Bản án về tội giết người số 403/2021/HS-PT

TOÀ ÁN NHÂN DÂN CẤP CAO TẠI HÀ NỘI

BẢN ÁN 403/2021/HS-PT NGÀY 27/09/2021 VỀ TỘI GIẾT NGƯỜI

Ngày 27 tháng 9 năm 2021, tại trụ sở Tòa án nhân dân cấp cao tại Hà Nội, Tòa án nhân dân cấp cao tại Hà Nội xét xử phúc thẩm công khai vụ án hình sự phúc thẩm thụ lý số 622/2021/TLPT-HS ngày 22 tháng 7 năm 2021 do có kháng cáo của các bị cáo đối với Bản án hình sự sơ thẩm số 184/2021/HS-ST ngày 18 tháng 6 năm 2021 của Tòa án nhân dân thành phố Hà Nội.

Các bị cáo có kháng cáo:

1. Ngân Văn H; sinh năm 1997, tại Thanh Hóa; giới tính: Nam; nơi cư trú: Thôn C, xã C, N, Thanh Hóa; nơi ở khi phạm tội: Thôn Y, xã Đ, huyện C, Hà Nội; quốc tịch: Việt Nam; dân tộc: Thái; tôn giáo: Không; trình độ học vấn: Không đi học; nghề nghiệp: Lao động tự do; con ông Ngân Văn B (không rõ nhân thân, địa chỉ) và bà Lục Thị T; gia đình có 03 anh em, bị cáo là con lớn nhất; chưa có vợ, con; chưa có tiền án, tiền sự; bị bắt khẩn cấp và tạm giữ, tạm giam từ ngày 04/9/2020, tại Trại tạm giam số 2- Công an thành phố H; có mặt.

2. Ngân Văn H1; sinh ngày 15/3/2000, tại Thanh Hóa; giới tính: Nam; nơi cư trú: Thôn C, xã C, N, Thanh Hóa; nơi ở khi phạm tội: Thôn Y, xã Đ, huyện C, Hà Nội; quốc tịch: Việt Nam; dân tộc: Thái; tôn giáo: Không; trình độ học vấn: 07/12; nghề nghiệp: Lao động tự do; tham gia Đảng phái, đoàn thể: Không; con ông Ngân Văn B (không rõ nhân thân, địa chỉ) và bà Lục Thị T; gia đình có 03 anh em, bị cáo là con thứ hai, (là em trai của bị cáo Ngân Văn H); chưa có vợ, con; chưa có tiền án, tiền sự; bị bắt khẩn cấp và tạm giữ, tạm giam từ ngày 04/9/2020, tại Trại tạm giam số 2- Công an thành phố H; có mặt.

Người bào chữa cho các bị cáo: Luật sư Hoàng Ngọc Thanh B1 – Văn phòng L1, Đoàn Luật sư thành phố H; có mặt.

Trong vụ án còn có 02 bị cáo, 01 người đại diện hợp pháp cho bị hại không có kháng cáo và không bị kháng cáo, kháng nghị, Tòa án không triệu tập.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Trưa ngày 02/9/2020, nhóm công nhân của Hợp tác xã sản xuất gạch Đông Phương Y (địa chỉ: Thôn Y, xã Đ, C, Hà Nội) tổ chức liên hoan và uống rượu tại khu nhà ở của công nhân. Khoảng 20 giờ 15 phút cùng ngày, ông Lường Khắc T1 chơi bài tiến lên miền nam với anh Lữ Văn T2 tại phòng nghỉ của công nhân. Trong quá trình chơi bài, ông T1 và anh T2 xảy ra mâu thuẫn, cãi chửi nhau và ông T1 lấy một con dao (dạng gọt hoa quả nhãn hiệu KIWI, dài 22 cm, mũi nhọn, lưỡi bằng kim loại, chuôi bằng nhựa màu vàng) đâm anh T2 01 nhát vào vùng ngực phải và 01 nhát vào vùng hạ sườn phải thì anh Lê Văn H2 phát hiện và đã lao vào ôm giữ hai tay ông T1 và hô hoán can ngăn. Ngân Văn H1 và Lương Văn H3 (đang ở ngoài sân) chạy vào, H1 vào giữ tay phải ông T1 đang cầm dao còn H3 tước con dao trên tay ông T1. Ngân Văn H và một số người nữa thấy anh T2 đứng ở hiên nhà, ôm bụng và đang bị chảy máu nên H cùng mọi người đưa anh T2 vào phòng bên cạnh để cầm máu vết thương.

