Bản án về tội giết người số 502/2019/HS-ST

TOÀ ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

BẢN ÁN 502/2019/HS-ST NGÀY 27/11/2019 VỀ TỘI GIẾT NGƯỜI

Trong ngày 27/11/2019, tại Trụ sở Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh xét xử sơ thẩm vụ án hình sự thụ lý số 508/2019/HSST ngày 16/9/2019 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử 5262/2019/QĐXXST-HS ngày 13/11/2019 đối với bị cáo:

Họ và tên: Trần Châu H; tên gọi khác: H Mỏ; giới tính: Nam; sinh năm 1990 tại Thành phố Hồ Chí Minh; nơi đăng ký thường trú: phường A, huyện B, Thành phố Hồ Chí Minh; nơi cư trú: xã C, huyện D, Thành phố Hồ Chí Minh; quốc tịch: Việt Nam; dân tộc: Kinh; tôn giáo: (không); trình độ học vấn: 6/12; nghề nghiệp: làm thuê; con ông Trần E (chết) và bà Châu G; hoàn cảnh gia đình: vợ tên Vi Thị K, có 1 con sinh năm 2013;

Tiền án, tiền sự: (không);

Nhân thân: Ngày 27/11/2011, bị Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh xử phạt 01 năm 06 tháng tù về tội “Gây rối trật tự công cộng” nhưng cho hưởng án treo, thời gian thử thách là 03 năm kể từ ngày tuyên án (Bản án số 220/2011/HSST ngày 27/11/2011) (bl.114-126c);

Tạm giam: 25/11/2018;

Bị cáo có mặt tại phiên tòa.

Người bào chữa cho bị cáo: Ông Hà Ngọc T, luật sư Văn phòng luật sư Hà T, Đoàn luật sư thành phố Hồ Chí Minh; có mặt.

Người bị hại:

1.Ông Nguyễn Trúc L; sinh năm 1984; nơi cư trú: ấp Mỹ Hiệp, xã Mỹ Đức, huyện Càng Long, tỉnh Trà Vinh; vắng mặt.

2.Ông Trương Phan Tam M; sinh năm 1993 (đã chết);

Người đại diện của bị hại :

1.Bà Phan Thị Q; sinh năm 1962; nơi cư trú: 36/2A ấp B, xã B, huyện D, Thành phố Hồ Chí Minh; là mẹ đẻ của bị hại Trương Phan Tam M; có mặt.

2.Ông Trương T R; sinh năm 1962; nơi cư trú: 36/2A ấp B, xã B, huyện D, Thành phố Hồ Chí Minh; là cha đẻ của bị hại Trương Phan Tam M; vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Trên cơ sở kết quả điều tra đã xác định được như sau:

Vụ thứ nhất: Vụ án “Cố ý gây thương tích” xảy ra vào ngày 13/6/2018, tại quán bar P phường S, quận T, Thành phố Hồ Chí Minh:

Vào khoảng 19 giờ ngày 13/6/2018, anh Đinh Chí U và một số bạn bè là anh Nguyễn Trúc L, Nguyễn Lê V, Nguyễn Thành X, P, Phúc Mập (chưa rõ lai lịch) và một vài người khác dự tiệc sinh nhật anh U tại bàn Vip 10, quán bar P, số 44 Gò Dầu, phường S, quận T, Thành phố Hồ Chí Minh. Lúc này, bị cáo Trần Châu H đến quán bar để đặt bàn ăn uống thì anh Quảng Đại Thành Y (bảo vệ quán) dẫn H vào bàn Vip 9 ngồi chờ. Do thiếu bàn nên anh P đến gặp H đề nghị H nhường bàn nhưng H không đồng ý. Từ đó, H và anh P cãi vã với nhau. P dùng tay đánh vào mặt H thì anh L chạy đến can ngăn. Lúc này, anh Y chạy đến bảo H qua bàn khác ngồi nhưng H không đồng ý. Do ấm ức nên H ra ngoài quán lấy xe chạy đến cầu Tham Lương, huyện B và gọi điện thoại cho S (không rõ lai lịch) và bảo S mang theo 2 con dao. Khi S đến, H chở S đến quán bar P. Tại đây, S đưa cho H một con dao dài khoảng 80cm, S cầm một con dao, cả hai đứng ngoài quán.

