Bản án về tội giết người số 44/2022/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH HÀ NAM

BẢN ÁN 44/2022/HS-ST NGÀY 23/09/2022 VỀ TỘI GIẾT NGƯỜI

Ngày 23 tháng 9 năm 2022, tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Hà Nam xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số 31/2022/TLST-HS ngày 13/7/2022, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 34/2022/QĐXXST-HS ngày 09/8/2022, Quyết định hoãn phiên tòa số 17/2022/HSST-QĐ ngày 24/8/2022 và Thông báo mở lại phiên tòa số 04/2022.HSST-TB ngày 07/9/2022, đối với:

1/ Bị cáo: Lê Văn H1; Tên gọi khác: không có; sinh năm 1994 tại Hà Nam; Nơi cư trú: thôn 2, xã C, huyện L, tỉnh Hà Nam; Nghề nghiệp: lao động tự do; Trình độ văn hóa: 10/12 (tại phiên tòa bị cáo khai 9/12); Giới tính: nam; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: không; Con ông Lê Văn C, sinh năm 1964 và bà Trần Thị G, sinh năm 1963 (đã chết); Gia đình có 04 chị em, bị cáo là thứ ba; Vợ: Nguyễn Thị Kim L, sinh năm 1996; Có 01 con, sinh năm 2017; Tiền án, tiền sự: không. Bị cáo đầu thú ngày 9/4/2022, bị tạm giữ đến ngày 12/4/2022 chuyển tạm giam. Hiện đang tạm giam tại Trại tạm giam Công an tỉnh Hà Nam; Có mặt.

2/ Bị cáo: Đinh Ánh D; Tên gọi khác: không có; sinh năm 2001 tại Hà Nam; Nơi cư trú: thôn T, xã H, huyện L, tỉnh Hà Nam; Nghề nghiệp: lao động tự do; Trình độ văn hóa: 9/12; Giới tính: nam; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không; Con ông Đinh Văn K, sinh năm 1971 và bà Đỗ Thị T, sinh năm 1976; Vợ con: chưa có; Tiền án, tiền sự: không. Bị cáo đầu thú ngày 29/5/2022, bị tạm giữ đến ngày 01/6/2022 chuyển tạm giam. Hiện đang tạm giam tại Trại tạm giam Công an tỉnh Hà Nam; Có mặt.

- Người bào chữa cho bị cáo Lê Văn H1 và Đinh Ánh D: Ông Trần Trọng T - Luật sư của Công ty Luật TNHH H thuộc Đoàn luật sư tỉnh Hà Nam; Có mặt.

- Bị hại: Anh Trần Phương A, sinh năm 1991 (đã chết);

- Người đại diện hợp pháp của bị hại gồm: Bà Nguyễn Thị D, sinh năm 1958; chị Nguyễn Thị H, sinh năm 1993; cháu Trần Quang A, sinh năm 2013 và cháu Trần Quỳnh A, sinh năm 2015; cùng nơi cư trú: xóm 4, thôn Đ, xã N, huyện L, tỉnh Hà Nam; Có mặt chị H.

- Người đại diện theo ủy quyền: Bà Nguyễn Thị D, sinh năm 1958; nơi cư trú: Xóm 4, thôn Đ, xã N, huyện L, tỉnh Hà Nam; Có mặt.

- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án: NLQ1, sinh năm 1964; Nơi cư trú: thôn 2, xã C, huyện L, tỉnh Hà Nam; NLQ2, sinh năm 1969; Nơi cư trú: thôn T, xã H, huyện L, tỉnh Hà Nam; Đều có mặt.

- Người làm chứng: NLC1, sinh năm 1999; NLC2, sinh năm 1999; NLC3, sinh năm 1996; NLC4, sinh năm 1964; NLC5, sinh năm 1963; NLC6, sinh năm 1999; NLC7, sinh năm 1991; NLC8, sinh năm 1998; NLC9, sinh năm 1996; Đều vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 23h30’ ngày 13/01/2021, Trần Phương A, sinh năm 1991, trú tại thôn Đ, xã N, huyện L điều khiển xe mô tô Dream, biển kiểm soát (BKS) 90F3 - X, NLC1 điều khiển xe mô tô Wave màu cam, BKS 90B3- X chở NLC2 NLC2 đi theo hướng từ Ủy ban nhân dân huyện Lý Nhân về ngã tư Vĩnh Trụ (giao giữa đường Trần Hưng Đạo với đường Trần Nhân Tông) thuộc tổ dân phố Nam Cao, thị trấn Vĩnh Trụ, huyện Lý Nhân. Lúc này tại quán ốc của NLC7, sinh năm 1991, trú tại thôn 1 C, xã B, huyện B ở đầu ngã tư đối diện với tòa nhà Tiến L có Đỗ Chính H, Đinh Ánh D và Th, quê ở Phú Thọ (chưa xác định được nhân thân lai lịch) đang ngồi ăn đêm tại quán.

Khi NLC1, NLC2, Phương A đi đến, H chửi “Đ. mẹ mày”, nghe thấy chửi, NLC1 và Phương A dựng xe ở đường cùng NLC2 đi bộ về phía quán ốc chỗ H, D và Th đang ngồi. Khi vào tới quán ốc NLC1, NLC2 và Phương A dùng chân tay, ghế nhựa ở quán đánh H thì H, D và Th dùng bát sứ, bàn, ghế nhựa của quán đánh lại NLC1, NLC2 và Phương A. Lúc này anh Trần Quang B và vợ là NLC6, cùng sinh năm 1999 đều ở thôn M, xã N, huyện L điều khiển xe mô tô SH, BKS 90B3-X đi qua, do quen biết với Phương A và thấy có xô xát nên dừng lại để can ngăn.

