gi - Văn phòng luật sư Phạm Hữu L và Cộng sự, Đoàn luật sư tỉnh Thái Bình; có mặt.

* Người bào chữa cho bị cáo do bị cáo mời: Luật sư Hà Trọng Đ và luật sư Phạm Kỳ D - Công ty luật TNHH Hà Trọng Đ và Cộng sự, Đoàn luật sư thành phố Hà Nội; đều có mặt.

* Người bị hại: Anh Nguyễn Văn Th, sinh năm 1981, trú tại: thôn Hưng T, xã Quang B, huyện Kiến X, tỉnh Thái Bình (đã chết).

* Người đại điện theo pháp luật của người bị hại có kháng cáo: Chị Lại Thị Q, sinh năm 1982 (là vợ của bị hại), trú tại: thôn Hưng T, xã Quang B, huyện Kiến X, tỉnh Thái Bình; có mặt.

Ngoài ra, trong vụ án còn có người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan không kháng cáo, không bị kháng nghị, Tòa án không triệu tập.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 11 giờ ngày 17/02/2022, Lại Văn H cùng anh V, anh L1 đến nhà ông C ở thôn Hưng T, xã Quang B, huyện Kiến X chơi. Đến nơi, anh L1, anh V và H vào trong phòng ngủ nhà ông C ngồi uống nước. Một lúc sau anh Toàn đến ngồi uống nước cùng. Tại đây anh L1, anh V, anh Toàn và H rủ nhau đánh bạc dưới hình thức đánh phỏm, thắng thua bằng tiền.

Lúc này, trong phòng khách nhà anh Th (anh Th là con rể ông C, ở sát nhà, chung sân nhà ông C) có anh Th, ông C, anh D1, anh Nh1 và anh Ph (anh Ph là em ruột anh Th) đang ăn uống rượu. Khoảng 11 giờ 30 phút thì ăn uống xong, ông C về phòng thì thấy anh L1, anh V, anh Toàn và H đang đánh bạc nên ngồi xem. H đang chơi thì nghe thấy có người gọi nên H đi lên phòng khách nhà anh Th, ông C thay chỗ của H. H đánh bạc cùng với anh Ph, anh Nh1 và anh D1, anh Th ngồi xem. Chơi đến ván thứ 2 thì phát sinh mâu thuẫn giữa H với anh Ph, anh Nh1 trong việc H không thực hiện đúng thoả thuận, quy định trong việc đánh lốc. Anh Nh1, anh D1, anh Ph yêu cầu H phải “đền làng” trả cho mỗi người số tiền là 30.000 đồng. H không đồng ý, hai bên to tiếng cãi chửi, xô xát nhau. Anh Ph dùng tay chân đấm đá vào người và vùng mặt, đầu của H. H chửi và đấm lại. Anh Ph, anh Nh1 và anh Th lao vào dùng tay đánh H thì được những người có mặt can ngăn, đuổi H về nhà.