Đến khoảng 22 giờ cùng ngày, khi thấy nhóm của anh L mở cửa quán bar đi ra thì H và S cầm dao xông đến đuổi chém. Anh L bỏ chạy vào trong quán thì H đuổi theo chém nhiều nhát trúng vào đầu, vai, tay và đùi của anh L; anh L dùng tay đỡ và xô H ngã vào cửa kính. Lúc này, anh Y và các nhân viên của quán bar chạy đến can ngăn. Thấy vậy, H cùng S chạy xe về cầu Tham Lương, huyện B. Tại đây, H trả lại con dao cho S rồi chạy xe đi về nhà tại địa chỉ 132/5C, tổ 138, ấp Tam Đông 2, xã C, huyện D, Thành phố Hồ Chí Minh (bl.245-260) Ngày 15/6/2018, anh L đến Công an quận T tố cáo và yêu cầu xử lý hình sự đối với H.

*Tại Bản Kết luận giám định số 752/TgT.18 ngày 17/9/2018 của Trung tâm Pháp y - Sở Y tế Thành phố Hồ Chí Minh kết luận về thương tích của Nguyễn Trúc L như sau:

-Đa vết thương phần mềm đã được điều trị, hiện còn:

+Một sẹo kích thước 3,5 x 0,1cm tại vùng trán đỉnh phải. Thương tích do vật tày, vật sắc, vật sắc nhọn hoặc vật có cạnh sắc gây ra.

+Một sẹo kích thước 3,1 x 0,1cm tại cằm; một sẹo kèm vết tăng sắc tố da trên diện tích 6,8 x (0,5-0,8)cm tại mặt sau 1/3 trên cẳng tay trái; một sẹo kích thước 4 x 0,1cm tại mặt trước bên trụ cổ tay phải. Các thương tích do vật sắc, vật sắc nhọn hoặc vật có cạnh sắc gây ra.

-Vết thương vùng trên ngoài vai trái gây đứt da, gãy vát đầu ngoài xương đòn, gãy mỏm cùng vai, đã được điều trị cắt lọc, khâu vùng mỏm vùng vai, khâu vết thương, hiện còn một sẹo kích thước 6,5 x (0,5-0,8)cm, ổn định. Các thương tích do vật sắc, vật sắc nhọn tác động mạnh gây ra.

-Vết thương tại mặt sau 1/3 dưới cẳng tay trái gây đứt da, đứt cơ duỗi các ngón, mẻ xương trụ, đã được điều trị khâu gân, khâu vết thương, hiện còn sẹo chém và mổ kích thước 13,5 x (0,1-0,3)cm. Các thương tích do vật sắc, vật sắc nhọn tác động mạnh gây ra.

-Hai vết thương tại mặt sau trong cẳng tay phải gây đứt da, đứt hai phần toàn bộ cơ gấp, duỗi cổ tay trụ, duỗi các ngón III, IV, V, đã được điều trị khâu gân cơ, khâu vết thương, hiện còn sẹo kích thước 15,5 x (0,2-0,4)cm và 7,5 x (0,2-0,5)cm tại cẳng tay. Các thương tích do vật sắc, vật sắc nhọn hoặc vật có cạnh sắc gây ra.

-Hai vết thương mặt trước 1/3 dưới cẳng tay trái bên quay gây đứt da, đứt gân gấp cổ tay quay, đã được điều trị hiện còn sẹo kích thước 2 x 0,1cm. Các thương tích do vật sắc, vật sắc nhọn hoặc vật có cạnh sắc gây ra.

-Vết thương gốc ngón I bàn tay trái đứt da, đứt gân gấp ngón I, đã được điều trị, hiện còn sẹo kích thước 7,8 x 0,1cm. Các thương tích do vật sắc, vật sắc nhọn hoặc vật có cạnh sắc gây ra.

-Vết thương gây đứt gần lìa ngón II, bàn tay trái, đã được phẫu thuật nối vi phẫu ngón II, kết hợp xương, hiện còn sẹo kích thước 10,1 x 0,15cm. Các thương tích do vật sắc, vật sắc nhọn hoặc vật có cạnh sắc gây ra.