Bị đánh, H điện thoại cho bạn đến hỗ trợ, NLC1 gọi điện thoại cho Trịnh Quốc H2 nói bị đánh ở ngã tư Vĩnh Trụ và bảo H2 mang gậy bóng chày ra, H2 điều khiển xe mô tô Exciter, BKS 90B1- X mang theo 03 gậy đánh bóng chày bằng kim loại, đi từ quán bia của anh Phạm Mạnh T ở thôn C, xã B, huyện B (giáp ranh thị trấn Vĩnh Trụ) đến ngã tư thị trấn Vĩnh Trụ, tới nơi H2 để gậy bóng chày ở bên cạnh xe. Lúc này anh H2g Minh S, sinh năm 1992 trú tại thôn 1, xã Chính Lý, huyện Lý Nhân điều khiển xe mô tô SH màu đỏ đi đến, thấy H và Phương A đang cãi chửi nhau, anh H2g Minh S dựng xe ở đường đến can ngăn.

Đào Phan Ngọc L, điều khiển xe mô tô Liberty, BKS 90B1- X đi từ nhà ở xã Nhân Chính theo đường cứu hộ, cứu nạn đến ngã ba rẽ vào đường QL 38, đi tiếp khoảng 01 km đến gần ngã tư giao nhau với đường đi cầu Thái Hà, gặp Lê Văn H1 mang theo một bao đựng hung khí và 02 dao phóng lợn đang đứng chờ. L chở H1 mang theo hung khí đến thị trấn Vĩnh Trụ. Đến nơi L, H1 để xe mô tô trong ngõ đối diện với Bưu điện huyện Lý Nhân, cách ngã tư thị trấn Vĩnh Trụ khoảng 100m, H1 cầm 02 chiếc dao phóng lợn chạy theo hướng từ ngã tư gốc gạo về ngã tư thị trấn Vĩnh Trụ thấy H, D, Th đang cãi chửi nhau với Phương A, NLC2, NLC1.

H1 đi đến chỗ Phương A đứng, dùng chân đạp vào người, giơ dao phóng lợn lên chém Phương A nhưng không trúng làm rơi phần lưỡi dao bầu xuống mặt đường, D dùng chân tay đánh Phương A thì bị NLC2, NLC1 dùng gậy bóng chày đánh D. Lúc này, H nhặt lưỡi dao bầu cầm ở tay phải, tay trái túm vào người Phương A đâm 03 nhát, một nhát trúng vào đỉnh thái dương trái, một nhát vào lưng phải, một nhát vào bả vai trái Phương A. Khi đó, H1 một tay cầm một dao phóng lợn, một tay cầm một cán dao phóng lợn (đã bị rơi phần lưỡi dao bầu), nhưng bị H2 và anh H2g Minh S giữ lại, D bị đánh nên chạy ra giằng được một dao phóng lợn từ tay H1, D cùng H1 đang cầm một cán dao phóng lợn đuổi đánh NLC2, NLC1, Phương A.

Th cầm kiếm (kiểu kiếm nhật) đánh anh B nhưng được anh H2g Minh S can ngăn. Khi H dùng lưỡi dao bầu đâm Phương A thì bị NLC1, NLC2 mỗi người cầm một gậy bóng chày đánh lại H, H1, D và Th làm H bị rơi lưỡi dao bầu xuống đường. Thấy lưỡi dao bầu rơi, NLC1 nhặt lưỡi dao cầm ở tay và đưa gậy bóng chày cho Phương A. H thấy L cầm bao đựng hung khí đi trên vỉa hè, nên bảo L đưa bao đựng hung khí cho H, H lấy chiếc kiếm (dạng kiếm nhật) ở trong bao ra cùng H1, D, Th tiếp tục đuổi chém thì Phương A, NLC2, NLC1 chạy vào ngõ 125 đường Trần Hưng Đạo, thị trấn Vĩnh Trụ để trốn.

Lúc này, Trương Anh Th1, Nguyễn Văn T và nam thanh niên (chưa rõ nhân thân lai lịch) điều khiển xe ô tô hiệu Peugeot màu nâu vàng, BKS 90A- X mang theo hung khí đến ngã tư Vĩnh Trụ. Đến nơi, Th, T cầm kiếm từ trên xe ô tô xuống, H cầm kiếm, Th cầm kiếm, H1 cầm dao phóng lợn không có lưỡi dao, D cầm dao phóng lợn, nam thanh niên (lái xe) cầm kiếm tiếp tục đi tìm Phương A, NLC2, NLC1 để đánh nhưng không tìm thấy nên đã quay lại ngã tư Vĩnh Trụ. Thấy H2, H cho rằng H2 là người mang hung khí đến cho Phương A để đánh H, nên H xông vào dùng chân tay đánh H2, D sử dụng dao phóng lợn, Th dùng kiếm để chém H2 thì được anh B can ngăn. Sau đó, D đi xe mô tô chở H và Th đến nhà ông Đỗ Dư H4, sinh năm 1969 trú tại thôn 2, xã C, huyện L để khâu vết thương và bỏ trốn sau đó. NLC1 gọi điện cho Nguyễn Văn S1, sinh năm 1985 ở thôn 1, xã Nhân Nghĩa, huyện Lý Nhân đến đưa Phương A đi cấp cứu tại Bệnh viện huyện Lý Nhân, sau chuyển Bệnh viện đa khoa tỉnh Hà Nam, đến khoảng 01 giờ sáng ngày 14/01/2021 thì tử vong. Trần Quốc H2 bị thương phải vào viện điều trị, còn Th lên xe ô tô hiệu Tucson màu trắng để về xã H Lý. Các đối tượng khác sau khi gây án đã bỏ trốn khỏi địa phương.

Tiến hành khám nghiệm hiện trường, khám nghiệm tử thi, kết quả:

* Khám nghiệm hiện trường: Hiện trường vụ “Giết người; “Gây rối trật tự công cộng” xảy ra ngày 13/01/2021 tại quán ốc vỉa hè của NLC7 thuộc khu vực ngã tư giao nhau giữa đường Trần Hưng Đạo với đường Trần Nhân Tông và đường Trần Thánh Tông thuộc tổ dân phố Nam Cao, thị trấn Vĩnh Trụ, huyện Lý Nhân, tỉnh Hà Nam.