H về nhà, bực tức vì bị đánh nên vào trong bếp lấy 01 con dao nhọn (có chiều dài 44,5cm, cán dao bằng gỗ hình ô van, được bọc kim loại màu vàng dài 16cm, lưỡi dao dài 28,5cm) cầm sang nhà ông C mục đích tìm những người đã đánh H đề đánh trả thù. Khi H đi đến gần cổng nhà ông C thì anh D1 nghe thấy có tiếng người nói to “H cầm dao đến” đã chạy ra can ngăn đẩy H về. Khi về đến đầu đường trục chính xã Quang B, H ném dao xuống lề đường, ngay dưới chân để kéo lại quần. Anh D1 liền nhặt dao, mang về nhà H vứt dưới gầm ghế ở phòng khách. H cũng đi về nhà và hỏi anh D1 về con dao rồi chửi anh D1 đồng loã với nhóm của anh Nh1. Anh D1 nói dao vứt ở phòng khách rồi đi về. H đi vào phòng khách lấy dao, kẹp sát vào sườn bên phải, quay lại nhà ông C tìm anh Nh1, anh Ph để đánh. Khi đi đến ngõ vào nhà ông C, H nhìn thấy anh Gi đang ngồi chơi điện thoại ở cửa nhà anh Gi, H đi lại gần lấy điếu thuốc trên bàn châm lửa hút. Anh Gi hỏi H “bác đi đâu đấy”, H đáp “mấy thằng Vũ B vừa đánh tao chảy hết máu mồm”. Anh Gi không nói gì. H tiếp tục đi khoảng 10 mét thì nhìn thấy anh Th đi xe mô tô từ trong ngõ nhà anh Th ra đường trục rẽ về hướng xã Vũ Quý. H gọi “Th ơi tao bảo cái này”. Anh Th dừng xe đứng xuống đường, H đi bộ đến hỏi “sao anh em mày đánh tao đau thế” sau đó hai bên xảy ra xô xát đánh nhau. Theo H khai, anh Th lao đến dùng tay đấm nhiều nhát vào đầu H nên H bực tức rút dao ra khỏi vỏ, cầm ở tay phải khua, chém trúng vào đầu anh Th. Anh Th vẫn tiếp tục xông vào để đánh thì H dùng dao đâm hai nhát trúng vào bụng và ngực trái anh Th. Anh Gi nghe thấy có tiếng cãi nhau nên chạy ra thì thấy anh Th và H đang đùn đẩy nhau rồi anh Th dùng tay ôm bụng, còn H cầm dao đi về nhà. Anh Th bị thương được anh Gi cùng mọi người đưa đi cấp cứu tại Bệnh viện đa khoa tỉnh Thái Bình và bị chết lúc 13 giờ 40 phút cùng ngày. Lại Văn H đến Công an xã Quang B, huyện Kiến X đầu thú, khai nhận hành vi phạm tội của mình và giao nộp con dao dùng để đâm anh Th,01 chiếc áo khoác và số tiền 490.000 đồng.

Kết luận giám định số 49/KL-KTHS (PY) ngày 25/3/2022 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Thái Bình (giám định tử thi), kết luận: Các dấu hiệu chính qua giám định: Các thương tích vùng đầu, ngực, bụng do vật sắc nhọn gây lên; nạn nhân Nguyễn Văn Th chết do mất máu cấp.

Gia đình bị cáo Lại Văn H đã nộp tiền bồi thường cho gia đình anh Th 98.000.000 đồng.

Cáo trạng số 78/CT-VKSTB ngày 09/11/2022, Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Thái Bình đã truy tố Lại Văn H về tội “Giết người” theo quy định tại điểm n khoản 1 Điều 123 Bộ luật hình sự.

Tại Bản án hình sự sơ thẩm số 13/2023/HS-ST ngày 14/02/2023, Toà án nhân dân tỉnh Thái Bình đã quyết định: Tuyên bố bị cáo Lại Văn H phạm tội “Giết người”.

Áp dụng điểm n khoản 1 Điều 123, điểm b, s khoản 1 Điều 51; Điều 50, Điều 38 Bộ luật Hình sự; Xử phạt bị cáo Lại Văn H 19 (mười chín) năm tù; Thời hạn tù tính từ ngày tạm giữ 17/02/2022.