-Vết thương vát ngang lòng bàn tay từ góc ngón V xuống cổ tay dưới, mô cái tay trái gây đứt da, đứt toàn bộ cơ mô út, mô cái, đứt động mạch gan tay sau, gân gấp thần kinh giữa, cơ gian cốt, gãy chỏm xương bàn ngón V, đã điều trị kết hợp xương, khâu gân, khâu vết thương, hiện còn sẹo phức tạp kích thước 32 x 0,1cm tại lòng bàn tay, cổ tay, tê và hạn chế vận động nặng các ngón của bàn tay do tổn thương thần kinh. Các thương tích do vật sắc, vật sắc nhọn tác động mạnh gây ra.

297) Tỷ lệ tổn thương cơ thể do thương tích gây nên hiện tại là 58% (bl.291- *Tại Bản Kết luận giám định bổ sung số 752.B/TgT.18-19 ngày 18/6/2019 của Trung tâm Pháp y – Sở Y tế Thành phố Hồ Chí Minh kết luận bổ sung về thương tích của Nguyễn Trúc L như sau:

-Con dao dài khoảng 80cm, lưỡi dao bằng kim loại dài khoảng 35cm, mũi nhọn, cán dao bằng nhựa màu đen dài khoảng 45cm có thể gây ra được các thương tích trên người của Nguyễn Trúc L.

-Các thương tích không nguy hiểm đến tính mạng của Nguyễn Trúc L (bl.298-299) Đối với anh Nguyễn Lê V, bị thương tích tại cẳng tay trái do Trần Châu H và đồng bọn gây ra tại quán bar P. Do anh Nguyễn Lê V không xác định ai là người gây ra thương tích cho mình, anh Minh có đơn từ chối giám định thương tích và không yêu cầu xử lý hình sự nên Cơ quan Cảnh sát điều tra không xem xét xử lý.

Vụ thứ hai: Vụ án “Giết người” xảy ra vào ngày 24/11/2018, tại trước nhà số 38/3E đường Tam Đông 2, xã C, huyện D, Thành phố Hồ Chí Minh:

Trần Châu H, Trần Văn T và Trương Phan Tam M (Ba lém) là những người có quen biết với nhau. Khoảng 01 giờ ngày 24/11/2018, T điều khiển xe máy mang biển số 52P2-xxxx chở M đến khu vực ấp Tam Đông 2, xã C, huyện D để tìm người quen có tên gọi là H (chưa rõ lai lịch) để đòi tiền nhưng không gặp. Đến khoảng 03 giờ cùng ngày, T chở M đi trên đường gặp H đang điều khiển xe Honda Wave màu xanh không rõ biển số. T hỏi H về các tiệm game bắn cá ở khu vực Thới Tam Thôn 16 thì H nói “ở đây không có máy bắn cá nào hết, đi về ngủ đi”. T tiếp tục chở M đi tìm H. Khoảng 3 giờ 30 phút cùng ngày, H và T, M lại gặp nhau trên đường. H và M có lời nói qua lại rồi thách thức lẫn nhau. H chạy xe đuổi theo ép xe của T và M. Khi đến trước nhà số 38/31E, ấp Tam Thới Đông 2, xã C, huyện D, M nhảy xuống xe rút ra 01 con dao (dài khoảng 20cm cán màu nâu đen, lưỡi dao bằng kim loại có răng cưa) xông vào đánh H, H nhảy xuống xe đánh trả thì bị M đâm trúng hông gây thương tích nhẹ rồi cả hai vật lộn với nhau. H chụp tay cầm dao của M để tước lấy dao thì bị M chém vào cẳng tay trái. Sau đó, H dùng tay phải giật được con dao của M và đâm loạn xạ vào người M. Khi đè được M xuống đống cát ven đường, H đâm tiếp 1 nhát vào vùng nách bên trái của M. T đứng ngoài nhìn thấy M và H cầm dao nên không dám vào can ngăn. M la lên “Mày đâm trúng tim tao rồi chở tao đi cấp cứu đi” rồi bất tỉnh. H buông M ra ném con dao xuống đất gần đó. H cùng T chở M vào Phòng khám đa khoa Anh U cấp cứu nhưng M đã chết. H đi ra đón xe Grab bike quay lại hiện trường lấy xe bỏ trốn. Trên đường đi, H lấy bộ quần áo mang theo sẵn để trong cốp xe ra thay và bỏ bộ quần áo dính máu vào thùng rác ở ven đường (không xác định được địa điểm). Sau đó, H chạy đến Phòng khám Đa khoa Nhân Sinh, số 178 đường Phan Huy ích, Phường 2, quận Gò Vấp khâu vết thương đến một khách sạn ở quận Tân L thuê phòng ở qua đêm. Buổi trưa ngày 25/11/2018, H đến Công an huyện D đầu thú (bl.89-108).