Trên phần vỉa hè phía trước cửa nhà sách nhân dân huyện Lý Nhân phát hiện nhiều dấu vết chất màu nâu đỏ dạng nhỏ giọt đã khô nghi máu và các mảnh nhựa màu xanh, đỏ và mảnh sứ vỡ nằm rải rác dọc trên vỉa hè và phần thoải vỉa hè với lòng đường trên diện (11,8x2,8)m, vị trí này được đánh số (01) và được niêm phong trong phong bì (kí hiệu H1).

Đường Trần Nhân Tông hướng đi xã Công Lý trên mặt đường tại khu vực vạch kẻ sơn cho người đi bộ phát hiện nhiều dấu vết chất màu nâu đỏ dạng nhỏ giọt đã khô nghi máu và nhiều mảnh giấy ăn ngấm chất màu nâu đỏ nghi máu nằm rải rác trên diện (2,5x1,5)m, vị trí này được đánh số (02) và được niêm phong trong phong bì (kí hiệu H2).

Trên phần đường Trần Hưng Đạo đi hướng UBND huyện Lý Nhân tại vị trí cách mép bên phải chiều đường đi UBND huyện Lý Nhân 4m phát hiện 01 đám chất màu đen dạng loang đã khô kích thước (KT) (0,4x0,2)m, vị trí này được đánh số (03).

Cùng trên mặt đường này phát hiện được 03 dấu vết gồm: Cách dấu vết số (03) về phía Đông Bắc 3,2m; cách mép đường bên phải chiều đường đi UBND huyện Lý Nhân 1,0m trên mặt đường phát hiện nhiều dấu vết màu nâu đỏ dạng nhỏ giọt đã khô nghi máu nằm rải rác trên diện (0,9x0,7)m, vị trí này được đánh số (04) và được niêm phong trong phong bì (kí hiệu H3).

Cách vị trí dấu vết số (04) về phía Đông nam 10m; cách mép đường bên phải chiều đường đi UBND huyện Lý Nhân 3,8m trên mặt đường phát hiện nhiều dấu vết màu nâu đỏ dạng nhỏ giọt đã khô nghi máu trên diện (0,3x0,2)m, vị trí này được đánh số (05) và niêm phong trong phong bì (kí hiệu H4).

Trên mặt đường phía trước cửa hàng “Thế giới di động” phát hiện 01 áo phông cổ tròn cộc tay màu đen, phần gấu áo phía sau bám dính chất dịch màu nâu đã khô trên diện (0,17x0,08)m; vị trí áo này được đánh số (06) và được niêm phong trong một hộp cattong (kí hiệu H5).

Ngõ 125 đường Trần Hưng Đạo có chiều dài 22,3m, rộng 1,8m. Dọc theo chiều dài ngõ 125 vào tới khu vực đổ vật liệu phát hiện nhiều dấu vết màu nâu đỏ dạng nhỏ giọt rải rác; tại vị trí khu đổ vật liệu xây dựng có nhiều dấu vết chất dịch màu nâu đỏ nghi máu hình thành từng đám dạng nhỏ giọt, thấm, chảy, chùi quệt rải rác trên diện (4x2)m; toàn bộ các dấu vết này được đánh số (07) và được niêm phong trong phong bì (kí hiệu H6).

Cách vị trí dấu vết số (07) về phía Đông 1,0 m phát hiện 01 bàn gỗ KT (1,2x0,6)m cao 0,8m; phía trên mặt bàn có nhiều đồ vật làm gương kính; 02 mũ dạng mũ lưới có lưỡi chai: 01 chiếc màu đen, 01 chiếc màu đỏ đen và 01 lưỡi dao kim loại dạng dao bầu mũi nhọn một lưỡi sắc đã qua sử dụng, bản rộng nhất 5cm, dài 18cm, phần chuôi có vết gãy mới, vị trí này được đánh số (08), lưỡi dao được niêm phong trong một hộp catton (kí hiệu H7). Cách dấu vết số (08) về phía Bắc 40m phát hiện 01 chiếc điện thoại di động Nokia màu đen; vị trí này được đánh số (09) và được niêm phong trong phong bì (kí hiệu H8).

Cách vị trí dấu vết số (09) về phía Bắc 15,5m trên đường mòn phát hiện 01 áo phông cộc tay cổ tròn màu đen, phía sau bám dính nhiều bụi bẩn và chất dịch màu nâu đỏ nghi máu còn ướt, vị trí áo này được đánh số (10) và được niêm phong trong một hộp catton (kí hiệu H9).

Cách vị trí dấu vết số (10) về phía Đông bắc 7,5m tại vị trí trên đường mòn giáp bờ ao phía Bắc phát hiện 01 vết trượt đất và lá tre, lá nhãn KT (0,6x0,3)m; bề mặt lá tre, nhãn phía trên vết trượt này có bám chất màu nâu đỏ (0,25x0,20)m, chất màu nâu đỏ trên bề mặt lá tre, nhãn được niêm phong trong phong bì (kí hiệu H10). Cạnh dấu vết trượt này về phía Đông phát hiện 01 gậy kim loại dạng gậy đánh bóng chày hình tròn, sơn màu đen dài 69,5cm một đầu to, một đầu nhỏ; đầu to đường kính 5cm, đầu nhỏ đường kính 4,5cm; thân gậy bám dính chất dịch màu nâu đỏ, toàn bộ vị trí này được đánh số (11), gậy đánh bóng chày được niêm phong trong hộp bìa catton (kí hiệu H11). Quá trình khám nghiệm hiện trường đã thu giữ các dấu vết màu nâu đỏ nghi máu tại vị trí số 01, 02, 04, 05, 07, 11; các mảnh nhựa, sứ vỡ; 01 lưỡi dao; 02 áo phông cộc tay; 02 mũ lưỡi trai; 01 điện thoại; 01 gậy kim loại.