Về trách nhiệm dân sự: Áp dụng các Điều 584, 591, 357 Bộ luật dân sự; Buộc bị cáo Lại Văn H phải bồi thường cho chị Lại Thị Q khoản tiền chi phí mai táng anh Th là 91.160.000 đồng và 450.000.000 đồng tiền cấp dưỡng 3 con của anh Th gồm: cháu Nguyễn Phương Th, sinh ngày 24/01/2007, cháu Nguyễn Trung H2, sinh ngày 21/11/2015 và cháu Nguyễn Hoàng N, sinh ngày 16/6/2014 đến khi đủ 18 tuổi; Bồi thường cho ông Nguyễn Văn Kh, bà Phan Thị Ngh, chị Lại Thị Q, cháu Nguyễn Phương Th, cháu Nguyễn Trung H2, cháu Nguyễn Hoàng N tiền bù đắp tổn thất về tinh thần là 149.000.000 đồng, chia kỷ phần của mỗi người là 1/6. Tổng số tiền bị cáo phải bồi thường bằng 691.160.000 đồng, đã bồi thường 98.000.000 đồng, còn phải bồi thường 593.160.000 (Năm trăm chín mươi ba triệu một trăm sáu mươi ngàn) đồng. Chấp nhận việc ông Nguyễn Văn Kh và bà Phan Thị Ngh không yêu cầu bồi thường tiền cấp dưỡng.

Ngoài ra Tòa án cấp sơ thẩm quyết định về xử lý vật chứng, án phí và thông báo quyền kháng cáo theo quy định pháp luật.

Ngày 21/02/2023, bị cáo Lại Văn H kháng cáo xin giảm hình phạt.

Ngày 27/02/2023, người đại diện hợp pháp của người bị hại là chị Lại Thị Q kháng cáo đề nghị tăng bồi thường và tăng hình phạt đối với bị cáo H.

Tại phiên tòa phúc thẩm:

Bị cáo Lại Văn H giữ nguyên nội dung kháng cáo, bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, bị cáo nhất trí với phần bồi thường dân sự mà bản án sơ thẩm đã tuyên và đề nghị Hội đồng xét xử xem xét các tình tiết giảm nhẹ để giảm hình phạt cho bị cáo.

Người đại diện hợp pháp của người bị hại chị Lại Thị Q giữ nguyên nội dung kháng cáo, đề nghị Hội đồng xét xử tăng hình phạt và tăng bồi thường dân sự đối với bị cáo Lại Văn H.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Hà Nội có quan điểm giải quyết vụ án: Kháng cáo của bị cáo H, chị Q trong hạn luật định, đủ điều kiện được xem xét tại cấp phúc thẩm.

Tại phiên tòa bị cáo nhất trí mức bồi thường như bản án sơ thẩm quyết định, chị Q nhất trí với việc bồi thường trợ cấp cho 3 con anh Th 1 lần như bản án sơ thẩm quyết định nhưng đề nghị tăng mức bồi thường.

Căn cứ lời khai của bị cáo tại phiên tòa và tài liệu có trong hồ sơ vụ án có căn cứ xác định: Ngày 17/02/2022, do mâu thuẫn bị cáo H cầm dao đâm 2 nhát vào vùng ngực, bụng anh Th, hậu quả anh Th bị chết do mất máu cấp. Tòa án cấp sơ thẩm xét xử bị cáo về tội “Giết người” theo điểm n khoản 1 Điều 123 Bộ luật hình sự là đúng người, đúng tội, đúng pháp luật. Khi quyết định hình phạt, Tòa án cấp sơ thẩm đã xem xét các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, tuy nhiên phần nhận định của bản án đã nêu bị cáo đã ra đầu thú, bị cáo có bố đẻ 2 lần được tặng Huân chương chiến công hạng nhất và nhì, gia đình bị cáo có hoàn cảnh khó khăn nhưng phần quyết định lại không áp dụng tình tiết giảm nhẹ quy định tại khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự là thiếu sót. Về mức hình phạt 19 năm tù đối với bị cáo là phù hợp với tính chất, mức độ, hậu quả hành vi phạm tội của bị cáo, do đó không có căn cứ chấp nhận kháng cáo xin giảm hình phạt của bị cáo cũng như kháng cáo đề nghị tăng hình phạt của đại diện bị hại đối với bị cáo. Về kháng cáo tăng bồi thường của đại diện bị hại thấy: Tòa án cấp sơ thẩm buộc bị cáo cấp dưỡng cho 3 còn của bị hại, mỗi tháng 1.500.000 đồng đến khi các cháu đủ 18 tuổi bằng 450 triệu đồng, bị cáo và đại diện bị hại đều nhất trí việc bồi thường 1 lần. Xét không có căn cứ chấp nhận kháng cáo tăng bồi thường của đại diện bị hại. Đề nghị Hội đồng xét xử bác kháng cáo của bị cáo, đại diện bị hại, giữ nguyên bản án sơ thẩm.