Trong quá trình điều tra, Cơ quan điều tra thu giữ một số vật chứng như sau:

-Thu giữ tại hiện trường (trước nhà số 38/31E, ấp Tam Thới Đông 2, xã C, huyện D):

+01 con dao có đặc điểm như sau: dài khoảng 21cm; cán quấn băng keo màu đen dài khoảng 10cm; lưỡi dao bằng kim loại màu trắng dài khoảng 11cm, có răng cưa, bản lưỡi chỗ rộng nhất có kích thước là 1,7cm, mũi nhọn;

+01 mắt kính bị bể, gọng màu đen;

+03 mẫu vật dính chất màu nâu đỏ đen.

-Thu giữ 01 mẫu máu của Trần Châu H.

*Tại Bản Kết luận giám định số 33-19/KLGĐ-PY ngày 21/02/2019 của Phòng Kỹ thuật hình sự-Công an Thành phố Hồ Chí Minh kết luận giám định pháp y tử thi của Trương Phan Tam M như sau:

-Vết thương ở liên sườn 5 bên trái trên đường nách sau, kích thước 4x0,8cm, bờ trên có một góc nhọn tính đến góc sau dài 2,4cm làm thủng cơ liên sườn 6 bên trái trên đường nách sau, thủng mặt sau trên thùy dưới phổi trái dạng hình khe dài 2,5cm, sâu vào tận rốn phổi (vết thương trên phổi sâu 6cm).

-Thủng rách da mặt sau đoạn 1/3 giữa đùi phải, kích thước 3x1,5cm, vết thương có chiều hướng từ sau ra trước, từ dưới lên trên sâu 13cm. Thủng rách da mặt trong đoạn 1/3 giữa cẳng chân trái, kích thước 1,8x0,7cm. Thủng rách da mặt sau ngoài đoạn 1/3 dưới cẳng chân trái, kích thước 7x2cm. Hai vết thương thông nhau. Mài mòn da gan ngón 1 chân trái, đầu bàn chân trái, kích thước 7x3cm. Mài mòn da gót chân trái phía mu chân, kích thước 5,5x4,5cm.

-Xây xát da đuôi cung mày phải, kích thước 3,5x2cm. Xây xát da gò má phải, kích thước 2x1,5cm. Xây xát da môi trên bên phải, kích thước 2x0,8cm.

-Đứt da nông liên sườn 2, 3 bên trái trên đường giữa đòn, kích thước 6x0,4cm.

-Xây xát da liên sườn 5 bên trái trên đường nách trước, kích thước 0,8x0,8cm.

-Xây xát da liên sườn 6 bên trái trên đường nách trước, kích thước 9x0,2cm.

-Xây xát da liên sườn 7 bên trái trên đường nách giữa, kích thước 3x0,2cm.

-Xây xát khuỷu tay phải, kích thước 1,8x1cm. Xây xát da mu tay phải, kích thước 2,8x1,5cm. Đứt da gan khớp đốt 1, 2 ngón 3, 4, 5 tay phải, kích thước 5x1,5cm.

-Xây xát da lưng phải ở liên sườn 8 trên đường nách sau, kích thước 4x1,5cm.

Các vết thủng rách da đều có dạng hình bầu dục, bờ mép sắc gọn.

Nguyên nhân chết của Trương Phan Tam M là do sốc mất máu không hồi phục do vết thương đâm thủng phổi trái. Trong máu không tìm thấy cồn. Trong máu và nước tiểu tìm thấy Methamphetamine.