* Khám nghiệm tử thi:

Nhận dạng tử thi: Tử thi Trần Phương A, chiều dài 1,59 m, đang ở giai đoạn lạnh tử thi rõ. Trên tử thi để lại các dấu vết sây sát sau: sây sát da vùng đỉnh lệch phải kích thước (1x0,6)cm hướng từ trên xuống dưới; sây sát da bờ dưới đầu trong cung mày trái KT (1,4x0,5)cm hướng từ dưới lên trên, chếch từ phải sang trái; sây sát da má phải KT (0,7x0,3)cm hướng từ dưới lên trên; sây sát da mặt trước ngoài 1/3 trên cánh tay phải KT (2,5x0,6)cm hướng từ trên xuống dưới, ngoài ra không thấy thương tích bên ngoài nào khác.

Các dấu vết, tổn thương trên cơ thể: Vết rách da vùng đỉnh thái dương trái KT (7x1,5)cm, mép gọn hướng từ trái sang phải, chếch từ trên xuống dưới. Vết rách da lưng phải mép gọn, KT (3,9x1)cm, khi khép mép kích thước (4,2x0,1)cm góc nhọn ở dưới, góc tù ở trên, hướng từ trước về sau chếch từ trên xuống dưới, ở khoang liên sườn 9-10 cách gai sau đốt sống lưng 4,5cm. Vết rách da bả vai trái mép gọn KT (2,5x0,9)cm, khi khép mép KT (2,9x0,1)cm, góc nhọn ở trên, góc tù ở dưới, hướng từ sau về trước, chếch từ dưới lên trên.

Mổ tử thi: Đầu tụ máu cơ thái dương và tổ chức dưới da vùng thái dương đỉnh trái KT (6,5x2,5)cm, vỡ bản ngoài xương thái dương đỉnh trái KT (2,7x0,1)cm. Hai phổi xẹp, hố phổi trái khô, hố phổi phải chứa khoảng 500ml dịch máu lẫn máu cục. Xuyên rách thùy đáy phổi phải KT (1,8x0,1)cm, mặt trước (1,6x0,2)cm. Bề mặt và rãnh liên thùy có chấm xuất huyết, diện cắt qua có dịch bọt màu hồng. Bụng: trong ổ bụng có khoảng 400ml máu. Rách cơ hoành KT (2,8x0,1)cm. Rách thùy gan phải KT (2,4x0,1x3)cm. Vết rách da vùng bả vai trái sâu gần hết lớp cơ vùng bả vai, tụ máu tổ chức dưới da KT (6x2,5)cm. Vết rách da vùng lưng phải ở khoang liên sườn 9-10. Tụ máu tổ chức dưới da và cơ KT (12x6)cm, thấu ngực, làm rách thùy đáy phổi phải, rách cơ hoành và rách thùy gan phải. Chiều sâu qua que thăm dò 8,5cm. Niêm mạc dạ dày sung huyết, trong dạ dày chứa khoảng 700g thức ăn chưa nhuyễn hóa lẫn nước.

Bản kết luận giám định số 04/21/TT ngày 09/02/2021 của Trung tâm Pháp y tỉnh Hà Nam kết luận:

1. Dấu hiệu chính qua giám định. Vết rách da lưng phải, thấu ngực - bụng do vật sắc nhọn, sống mảnh KT (12 x 06 x 8,5)cm, tác động với lực mạnh theo chiều từ sau ra trước, chếch từ trên xuống dưới, xuyên thùy đáy phổi phải, qua cơ hoành, rách thùy gan phải gây chảy nhiều máu trong hố phổi phải và ổ bụng.

Vết rách da và vỡ xương bản ngoài vùng thái dương, đỉnh trái do vật có cạnh sắc tác động theo chiều từ sau ra trước. Vết rách da bả vai trái do vật sắc nhọn, sống mảnh tác động theo chiều từ sau về trước, chếch từ dưới lên trên.

- Kết luận giám định Mô bệnh học: Chảy máu nhu mô gan, phổi, cơ hoành và da cơ.

- Kết luận giám định Hóa pháp: Có tìm thấy Ethanol trong mẫu máu với hàm lượng 183,84mg/100ml.

2. Nguyên nhân chết: Nạn nhân Trần Phương A tử vong do mất máu cấp và suy hô hấp cấp hậu quả của vết thương thấu ngực - bụng làm thủng phổi, rách cơ hoành và rách gan, trên người có hàm lượng Ethanol trong máu 183,84mg/100ml.

3. Thời gian chết: Sau bữa ăn cuối dưới 03 giờ; Đến thời điểm khám nghiệm dưới 6 giờ.

Bản kết luận giám định số 58/21/TC-ADN ngày 20/01/2021 của Viện Pháp y Quốc gia kết luận: “Thử định tính phát hiện nhanh vết máu người trên các mẫu gửi giám định ký hiệu H1, H2, H3, H4, H6, H7, H10: Dương tính. ADN thu từ các mẫu gửi giám định ký hiệu H1, H2 (mẫu giấy thấm dính vết màu nâu đỏ) là ADN của cùng một nam giới và không trùng với ADN của Trần Phương A. ADN thu từ mẫu gửi giám định ký hiệu H2 (miếng gạc y tế dính vết màu nâu) là ADN của một nam giới và không trùng với ADN của mẫu H1 và Trần Phương A. ADN thu từ các mẫu gửi giám định ký hiệu H3, H4, H6, H7, H10 trùng khớp hoàn toàn với ADN của Trần Phương A”.

Bản kết luận giám định số 43/46/62/21/ĐC ngày 25/01/2021 của Viện Pháp y Quốc gia kết luận: “Trong mẫu phủ tạng và máu vụ Trần Phương A, sinh năm 1991 do Cơ quan CSĐT- Công an tỉnh Hà Nam gửi tới giám định ngày 15/01/2021: Có tìm thấy Ethanol trong mẫu máu với hàm lượng 183,84mg/100ml. Không tìm thấy các độc chất”.