Người bào chữa cho bị cáo luật sư Hà Trọng Đại đồng tình với quan điểm của đại diện Viện kiểm sát về việc cần áp dụng tình tiết giảm nhẹ quy định tại khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự (gia đình có công với cách mạng, bị cáo đầu thú), bị cáo ăn năn hối cải và đồng tình với các khoản bồi thường mà bản án sơ thẩm đã quyết định. Mong Hội đồng xét xử xem xét chấp nhận kháng cáo của bị cáo, giảm một phần hình phạt cho bị cáo Lại Văn H.

Luật sư Phạm Kỳ D nhất trí với quan điểm của luật sư Đại và ý kiến của đại diện Viện kiểm sát nhân dân về việc không chấp nhận kháng cáo của đại diện bị hại. Tôi xin gửi lời chia buồn sâu sắc với gia đình bị hại. Vụ án xảy ra bắt nguồn từ việc bị cáo, anh Nh1, anh Th tham gia đánh bạc, dẫn đến mâu thuẫn, mâu thuẫn xảy ra do lỗi hỗn hợp của các bên, có một phần lỗi của bị hại. Đề nghị Hội đồng xét xử xem xét lại tình tiết định khung có tính chất côn đồ và xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo H.

Luật sư Phạm Hữu Gi nhất trí với quan điểm của luật sư Đại và luật sư D; đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

Tại lời nói sau cùng bị cáo Lại Văn H đề nghị Hội đồng xét xử giảm hình phạt cho bị cáo sớm được trở về bồi thường cho gia đình bị hại.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra, tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về tố tụng:

Quyết định tố tụng, hành vi tố tụng của Cơ quan điều tra, của Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Thái Bình, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

Kháng cáo của bị cáo Lại Văn H và kháng cáo của người đại diện hợp pháp của người bị hại - chị Lại Thị Q trong hạn luật định, được chấp nhận xem xét theo thủ tục phúc thẩm.

[2] Về nội dung: Tại phiên tòa phúc thẩm, bị cáo Lại Văn H thành khẩn khai nhận hành vi phạm tội của mình, lời khai nhận của bị cáo tại phiên tòa phúc thẩm phù hợp với lời khai bị cáo tại cơ quan điều tra, phiên tòa sơ thẩm, phù hợp với lời khai của những người làm chứng, phù hợp với các chứng cứ, tài liệu được thu thập hợp pháp trong hồ sơ vụ án như: Biên bản khám nghiệm hiện trường, sơ đồ hiện trường, thu giữ vật chứng; Kết luận giám định pháp y về tử thi; cùng các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án, có cơ sở kết luận: Ngày 17/02/2022, tại nhà ông Lại Văn C ở thôn Hưng T, xã Quang B, huyện Kiến X, tỉnh Thái Bình do mâu thuẫn trong lúc đánh bạc, anh Nguyễn Văn Ph đã dùng tay, chân đấm, đá vào người và vùng mặt, đầu của H, H chửi và đấm lại, anh Ph, anh Nh1 và anh Th lao vào dùng tay đánh H thì được mọi người can ngăn, đuổi H về nhà. H về nhà, do bực tức vì bị đánh, H dùng 01 dao nhọn đâm liên tiếp 2 nhát vào ngực, bụng anh Th làm anh Th chết do bị mất máu cấp. Chỉ vì bực tức do bị đánh, H đã về nhà lấy dao để trả thù, mặc dù đã được can ngăn nhưng H vẫn quay về lấy dao đâm liên tiếp 2 nhát làm anh Th tử vong. Hành vi của bị cáo thể hiện tính côn đồ, coi thường tính mạng người khác, do vậy Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Thái Bình, Tòa án nhân dân tỉnh Thái Bình đã truy tố, xét xử bị cáo Lại Văn H về tội “Giết người” theo điểm n khoản 1 Điều 123 Bộ luật hình sự là đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.