*Tại Công văn số 282/CV-PC09(Đ4) ngày 02/4/2019 của Phòng Kỹ thuật hình sự-Công an Thành phố Hồ Chí Minh giải thích pháp y tử thi Trương Phan Tam M như sau:

1.Cơ chế hình thành dấu vết thương tích:

1.1.Vết thương ở liên sườn 5 bên trái trên đường nách sau có dạng hình bầu dục, bờ mép sắc gọn, kích thước 4x0,8cm, bờ trên có một góc nhọn tính đến góc sau dài 2,4cm làm thủng cơ liên sườn 6 bên trái trên đường nách sau, thủng mặt sau trên thùy dưới phổi trái dạng hình khe dài 2,5cm, sâu vào tận rốn phổi. Đây là vết thương gây ra cái chết của nạn nhân, do vật sắc nhọn gây ra theo cơ chế đâm.

1.2.Các vết thương ở da mặt sau đoạn 1/3 giữa đùi phải, kích thước 3x1,5cm và ở mặt trong đoạn 1/3 giữa cẳng chân trái, kích thước 1,8x0,7cm xuyên mặt sau ngoài đoạn 1/3 dưới cẳng chân trái đều có dạng hình bầu dục, bờ mép sắc gọn. Các vết thương này không gây ra cái chết của nạn nhân, do vật sắc gây ra theo cơ chế đâm.

1.3.Các vết thương đứt da nông liên sườn 2, 3 bên trái trên đường giữa đòn, kích thước 6x0,4cm; đứt da gan khớp đốt 1, 2 ngón 3, 4, 5 tay phải, kích thước 5x1,5cm. Các vết thương này không gây ra cái chết của nạn nhân, do vật có cạnh sắc gây ra theo cơ chế cắt.

1.4.Các tổn thương xây xát da đuôi cung mày phải, kích thước 3,5x2cm. Xây xát da gò má phải, kích thước 2x1,5cm. Xây xát da môi trên bên phải, kích thước 2x0,8cm. Xây xát da liên sườn 5 bên trái trên đường nách trước, kích thước 0,8x0,8cm. Xây xát da liên sườn 6 bên trái trên đường nách trước, kích thước 9x0,2cm. Xây xát da liên sườn 7 bên trái trên đường nách giữa, kích thước 3x0,2cm. Xây xát da khuỷu tay phải, kích thước 1,8x1cm. Xây xát da mu tay phải, kích thước 2,8x1,5cm. Xây xát da lưng phải ở liên sườn 8 trên đường nách sau, kích thước 4x1,5cm. Các tổn thương này do tiếp xúc với vật tày gây ra.

1.5.Mài mòn da gan ngón 1 chân trái, đầu bàn chân trái, kích thước 7x3cm. Mài mòn da gan gót chân trái phía mu chân, kích thước 5,5x4,5cm. Các tổn thương này do tiếp xúc với vật tày gây ra.

2.Căn cứ vào hình thành dấu vết thương tích trên cơ thể nạn nhân Trương Phan Tam M thì con dao dài khoảng 21cm, lưỡi dao bằng kim loại màu trắng “loại lưỡi có 2 cạnh sắc” dài khoảng 11cm, bản lưỡi chỗ rộng nhất khoảng 1,7cm, mũi nhọn “cán dao đươc quấn băng keo màu đen là vật sắc nhọn, có thể gây ra được vết thương nêu ở mục 1.1, 1.2 và 1.3, không gây ra được các tổn thương nêu ở mục 1.4 và 1.5.

*Tại Bản Kết luận giám định số 91-19/KLGĐ-SV ngày 21/12/2018 của Phòng Kỹ thuật hình sự-Công an Thành phố Hồ Chí Minh kết luận giám định sinh học vật chứng như sau:

-Mẫu máu của Trương Phan Tam M thuộc nhóm máu A.

-Con dao dài khoảng 21cm, lưỡi bằng kim loại màu trắng có hai cạnh sắc dài khoảng 11cm, mũi nhọn, bản lưỡi chỗ rộng nhất 1,7cm, cán dao được quấn băng keo màu đen: Có dính máu người, nhóm máu A, cùng nhóm máu Trương Phan Tam M (bl.61-64) -Mắt kính: Không dính máu.