Sau đó, H đi ra ngoài hiên hỏi chuyện thì được biết ông T1 vừa đâm anh T2. Lúc này, ông T1 đang đứng ở ngoài sân và bị một người ở phía sau ôm giữ hai tay, H đi đến đứng đối diện với ông T1 và dùng tay phải tát một phát vào vùng mặt bên trái ông T1; Ngân Văn T3 từ phía sau H lao vào dùng tay phải đấm ba phát vào vùng mặt trái ông T1 và dùng chân phải đạp hai phát vào vùng bụng ông T1; H1 từ bên trái H cũng lao vào dùng tay phải tát một phát vào vùng mặt ông T1 nhưng không trúng. H dùng chân phải đạp một phát vào người làm ông T1 ngã nằm nghiêng bên phải xuống sân; H tiếp tục dùng chân phải đá liên tiếp vào vùng đùi và vùng bụng ông T1; H1 cũng dùng chân phải đá tiếp vào vùng hông ông T1. Mọi người vào can ngăn không cho đánh ông T1 nữa nên H, H1 và T3 dừng lại và để ông T1 nằm tại sân. Một lúc sau, mọi người đưa anh T2 lên xe ô tô taxi đi cấp cứu tại Bệnh viện Đ. Sau khi anh T2 được đưa đi cấp cứu thì H, H1, T3 và Lương Văn H3 đưa ông T1 vào phòng ngủ và đặt ông T1 nằm trên nền nhà. Khoảng 21 giờ 46 phút cùng ngày, ông Nguyễn Văn L, là giám đốc Hợp tác xã sản xuất gạch Đông Phương Y đến nắm bắt sự việc, yêu cầu nhóm công nhân lấy ví trong túi của ông T1 để kiểm tra giấy tờ tùy thân. Sau đó, ông L bảo H1 và H3 lên khu nhà điều hành lấy băng dính trói ông T1 lại không cho ông T1 bỏ trốn để báo Công an đến giải quyết. Sau đó, H và H1 giữ ông T1 để H3 quấn băng dính trói tay và chân ông T1. Một lúc sau, ông T1 đòi uống nước nên H3 đi lấy nước cho ông T1 uống. H hỏi ông T1 tại sao đâm anh T2 thì ông T1 nói “Đ.m chúng mày, tao không sai, tao chỉ tự vệ thôi”. H bực tức lao vào dùng chân phải đá liên tục vào vùng mạn sườn trái ông T1 2- 3 phát rồi đi ra ngoài. Sau khi cho ông T1 uống nước, H3 đang đứng trên giường nhìn thấy ông T1 đưa tay lên cắn băng dính liền dùng chân trái đá một phát vào tay ông T1 và dùng chân phải đá tiếp một phát vào vùng mông ông T1. Sau đó thì H, H1, T3 và H3 để ông T1 bị trói và nằm trên nền nhà. Đến khoảng 23 giờ 10 phút cùng ngày, theo yêu cầu của ông L đưa ông T1 lên khu nhà điều hành. H1 đi vào phòng đá vào chân cho ông T1 tỉnh lại, rồi cùng với H và H3 cởi trói cho ông T1. H, T3, H3 cùng một vài công nhân dìu ông T1 đi bộ lên khu nhà điều hành nhưng ông T1 nói mình không sai không muốn đi nên nhóm của H đã khiêng ông T1 theo lối đi bộ lên khu nhà điều hành còn H1 đi xe máy của ông T1 theo đường nội đồng đi lên trước. Khi đi gần đến chỗ ống khói nhà máy gạch, T3 từ phía sau chạy đến đạp một phát vào người làm ông T1 bị ngã nằm nghiêng trên đường, T3 dùng chân phải đạp tiếp hai phát vào vùng mạn sườn phải ông T1. Sau đó, nhóm công nhân dìu ông T1 đi tiếp. Khi đi qua chỗ ống khói được một đoạn, H3 bực tức dùng chân phải đá một phát vào chân phải ông T1, rồi cả nhóm lại dìu đưa ông T1 lên nằm tại phòng số 4 khu nhà điều hành. Ở trong phòng, ông T1 dậy uống nước sau đó lại nằm xuống nền nhà còn H, H1, T3, H3 đi về phòng ngủ. Khoảng gần 01 giờ sáng ngày 03/09/2020, ông T1 được đưa đi đến Bệnh viện đa khoa huyện C để cấp cứu nhưng đã chết trên đường đến bệnh viện.

Tại Bản giám định pháp y số 9476/PC09-PY ngày 05/11/2020, Phòng K Công an thành phố H kết luận đối với nạn nhân Lường Khắc T1 như sau:

Khám ngoài: Tử thi nam giới, chiều dài 1,64m, thể tạng trung bình. Mặc áo phông cộc tay, cổ bẻ, màu ghi. Quần nỉ ống dài, màu ghi. Quần soóc màu xanh than. Quần, áo dính đất, cát bẩn. Túi quần nỉ bên trái có 01 điện thoại màu đen. Tử thi trong tình trạng co cứng.