Ngày 14/01/2021 và ngày 21/01/2021, Cơ quan cảnh sát điều tra tiến hành rà soát và sao lưu dữ liệu hình ảnh Camera khu vực xảy ra vụ án sang USB và được niêm phong trong phong bì (ký hiệu từ U1 - U6). Kết quả kiểm tra dữ liệu thu giữ xác định: H2 đi xe mô tô hiệu Exciter mang theo gậy bóng chày đến ngã tư thị trấn Vĩnh Trụ; H1 (người đeo khẩu trang xanh) cầm 02 dao phóng lợn chạy theo hướng từ ngã tư gốc gạo đôi đến đánh Phương A và đuổi đánh NLC1, NLC2; H (mặc áo trắng) nhặt lưỡi dao bầu khi H1 đánh Phương A bị rơi để đâm Phương A nhiều nhát; L (mặc áo chữ M) cầm bao dạng túi đựng cần câu bên trong có kiếm đưa cho H để H lấy kiếm tiếp tục đuổi đánh Phương A; D mặc quần sáng màu, áo sáng màu có mũ, giằng được dao phóng lợn từ tay H1 đánh NLC2 và đuổi đánh Phương A; NLC1 cầm gậy bóng chày đánh H; NLC2 cầm gậy bóng chày đánh D; Th cầm kiếm đánh anh B (người can hai bên đánh nhau) sau đánh H2; Th1 (người râu dài), T cầm kiếm đi tìm để đánh Phương A, NLC2, NLC1; nam thanh niên cầm kiếm sau vứt kiếm xuống đường chạy về phía xe ô tô Peugeot là lái xe và nhiều hình ảnh có liên quan đến việc đuổi đánh nhau giữa hai bên.

Khai thác dữ liệu trong 01 USB do chị Nguyễn Thị H, sinh năm 1993 ở xóm 4, Đồng Phú, xã Nguyên Lý, huyện Lý Nhân (là vợ của Trần Phương A) gửi kèm theo đơn tố cáo thấy các dữ liệu trong USB phù hợp với các dữ liệu do Cơ quan điều tra đã thu thập.

Kiểm tra các điện thoại đã thu giữ của Trương Anh Th1, NLC2 NLC2, NLC1, Đào Phan Ngọc L, kết quả không phát hiện thấy có dữ liệu liên quan đến nội dung vụ án.

Kết quả nhận dạng ảnh: ngày 07/5/2021, Cơ quan điều tra lập bản ảnh nhận dạng để Trương Anh Th1 và Đào Phan Ngọc L nhận dạng đối với Đinh Ánh D, Lê Văn H1 và Nguyễn Văn T. Kết quả, Đào Phan Ngọc L nhận được ảnh số 01 là Đinh Ánh D, người ở xã H, huyện L; ảnh số 03 là Lê Văn H1 (H1 Chí), sinh năm 1994 ở xã C, huyện L; ảnh số 06 là T (T Cần), sinh năm 1998 ở thôn C, xã B, huyện B. Trương Anh Th1 nhận được ảnh số 01 là Đinh Ánh D, ảnh số 06 là T (T Cần), ở xã B, huyện B.

Ngày 16/11/2021, Cơ quan điều tra ra lệnh truy nã đối với Lê Văn H1 và Đinh Ánh D. Ngày 9/4/2022 Lê Văn H1 và ngày 25/5/20022 Đinh Ánh D đến Cơ quan điều tra đầu thú, khai nhận hành vi phạm tội của mình.

Các vật chứng của vụ án đã được xử lý ở bản án trước đối với Đỗ Chính H và đồng phạm. Đối với 01 chiếc điện thoại di động hiệu Iphone X màu trắng, mặt sau của máy dán màu hồng, ốp ngoài màu đen không có sim trên xe ô tô BKS 90A-X được niêm phong trong phong bì (ký hiệu X1), tài liệu điều tra xác định của bị can Đinh Ánh D, không liên quan đến vụ án.

Về trách nhiệm dân sự: Quá trình giải quyết vụ án ở giai đoạn trước đại diện gia đình bị cáo Đỗ Chính H, Đào Phan Ngọc L đã thoả thuận với chị Nguyễn Thị H, sinh năm 1993 (vợ anh Trần Phương A) và bà Nguyễn Thị D, sinh năm 1958 (người đại diện theo ủy quyền của chị H) bồi thường thiệt hại và các chi phí khác tổng số tiền là 400.000.000 đồng. Tại phiên tòa hôm nay, người đại diện theo ủy quyền và người đại diện của bị hại xác định đã thỏa thuận với gia đình bị cáo H1, D bồi thường tiếp tổng số tiền 100.000.000 đồng.

Cáo trạng số 42/CT-VKS-P2 ngày 12 tháng 7 năm 2022 của Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Hà Nam đã truy tố Lê Văn H1 và Đinh Ánh D về tội “Giết người” quy định tại điểm n khoản 1 Điều 123 Bộ luật hình sự.

Quan điểm của Kiểm sát viên tại phiên tòa giữ nguyên quyết định truy tố, đề nghị Hội đồng xét xử: Tuyên bố các bị cáo Lê Văn H1 và Đinh Ánh D phạm tội “Giết người”. Áp dụng điểm n khoản 1 Điều 123; điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 17; Điều 38; Điều 50; Điều 54; Điều 58 Bộ luật hình sự; xử phạt bị cáo Lê Văn H1 từ 11 năm tù đến 12 năm tù; bị cáo Đinh Ánh D từ 10 năm tù đến 11 năm tù. Không áp dụng hình phạt bổ sung đối với các bị cáo. Về trách nhiệm dân sự: Ghi nhận sự thỏa thuận của các bị cáo và gia đình với Người đại diện hợp pháp của bị hại về việc đã bồi thường xong tổng số tiền là 100.000.000 đồng.