-Dấu vết thu tại hiện trường ký hiệu 2: Chất nâu đỏ thấm trên mảnh gạc là máu người, nhóm máu A, cùng nhóm máu Trương Phan Tam M.

-Dấu vết thu tại hiện trường ký hiệu 2A: Chất nâu đen dính trên chiếc lá là máu người, nhóm máu A, cùng nhóm máu Trương Phan Tam M.

-Dấu vết thu tại hiện trường ký hiệu 2B: Chất sậm màu dính trên cành cây là máu người, nhóm máu A, cùng nhóm máu Trương Phan Tam M.

*Tại Bản Kết luận giám định bổ sung số 242-19/KLGĐ-SV ngày 24/01/2019 của Phòng Kỹ thuật hình sự-Công an Thành phố Hồ Chí Minh kết luận giám định sinh học như sau: Mẫu máu thu của Trần Châu H thuộc nhóm máu A (bl.43-46).

*Về mặt dân sự: Trong quá trình điều tra, bà Vi Thị Lê Hương (vợ của bị cáo) đã bồi thường cho bà Phan Thị Q (mẹ của bị hại Trương Phan Tam M) 130.000.000đ; bị cáo cũng đã bồi thường cho anh L 150.000.000đ. Ngày 17/6/2019, ông Trương T R và bà Phan Thị Q (cha, mẹ của bị hại Trương Phan Tam M) làm đơn bãi nại, xin giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo H. Anh L cũng cho biết không yêu cầu bị cáo phải bồi thường thêm.

Tại bản Cáo trạng số 361/CTr-VKS-P1 ngày 09/9/2019, Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh đã truy tố bị cáo về tội “Giết người” và tội “Cố ý gây thương tích” theo điểm n khoản 1 Điều 123 và điểm c khoản 3 Điều 134 của Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017 (Bộ luật hình sự năm 2015).

Tại phiên tòa, Kiểm sát viên trình bày lời luận tội như sau:

Căn cứ lời khai của bị cáo, căn cứ vào các tài liệu, chứng cứ thu thập được có trong hồ sơ vụ án, có đủ cơ sở để xác định việc truy tố của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh là chính xác, đúng pháp luật.

Căn cứ điểm n khoản 1 Điều 123, điểm c khoản 3 Điều 134, điểm s khoản 1 và khoản 2 Điều 51, khoản 1 Điều 50 Bộ luật hình sự năm 2015, đã được sửa đổi, bổ sung năm 2017, Xử phạt bị cáo từ 18 đến 20 năm tù về tội “Giết người” và 7 đến 8 năm tù về tội “Cố ý gây thương tích”, tổng hợp hình phạt, buộc bị cáo phải chấp hành hình phạt chung là từ 25 năm đến 28 năm tù.

Xử lý vật chứng: Căn cứ Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự 2015, tịch thu tiêu hủy 1 con dao dài khoảng 21cm, 1 mắt kính bị bể gọng màu đen, một mẫu vật dính chất màu nâu đỏ.

Bị cáo bào chữa như sau: Anh M là người đã cầm dao đâm bị cáo trước, anh M đã đâm trúng tay và hông bị cáo. Do nóng giận, không làm chủ được nên bị cáo đã đâm anh M. Đề nghị Hội đồng xét xử xem xét.

Luật sư T bào chữa cho bị cáo như sau:

Về việc truy tố bị cáo về tội “Cố ý gây thương tích” theo điểm c khoản 3 Điều 134 là đúng pháp luật. Tuy nhiên, việc truy tố bị cáo về tội “Giết người” theo điểm n khoản 1 Điều 123 là chưa phù hợp. Bởi lẽ, bị hại M là người đã có lỗi cầm dao đâm bị cáo trước. Do vậy, đề nghị Hội đồng xét xử chuyển khung hình phạt, kết án bị cáo theo khoản 2 Điều 123.

Bị cáo có các tình tiết giảm nhẹ đó là: Thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải; sau khi phạm tội đã ra đầu thú; gia đình bị cáo đã bồi thường thiệt hại cho bị hại và được bị hại, người đại diện bị hại bãi nại; hành vi phạm tội “Giết người” là có lỗi của bị hại. Do vậy, đề nghị, Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

Bà Q cho biết không yêu cầu bị cáo phải bồi thường gì thêm.