- Đầu, mặt, cổ: Vùng thái dương, đỉnh phải và trán phải bị sưng nề, tụ máu, sây sát da trên diện (11x12) cm. Vành tai phải bầm tím. Vùng thái dương, đỉnh trái, trên vành tai trái 04 cm, cách chân tóc trán 06cm có các vết sây sát, tụ máu trên diện (13x06) cm. Gốc tai trái tụ máu, sây sát da trên diện (04x03) cm, trong đó có vết dập rách da nông sát gốc tai kích thước (1,5x0,2) cm. Vùng đuôi lông mày trái, mắt trái và má trái có các vết sây sát, tụ máu trên diện (11x6) cm. Niêm mạc môi trên và môi dưới tụ máu. Răng chắc.

- Ngực, bụng, lưng, mông: Không phát hiện dấu vết thương tích sây sát da, rách da.

- Hai tay: Mặt trước trong cẳng tay phải, sát khuỷu tay phải có vết sây sát da kích thước (0,6x 0,5) cm. Vùng khuỷu tay trái bị sưng nề, tụ máu, sây sát da trên diện (12x10) cm. Xương, khớp không có tổn thương.

- Hai chân: Vùng đầu gối phải có vết sây sát da kích thước (01x0,3) cm. Mu ngón 1,2 bàn chân phải bị sây sát, mài trượt da trên diện (05x04) cm. Vùng mu và gốc ngón 1 bàn chân trái có các vết sây sát da kích thước (2,5x1) cm. Xương, khớp không tổn thương.

- Bộ phận sinh dục ngoài: Bình thường, không có dấu vết thương tích.

Khám trong: - Vùng đầu: Tụ máu dưới da đầu vùng thái dương, đỉnh hai bên tương ứng thương tích đã mô tả ở trên. Cơ thái dương hai bên tụ máu. Mạch máu não sung huyết. Nhu mô não không bị tổn thương chảy máu não, dập nát. Xương vòm sọ và xương nền sọ không có tổn thương.

- Ngực, bụng: Khung xương lồng ngực không có tổn thương. Khoang ngực hai bên không có máu. Tim, phổi sung huyết, không có tổn thương thủng, rách, vỡ. Lòng khí phế quản có dị vật dạng thức ăn. Nội mạc quai động mạch chủ có các mảng xơ vữa.

Tụ máu ở phúc mạc thành bụng. Ổ bụng có nhiều dịch máu. Tụ máu, dập rách cuống túi mật tại vị trí tiếp giáp với gan. Nhu mô gan tiếp giáp túi mật bị dập, rách. Gan to, xơ cứng có kích thước (28x16) cm. Lách, thận không có tổn thương thủng, rách, vỡ. Dạ dày có thức ăn.

Kết quả xét nghiệm số: 89/C09(P4) ngày 15/9/2020 của V Bộ C: Trong mẫu máu của nạn nhân gửi giám định có tìm thấy E, nồng độ Ethanol là 362,3mg/100ml máu.

Kết quả xét nghiệm vi thể số 51/PC ngày 10/9/2020 của Khoa Giải phẫu bệnh Bệnh viện X: Mô tim đứt rách chỗ nối tơ cơ tim rải rác, xơ vữa động mạch. Mô phổi: Lòng khí quản có dị vật dạng sợi thực vật. Mô gan: vỡ, dập, chảy máu. Mô não, lách, dạ dày: sung huyết mạnh, không phát hiện bệnh lý bất thường.

Nhóm máu của nạn nhân Lường Khắc T1: Nhóm B.

Nguyên nhân chết: Chấn thương gây dập, rách gan và túi mật kết hợp sặc thức ăn vào đường hô hấp. Các tổn thương sây sát da, tụ máu trên cơ thể nạn nhân hình thành do vật tầy gây nên Tại công văn số 44/PC09-PY ngày 01/02/2021 của Phòng K Công an thành phố H trả lời như sau: Nguyên nhân chết của nạn nhân là do chấn thương gây dập, rách gan và túi mật kết hợp ngạt sặc thức ăn vào đường hô hấp. Thương tích gây tụ máu dưới da đầu vùng thái dương, đỉnh và cơ thái dương của nạn nhân nhưng không gây các tổn thương nặng như vỡ xương hộp sọ, chảy máu não, dập nát nhu mô não.

Tại Trích sao bệnh án của Bệnh viện Đ cấp cho bệnh nhân Lữ Văn T2 xác định: Ngày vào viện: 02/9/2020; Ngày ra viện: 16/9/2020; Lý do vào viện: Bị đâm; Chẩn đoán: Vết thương thấu ngực, bụng tại hạ sườn phải gây rách hạ phân thùy IV gan, rách tĩnh mạch trên gan trái; Phương pháp điều trị: Phẫu thuật, kháng sinh, giảm đau, cầm máu; Tình trạng bệnh nhân lúc ra viện: Bệnh nhân ổn định.