Hành vi phạm tội của bị cáo là đặc biệt nghiêm trọng, đã trực tiếp xâm phạm đến tính mạng của người khác được pháp luật bảo vệ, chỉ vì mâu thuẫn nhỏ, bị cáo đã cố tình về nhà lấy dao đâm chết anh Th, gây đau thương cho gia đình bị hại, gây bức xúc trong nhân dân, hành vi của bị cáo thể hiện sự coi thường pháp luật, coi thường tính mạng con người, vì vậy cần phải xử phạt nghiêm để cải tạo, giáo dục bị cáo, cũng như răn đe, phòng ngừa chung.

Xét kháng cáo xin giảm hình phạt của bị cáo, Hội đồng xét xử thấy: Bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, có nhân thân tốt, đã bồi thường khắc phục một phần hậu quả, vì vậy bị cáo được hưởng các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm b, s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự. Sau khi phạm tội bị cáo đã ra đầu thú, bị cáo có bố đẻ 2 lần được tặng Huân chương chiến công hạng nhất và nhì, gia đình bị cáo có hoàn cảnh khó khăn nên được hưởng tình tiết giảm nhẹ quy định tại khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự. Tòa án cấp sơ thẩm đã nhận định các tình tiết giảm nhẹ bị cáo được hưởng quy định tại khoản 2 Điều 51, tuy nhiên tại phần Quyết định của bản án sơ thẩm không ghi là thiếu sót, cấp phúc thẩm cần bổ sung. Khi quyết định hình phạt, Tòa án cấp sơ thẩm đã xem xét tính chất mức độ, nhân thân, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự để xử phạt bị cáo mức án 19 năm tù là phù hợp, tương xứng với tính chất mức độ, hành vi phạm tội của bị cáo. Bị cáo H kháng cáo nhưng không có thêm tình tiết giảm nhẹ đặc biệt nào mới, do vậy không có căn cứ chấp nhận kháng cáo của bị cáo.

Xét kháng cáo đề nghị tăng hình phạt đối với bị cáo của đại diện bị hại chị Lại Thị Q, Hội đồng xét xử thấy: Như đã phân tích ở trên, mức án mà Tòa án cấp sơ thẩm quyết định đối với bị cáo H là phù hợp, tương xứng với tính chất, mức độ, nhân thân, các tình tiết tăng nặng giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của bị cáo, do đó không có căn cứ chấp nhận nội dung kháng cáo tăng hình phạt đối với bị cáo của chị Q.

Xét kháng cáo của chị Q về đề nghị tăng bồi thường đối với bị cáo, Hội đồng xét xử thấy: Tòa án cấp sơ thẩm đã xem xét chấp nhận việc gia đình bị hại yêu cầu bồi thường các khoản: Tiền mai táng phí 91.160.000 đồng, số tiền này có chứng từ hợp lệ, cần được chấp nhận; Tiền cấp dưỡng 03 con của anh Th đến khi đủ 18 tuổi tổng 300 tháng, mỗi tháng 1.500.000 đồng bằng 450.000.000 đồng là phù hợp (bị cáo và đại diện bị hại đều nhất trí việc bồi thường một lần số tiền cấp dưỡng cho các con của bị hại); Tiền bù đắp tổn thất về tinh thần cho bố, mẹ, vợ và 03 con anh Th (6 người) tổng bằng 149.000.000 đồng. Ngoài ra bố mẹ anh Th đã quá tuổi lao động không có lương hưu nhưng ông bà không yêu cầu bồi thường tiền cấp dưỡng nên bản án sơ thẩm không đặt ra giải quyết là đúng quy định; Tổng số tiền bị cáo H phải bồi thường bằng 691.160.000 đồng, bị cáo đã nộp 98.000.000 đồng (tại Cục Thi hành án tỉnh Thái Bình 50 triệu đồng, gia đình bị hại đã nhận 48 triệu đồng), bị cáo còn phải bồi thường 593.160.000 đồng. Quyết định của bản án sơ thẩm về phần trách nhiệm dân sự đối với bị cáo H nêu trên là phù hợp, đúng pháp luật, do vậy không có căn cứ chấp nhận kháng cáo của đại diện bị hại về nội dung tăng bồi thường đối với bị cáo.