Kiểm sát viên phát biểu ý kiến tranh luận với luật sư như sau: Mặc dù anh M có lỗi nhưng khi đã khống chế được anh M, bị cáo vẫn tiếp tục đâm anh M. Do vậy, hành vi phạm tội của bị cáo là có tính chất côn đồ.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

[1].Trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử, Điều tra viên, Kiểm sát viên đã thực hiện đúng thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo, luật sư bào chữa đã thực hiện đúng quyền, nghĩa vụ theo quy định của pháp luật. Luật sư, bị cáo không ai có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi của người tiến hành tố tụng. Các hành vi, quyết định của người tiến hành tố tụng là hợp pháp.

[2].Căn cứ kết luận giám định, căn cứ lời khai của bị cáo và các tài liệu chứng cứ thu thập được có cơ sở kết luận:

Vào khoảng 19 giờ ngày 13/6/2018, tại quán bar P số 44 Gò Dầu, phường S, quận T, Thành phố Hồ Chí Minh, chỉ vì mâu thuẫn nhỏ nhặt trong đời sống thường ngày, bị cáo và anh P đã có hành vi cãi vã với nhau, anh P có đánh bị cáo một cái vào mặt bị cáo nhưng không gây thương tích gì.

Sự việc đã được anh Nguyễn Trúc L và mọi người căn ngăn. Tuy nhiên, bị cáo lại đi về và rủ S (không rõ lai lịch) mang theo hung khí quay lại quán bar P để đánh trả thù. Khi thấy anh L từ trong quán bar đi ra, bị cáo đã dùng dao dài khoảng 80cm là hung khí nguy hiểm chém anh L nhiều nhát, gây thương tích cho anh L với tỷ lệ tổn thường cơ thể là 58%.

Vào khoảng 3 giờ 30 phút ngày 24/11/2018, nhà số 38/3E đường Tam Đông 2, xã C, huyện D, Thành phố Hồ Chí Minh, chỉ vì mâu thuẫn cá nhân, bị cáo đã có hành vi dùng dao nhọn đâm anh Trương Phan Tam M nhiều nhát dẫn đến việc anh M bị chết.

[3].Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, xâm hại đến sức khỏe, tính mạng của người khác, xâm phạm đến an toàn trật tự công cộng. Bị cáo nhận thức được hành vi của mình là sai trái, bị luật pháp nghiêm cấm nhưng vẫn cố ý vi phạm.

[4].Mặc dù, bị hại M là người đã có lỗi đó là dùng dao nhọn tấn công bị cáo trước. Tuy nhiên, trước đó, chỉ vì lời nói qua lại với nhau không tế nhị, bị cáo đã chủ động đuổi theo anh M để gây hấn và có lời lẽ mang tính thách đố; khi đã đâm anh M trúng vào đùi, cẳng chân, bàn tay và đã khống chế đè được anh M xuống đống cát nhưng bị cáo tiếp tục đâm anh M thêm một nhát. Mặt khác, trước đó (vào ngày 13/6/2018) cũng chỉ vì mâu thuẫn nhỏ nhặt, bị cáo cũng đã dùng dao gây thương tích cho anh L. Các tình tiết vừa nêu thể hiện bị cáo là người có bản tính hung hăng, luôn có ý thức sẵn sàng dùng vũ lực để giải quyết mâu thuẫn. Đây là dấu hiệu của việc phạm tội có tính chất côn đồ.

[5].Căn cứ các nhận định đã nêu, đối chiếu với quy định của pháp luật, có đủ cơ sở để kết luận bị cáo đã phạm tội “Giết người” theo điểm n khoản 1 Điều 123 Bộ luật hình sự năm 2015; phạm tội “Cố ý gây thương tích” theo điểm c khoản 3 Điều 134 của Bộ luật hình sự năm 2015.

[6].Về mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội, đặc điểm nhân thân, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, hình phạt cần áp dụng đối với bị cáo:

Hành vi của bị cáo là đặc biệt nguy hiểm.

Bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải; sau khi phạm tội đã ra đầu thú. Hoàn cảnh gia đình có 1 con nhỏ sinh năm 2013. Đối với việc phạm tội “Giết người”, có một phần lỗi của bị hại M đó là đã dùng dao tấn công bị cáo trước ở trong trạng thái đã có sử dụng chất ma túy (qua xét nghiệm, trong máu của bị hại M có Methamphetamine), gây kích động tinh thần bị cáo. Sau khi gây án, bị cáo đã cùng anh T đưa bị hại M đến cơ sở y tế để cấp cứu và ngày hôm sau ra đầu thú. Trong quá trình điều tra, bị cáo đã tác động đến gia đình để bồi thường cho gia đình anh M 130.000.000đ; bồi thường cho anh L 150.000.000đ; cha, mẹ đẻ của anh M và anh L đã làm đơn bãi nại. Do vậy, cần áp dụng điểm b, e và s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự để giảm nhẹ trách nhiệm hình sự cho bị cáo.

Căn cứ tính chất, mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội, đặc điểm nhân thân, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự như đã được phân tích, cần có hình phạt tương xứng đối với từng tội danh.

Bị cáo phạm nhiều tội. Do vậy, cần áp dụng Điều 50 Bộ luật hình sự năm 2015 để tổng hợp hình phạt, buộc các bị cáo phải chấp hành hình phạt chung.

[7].Các nhận định đã nêu tại mục [4], [5] và [6] cũng là căn cứ để chấp nhận hoặc không chấp nhận một phần nội dung bào chữa của luật sư.

[8].Về các biện pháp tư pháp, xử lý vật chứng:

Về trách nhiệm bồi thường thiệt hại: Trong quá trình điều tra, bị hại, đại diện bị hại không yêu cầu bị cáo phải bồi thường gì thêm, Hội đồng xét xử ghi nhận.

Trong quá trình điều tra, Cơ quan điều tra có thu giữ 01 con dao, 01 mắt kính bị bể gọng màu đen và 01 mẫu vật dính chất màu nâu đỏ đen. Những vật đã nêu là vật đã được sử dụng làm công cụ phạm tội, vật mang dấu vết tội phạm nhưng không còn sử dụng được. Do vậy, căn cứ Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự, cần tịch thu tiêu hủy.

[9].Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định tại Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Quốc Hội.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ điểm n khoản 1 Điều 123, điểm c khoản 3 Điều 134, điểm b, e và s khoản 1, khoản 2 Điều 51, khoản 1 Điều 55 Bộ luật hình sự năm 2015, đã được sửa đổi, bổ sung năm 2017; Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015,

1.Xử phạt bị cáo Trần Châu H 13 (mười ba) năm tù về tội “Giết người”, 7 (bảy) năm tù về tội “Cố ý gây thương tích”; tổng hợp hình phạt, buộc bị cáo phải chấp hành hình phạt chung là 20 (hai mươi) năm thời hạn tù tính từ ngày 25/11/2018.

2.Về các biện pháp tư pháp và xử lý vật chứng:

Ghi nhận việc anh Nguyễn Trúc L, bà Phan Thị Q và ông Trương T R không yêu cầu bị cáo phải bồi thường gì thêm.

Tịch thu tiêu hủy:

-01 con dao dài khoảng 21cm, cán có quấn băng keo dài khoảng 10cm, lưỡi dao bằng kim loại màu trắng dài khoảng 11cm, bản lưỡi chỗ rộng nhất có kích thước là 1,7cm, mũi nhọn;

+01 mắt kính bị bể gọng màu đen;

+03 mẫu vật dính chất màu nâu đỏ đen.

(Những vật chứng đã nêu hiện đang được lưu giữ tại Cục Thi hành án dân sự Thành phố Hồ Chí Minh theo biên bản giao nhận tang tài vật 449/19 ngày 12/9/2019 giữa Cục Thi hành án Thành phố Hồ Chí Minh và PC02 Công an Thành phố Hồ Chí Minh) 3.Bị cáo phải chịu 200.000đ án phí hình sự sơ thẩm.

4.Bị cáo và các đương sự được quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Đương sự vắng mặt tại phiên tòa được quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày được giao bản án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

37
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội giết người số 502/2019/HS-ST

Số hiệu:502/2019/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Hồ Chí Minh
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 27/11/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về