Xử lý vật chứng: Áp dụng Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự, trả lại cho bị cáo Đinh Ánh D 01 chiếc điện thoại di động Iphone X màu vàng trắng, bên trong không có sim do không liên quan đến tội phạm, nhưng tạm giữ để đảm bảo thi hành án.

Quan điểm của Luật sư bào chữa cho bị cáo Lê Văn H1 và bị cáo Đinh Ánh D xác định: Trước hết nhất trí với quan điểm của đại diện Viện kiểm sát về tội danh đối với các bị cáo. Bị cáo Lê Văn H1 và Đinh Ánh D giai đoạn điều tra và tại phiên tòa đều thành khẩn khai nhận hành vi phạm tội, ăn năn hối cải, có tác động gia đình bồi thường tiếp cho gia đình bị hại, đều ra đầu thú, bị hại cũng có lỗi trong vụ xô sát đánh nhau, hai bị cáo đều có thân nhân có công với đất nước, được tặng thưởng Huân, huy chương. Vì vậy đề nghị Hội đồng xét xử cho hai bị cáo được hưởng các tình tiết giảm nhẹ tại điểm b, s khoản 1 và khoản 2 Điều 51 và Điều 54 Bộ luật hình sự, xử mức án thấp hơn mức đề nghị của đại diện Viện kiểm sát.

Bị cáo H1, D nhất trí ý kiến của Luật sư và không bổ sung gì thêm.

Các bị cáo nhất trí quan điểm của Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Hà Nam, không có ý kiến tranh luận.

Người đại diện hợp pháp cho bị hại và Người đại diện theo ủy quyền đề nghị Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt cho các bị cáo. Về trách nhiệm bồi thường thiệt hại, xác nhận đã thỏa thuận với gia đình bị cáo H1, bị cáo D bồi thường xong tổng số tiền 100.000.000 đồng.

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án nhất trí quan điểm của Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Hà Nam, không có ý kiến tranh luận. Xác nhận mỗi gia đình đã bồi thường xong cho gia đình bị hại số tiền 50.000.000 đồng.

Bị cáo Lê Văn H1 và Đinh Ánh D nói lời sau cùng, đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về tố tụng: Sau khi Thẩm phán ban hành Quyết định đưa vụ án ra xét xử, đại diện gia đình bị cáo H1 (NLQ1) và bị cáo D (NLQ2) tiếp tục thỏa thuận bồi thường cho gia đình bị hại và được gia đình bị hại xác nhận tại phiên tòa. Do vậy, Hội đồng xét xử bổ sung người tham gia tố tụng với tư cách là Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án đối với NLQ1 và NLQ2.

Theo Quyết định bổ sung Hội thẩm nhân dân số 05/2022/QĐ-TA ngày 19/8/2022, bổ sung ông Trần Tặng là Hội thẩm nhân dân tham gia Hội đồng xét xử; Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử sơ thẩm số 34/2022/QĐXXST-HS ngày 09/8/2022 thì Luật sư (chỉ định) bào chữa cho bị cáo Lê Văn H1 là ông Nguyễn Đình Th; Luật sư (chỉ định) bào chữa cho bị cáo Đinh Ánh D là ông Trần Trọng T; đều là Luật sư thuộc Công ty Luật TNHH H, Đoàn Luật sư tỉnh Hà Nam. Tuy nhiên ngày 22/9/2022 Công ty Luật TNHH H có Công văn số 229/2022/LHN về việc thay đổi luật sư bào chữa, nội dung đề nghị thay đổi Luật sư Nguyễn Đình Th (đã chỉ định) bào chữa cho bị cáo Lê Văn H1 bằng Luật sư (chỉ định) Trần Trọng T cũng thuộc Công ty Luật TNHH H, Đoàn Luật sư tỉnh Hà Nam. Việc thay đổi Hội thẩm nhân dân và Luật sư (chỉ định) bào chữa cho bị cáo Lê Văn H1 được các bị cáo, Luật sư nhất trí tại phiên tòa và đại diện Viện kiểm sát nhất trí nên Hội đồng xét xử căn cứ quy định của pháp luật, tiếp tục xét xử vụ án.

[2] Về hành vi, Quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an tỉnh Hà Nam, Điều tra viên; Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Hà Nam, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố và tại phiên tòa, các bị cáo và những người tham gia tố tụng không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng thực hiện đều hợp pháp.

[3] Về tội danh, tính chất mức độ tội phạm:

Về tội danh: Tại giai đoạn điều tra, bị cáo Lê Văn H1 thừa nhận hành vi phạm tội, chỉ không thừa nhận hành vi cầm dao phóng lợn đuổi chém bị hại; tại phiên tòa, bị cáo Lê Văn H1 thay đổi thái đô khai báo, thừa nhận việc mang theo dao phóng lợn đến nơi xảy ra xô sát, có hành vi đạp và đuổi chém anh Phương A; bị cáo Đinh Ánh D tại giai đoạn điều tra và tại phiên tòa đều thành khẩn nhận tội; lời khai nhận hành vi phạm tội của bị cáo H1, D phù hợp với Biên bản khám nghiệm hiện trường, Biên bản khám nghiệm tử thi, các Kết luận giám định, vật chứng thu giữ, lời khai của các bị cáo khác trong vụ án đã đưa ra xét xử, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan đến vụ án, những người làm chứng, kết quả trích xuất dữ liệu điện tử, điện thoại, trình chiếu hỉnh ảnh tại phiên tòa và các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án.