Các quyết định khác không có kháng cáo, kháng nghị, Hội đồng xét xử không xét.

[3] Về án phí: Bị cáo Lại Văn H phải nộp 200.000 đồng án phí hình sự phúc thẩm. Chị Lại Thị Q không phải chịu án phí hình sự phúc thẩm.

Vì các lẽ trên, Căn cứ điểm a khoản 1 Điều 355, Điều 356 Bộ luật tố tụng hình sự; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội về án phí, lệ phí tòa án.

QUYẾT ĐỊNH

1. Không chấp nhận kháng cáo của bị cáo Lại Văn H và kháng cáo của người đại diện hợp pháp của bị hại là chị Lại Thị Q;

Giữ nguyên quyết định của Bản án hình sự sơ thẩm số 13/2023/HS-ST ngày 14/02/2023 của Tòa án nhân dân tỉnh Thái Bình, cụ thể như sau:

Tuyên bố: Bị cáo Lại Văn H phạm tội “Giết người”.

Áp dụng điểm n khoản 1 Điều 123, điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 50, Điều 38 Bộ luật hình sự; Xử phạt bị cáo Lại Văn H 19 (mười chín) năm tù. Thời hạn tù tính từ ngày tạm giữ 17/02/2022.

Về trách nhiệm dân sự: Áp dụng các Điều 584, 591, 357 Bộ luật dân sự; Buộc bị cáo Lại Văn H phải bồi thường cho chị Lại Thị Q khoản tiền chi phí mai táng anh Th là 91.160.000 đồng và 450.000.000 đồng tiền cấp dưỡng 03 con của anh Th gồm cháu Nguyễn Phương Th, sinh ngày 24/01/2007, cháu Nguyễn Trung Hải, sinh ngày 21/11/2015 và cháu Nguyễn Hoàng N, sinh ngày 16/6/2014 đến khi các cháu đủ 18 tuổi; Bồi thường cho ông Nguyễn Văn Kh, bà Phan Thị Ngh, chị Lại Thị Q, cháu Nguyễn Phương Th, cháu Nguyễn Trung H2, cháu Nguyễn Hoàng N tiền bù đắp tổn thất về tinh thần là 149.000.000 đồng, chia kỷ phần của mỗi người là 1/6. Tổng số tiền bị cáo phải bồi thường là 691.160.000 đồng, đã bồi thường 98.000.000 đồng còn phải bồi thường 593.160.000đ (Năm trăm chín mươi ba triệu một trăm sáu mươi ngàn đồng). Chấp nhận việc ông Nguyễn Văn Kh và bà Phan Thị Ngh không yêu cầu bồi thường tiền cấp dưỡng.

2. Về án phí: Bị cáo Lại Văn H phải nộp 200.000 đồng án phí hình sự phúc thẩm. Chị Lại Thị Q không phải nộp án phí hình sự phúc thẩm.

3. Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, không bị kháng nghị có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

156
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội giết người số 504/2023/HS-PT

Số hiệu:504/2023/HS-PT
Cấp xét xử:Phúc thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân cấp cao
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 11/07/2023
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về