Có đủ cơ sở kết luận: Khoảng 23h30’ ngày 13/01/2021, tại khu vực ngã tư thị trấn Vĩnh Trụ, huyện Lý Nhân; NLC1, Trần Phương A, NLC2 NLC2 xảy ra xô sát đánh nhau với Đỗ Chính H, Đinh Ánh D và đối tượng tên Th. Sau đó H, NLC1 đã gọi điện cho Trần Quốc H mang 03 gậy bóng chày bằng bằng kim loại đến hỗ trợ; Lê Văn H1 được Đào Phan Ngọc L đèo mang theo 02 dao phóng lợn và một túi đựng kiếm đến, H1 dùng chân đạp và dùng dao phóng lợn chém về phía Phương A làm cho lưỡi dao rơi xuống đường. H nhặt lưỡi dao bầu cầm ở tay phải, tay trái túm vào người, đâm liên tiếp 03 nhát trúng đỉnh thái dương trái, lưng phải, bả vai trái Phương A. D dùng chân tay đánh Phương A thì bị NLC2, NLC1 dùng gậy bóng chày đánh nên D chạy ra giằng được một dao phóng lợn từ H1 và cùng H1 đuổi đánh NLC2, NLC1, Phương A. Th cầm kiếm đánh anh B nhưng được can ngăn. Khi H đâm Phương A thì bị NLC1, NLC2 dùng gậy bóng chày đánh làm H bị rơi lưỡi dao xuống đường. NLC1 nhặt lưỡi dao cầm ở tay và đưa gậy bóng chày cho Phương A để đánh lại. Thấy L cầm bao đựng kiếm đến H bảo và lấy kiếm cùng H1, D, Th tiếp tục đuổi chém Phương A, NLC2, NLC1 nhưng không chém được. Lúc này, Trương Anh Th1, Nguyễn Văn T và nam thanh niên điều khiển xe ô tô Peugeot, BKS 90A- X mang theo hung khí đến, đến nơi Th, T cầm kiếm từ xe ô tô xuống, H cầm kiếm, Th cầm kiếm, H1 cầm dao phóng lợn không có lưỡi, D cầm dao phóng lợn tiếp tục đi tìm Phương A, NLC2, NLC1 để đánh nhưng không thấy nên đã quay lại ngã tư Vĩnh Trụ. Thấy H2, H tiếp tục dùng chân tay đánh H2, D sử dụng dao phóng lợn, Th dùng kiếm để chém H2 thì được can ngăn. Phương A được đưa đi cấp cứu đến khoảng 01 giờ ngày 14/01/2021 thì tử vong.

Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Hà Nam truy tố bị cáo Lê Văn H1, Đinh Ánh D phạm tội “Giết người” tại điểm n khoản 1 Điều 123 Bộ luật Hình sự là có căn cứ, đúng pháp luật.

Tính chất, mức độ tội phạm do các bị cáo gây ra: trong vụ án lôi kéo đông người tham gia, dùng hung khí nguy hiểm là dao phóng lợn, kiếm chém vào các vùng trọng yếu của cơ thể (ngực, đầu) dẫn đến cái chết của bị hại, thể hiện tính chất côn đồ, xâm phạm quyền được bảo vệ tính mạng, là đặc biệt nguy hiểm cho xã hội, tác động rất xấu đến trật tự, trị an địa phương, gây hoang mang, phẫn nộ trong nhân dân, nhất là thời gian gần đây tội phạm giết người trên địa bàn tỉnh có chiều hướng gia tăng và diễn biến phức tạp. Do vậy, cần phải xử lý nghiêm, áp dụng hình phạt thỏa đáng, tương xứng vai trò, tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội, cũng như nhân thân, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ của từng bị cáo nhằm cải tạo, giáo dục riêng; đồng thời để các bị cáo thấy đó làm bài học cảnh tỉnh và phòng ngừa chung cho toàn xã hội.

[4] Vai trò của từng bị cáo: Đây là vụ án đồng phạm, trong đó Đỗ Chính H giữ vai trò đầu vụ, là người gọi điện cho bạn đến hỗ trợ và trực tiếp dùng dao phóng lợn đâm ba nhát dẫn đến người bị hại tử vong. Lê Văn H1 và Đinh Ánh D đồng phạm với Đỗ Chính H về hành vi giết người, trong đó H1 là người mang hung khí đến để Đỗ Chính H sử dụng đâm nhiều nhát dẫn đến cái chết của anh Trần Phương A và bản thân H1 cũng thực hiện hành vi chém bị hại nên có vai trò sau H nhưng cao hơn Đinh Ánh D.

[5] Về nhân thân, tình tiết giảm nhẹ, tăng nặng trách nhiệm hình sự.

Về nhân thân: Bị cáo Lê Văn H1, Đinh Ánh D đều có nhân thân tốt, không có tiền án, tiền sự.

Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Quá trình điều tra bị cáo Đinh Ánh D và tại phiên tòa các bị cáo Lê Văn H1, Đinh Ánh D đều thành khẩn khai báo, có thái độ ăn năn hối cải nên được hưởng tình tiết giảm nhẹ tại điểm s khoản 1 Điều 51; các bị cáo H1, D và gia đình bồi thường tiếp cho gia đình bị hại tổng số tiền 100.000.000 đồng nên được hưởng tình tiết giảm nhẹ tại điểm b khoản 1 Điều 51; sau khi thực hiện tội phạm, bị cáo H1, D ra đầu thú; đại diện hợp pháp của bị hại và đại diện theo ủy quyền đều có đơn và tại phiên tòa đề nghị giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo H1, D; gia đình bị cáo H1 có đơn trình bày hoàn cảnh khó khăn (có xác nhận của chính quyền địa phương) và tài liệu xác định bị cáo tham gia quân ngũ từ tháng 9/2012 đến tháng 01/2014, có ông nội là ông Lê Văn Kh tham gia dân công hỏa tuyến được hưởng chế độ chính sách, được tặng Bằng khen của Chủ tịch UBND tỉnh Hà Nam, ông ngoại là ông Đỗ Văn Đ được tặng 01 Huy chương kháng chiến hạng Nhì; bị cáo Đinh Ánh D có đơn trình bày hoàn cảnh khó khăn (có xác nhận của chính quyền địa phương) và có ông nội là ông Đinh Văn Ch có công với đất nước, được tặng thưởng 01 Huân chương chiến sỹ giải phóng hạng Nhất, 01 Huân chương chiến sỹ giải phóng hạng nhì nên đều được hưởng thêm các tình tiết giảm nhẹ tại khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự. Ngoài ra trong vụ án cũng có một phần lỗi của nhóm phía bị hại và bị hại, giữa hai bị cáo và bị hại không có mâu thuẫn với nhau và hai bị cáo không trực tiếp gây nên cái chết của bị hại.

Về tình tiết tăng nặng: Các bị cáo đều không phải chịu tình tiết tăng nặng nào quy định tại Điều 52 Bộ luật Hình sự.

[6] Về hình phạt:

Hình phạt chính: Ngoài các bị cáo khác trong vụ án đã được xét xử tại bản án trước đó (bị cáo Đỗ Chính H bị xử phạt 20 năm tù); xem xét toàn diện vụ án, tính chất mức độ, nguyên nhân tội phạm; vai trò, nhân thân, các tình tiết giảm nhẹ và tăng nặng trách nhiệm hình sự của từng bị cáo; ý kiến của đại diện Viện kiểm sát, Luật sư; Hội đồng xét xử xác định hành vi của các bị cáo như đã phân tích nêu trên cần được xử lý nghiêm, buộc các bị cáo phải chịu mức hình phạt tù tương xứng hành vi phạm tội và vai trò của từng bị cáo. Tuy nhiên, xét vai trò của hai bị cáo là đồng phạm, được hưởng nhiều tình tiết giảm nhẹ tại điểm b, s khoản 1 và nhiều tình tiết giảm nhẹ tại khoản 2 Điều 51; không có tình tiết tăng nặng nên đủ điều kiện áp dụng Điều 54 Bộ luật hình sự, xử phạt các bị cáo mức án tù dưới khung hình phạt, cách ly bị cáo khỏi xã hội một thời gian để giáo dục, cải tạo và phòng ngừa tội phạm.

Về hình phạt bổ sung: Không áp dụng hình phạt bổ sung đối với các bị cáo.

[7] Về trách nhiệm dân sự: Ngày 21/8/2021, đại diện gia đình các bị cáo H, L đã bồi thường cho gia đình bị hại tổng số tiền 400.000.000đ (gia đình bị cáo H bồi thường 350.000.000 đồng; gia đình bị cáo L bồi thường 50.000.000 đồng). Trước thời điểm xét xử vụ án này, gia đình bị hại có đơn yêu cầu mỗi bị cáo bồi thường 50.000.000 đồng, tổng là 100.000.000 đồng. Các bị cáo và gia đình các bị cáo H1, D đã thỏa thuận với đại diện gia đình bị hại bồi thường xong số tiền trên được đại diện hợp pháp của bị hại xác nhận.

[8] Về xử lý vật chứng: Đối với vật chứng là 01 chiếc điện thoại di động hiệu Iphone X màu vàng trắng, bên trong không có sim của Đinh Ánh D do không liên quan đến tội phạm nên trả lại cho bị cáo Đinh Ánh D, nhưng tạm giữ lại để đảm bảo thi hành án.

[9] Về các hành vi khác trong vụ án:

Đối với người tên Th, quá trình điều tra, truy tố, xét xử Đỗ Chính H khai quê ở Phú Thọ là bạn Đinh Ánh D; tuy nhiên D tại giai đoạn điều tra và tại phiên tòa hôm nay không thừa nhận mà khai Th là bạn của H. Đề nghị Cơ quan điều tra tiếp tục áp dụng các biện pháp điều tra làm rõ để xử lý theo quy định của pháp luật.

[10] Về án phí: Buộc các bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

1. Về hình sự: Căn cứ điểm n khoản 1 Điều 123; điểm b, s, khoản 1 khoản 2 Điều 51; Điều 50; Điều 17; Điều 38; Điều 47; Điều 48; Điều 54; Điều 58 Bộ luật Hình sự; Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự: Tuyên bố bị cáo Lê Văn H1 và Đinh Ánh D phạm tội “Giết người”.

Xử phạt:

- Lê Văn H1 11 (Mười một) năm tù. Thời hạn tù tính từ ngày 09 tháng 4 năm 2022.

- Đinh Ánh D 10 (Mười) năm tù. Thời hạn tù tính từ ngày 29 tháng 5 năm 2022.

2. Trách nhiệm bồi thường thiệt hại: Ghi nhận sự thỏa thuận của các bị cáo, gia đình các bị cáo và Người đại diện hợp pháp của bị hại và Người ủy quyền về việc mỗi gia đình bị cáo đã bồi thường xong số tiền 50.000.000 đồng, tổng cộng là 100.000.000 đồng.

3. Xử lý vật chứng: trả lại cho bị cáo Đinh Ánh D 01 chiếc điện thoại di động hiệu Iphone X màu vàng trắng, bên trong không có sim là của Đinh Ánh D do không liên quan đến tội phạm nhưng tạm giữ để đảm bảo thi hành án.

(Tình trạng vật chứng như biên bản giao, nhận vật chứng giữa Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an tỉnh Hà Nam và Cục thi hành án dân sự tỉnh Hà Nam ngày 12 tháng 8 năm 2022).

4. Án phí hình sự sơ thẩm: Căn cứ khoản 2 Điều 135, khoản 2 Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án: Buộc bị cáo Lê Văn H1 và Đinh Ánh D mỗi bị cáo phải nộp 200.000 đồng (Hai trăm nghìn đồng).

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.

Án xử công khai sơ thẩm báo cho bị cáo, Người đại diện hợp pháp của bị hại và Người đại diện theo ủy quyền; Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án có mặt tại phiên tòa được quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

112
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội giết người số 44/2022/HS-ST

Số hiệu:44/2022/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Hà Nam
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 23/09/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về