Cơ quan điều tra đã ra Quyết định Trưng cầu giám định đối với thương tích của anh Lữ Văn T2, nhưng ngày 20/01/2021, nhưng anh T2 từ chối giám định; anh T2 không có yêu cầu gì về dân sự và hình sự trong vụ án. Do ông T1 đã chết nên Cơ quan điều tra không đề cập hình thức xử lý.

Tại Bản án hình sự sơ thẩm số 184/2021/HS-ST ngày 18 tháng 6 năm 2021, Tòa án nhân dân thành phố Hà Nội đã quyết định: Áp dụng điểm n khoản 1 Điều 123, điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 và Điều 58 Bộ luật Hình sự, xử phạt: Bị cáo Ngân Văn H 17 (mười bảy) năm tù, thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 04/9/2020; bị cáo Ngân Văn H1 14 (mười bốn) năm tù, thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 04/9/2020. Ngoài ra, Tòa án cấp sơ thẩm còn quyết định về tội danh và hình phạt đối với các bị cáo Ngân Văn T3, Lương Văn H3, quyết định về trách nhiệm dân sự, nghĩa vụ thi hành án, nghĩa vụ chậm trả; quyết định xử lý vật chứng, án phí và thông báo quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.

Sau khi xét xử sơ thẩm, ngày 02/7/2020 các bị cáo Ngân Văn H, Ngân Văn H1 kháng cáo với nội dung xin giảm hình phạt. Bị cáo Ngân Văn H1 còn kháng cáo đề nghị xem xét việc bồi thường dân sự.

Tại phiên tòa, các bị cáo giữ nguyên nội dung kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt, bị cáo H1 rút kháng cáo đề nghị xem xét phần bồi thường dân sự.

Luật sư bào chữa cho các bị cáo đề nghị HĐXX xem xét nhân thân, trình độ nhận thức của các bị cáo, xem xét đến lỗi của người bị hại để giảm nhẹ một phần hình phạt cho các bị cáo.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Hà Nội luận tội, phân tích tính chất nguy hiểm của hành vi phạm tội, phân tích nhân thân, các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của các bị cáo và đề nghị HĐXX đình chỉ xét xử phúc thẩm đối với kháng cáo của bị cáo H1 về phần trách nhiệm dân sự; không chấp nhận kháng cáo xin giảm hình phạt, giữ nguyên quyết định của bản án sơ thẩm về hình phạt đối với các bị cáo H, H1.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1]. Kháng cáo của các bị cáo Ngân Văn H, Ngân Văn H1 nằm trong thời hạn luật định và hợp lệ nên được xem xét, giải quyết theo thủ tục phúc thẩm.

[2]. Tại phiên tòa, bị cáo Ngân Văn H1 rút kháng cáo đối với phần bồi trách nhiệm dân sự. căn cứ vào Điều 348 Bộ luật tố tụng hình sự, HĐXX đình chỉ xét xử phúc thẩm đối với kháng cáo về phần trách nhiệm dân sự của bị cáo Ngân Văn H1. [3]. Lời khai nhận của các bị cáo tại phiên tòa phù hợp với nhau, phù hợp lời khai của các bị cáo tại Cơ quan điều tra và những người làm chứng, phù hợp các vật chứng đã thu giữ, kết quả khám nghiệm hiện trường, thực nghiệm điều tra, khám nghiệm tử thi, các kết luận giám định và các tài liệu, chứng cứ khác được thu thập hợp pháp trong hồ sơ vụ án. Vì vậy HĐXX đủ căn cứ kết luận: Khoảng 20 giờ 45 phút ngày 02/9/2020, tại khu nhà ở của công nhân Hợp tác xã sản xuất gạch Đông Phương Y (thuộc địa bàn xã Đ, huyện C, Hà Nội), mặc dù không trực tiếp chứng kiến sự việc nhưng cho rằng ông Lường Khắc T1 dùng dao nhọn đâm vào bụng và gây thương tích cho anh Lữ Văn T2 nên các bị cáo Ngân Văn H, Ngân Văn H1, Ngân Văn T3 và Lương Văn H3 đã dùng chân, tay đánh, tát mạnh nhiều phát vào mặt, đạp mạnh nhiều lần vào vùng đầu, vùng bụng của ông T1, hậu quả làm ông T1 tử vong do bị dập, rách gan và túi mật, kết hợp sặc thức ăn vào đường hô hấp. Vì vậy cấp sơ thẩm xét xử các bị cáo về tội “Giết người” với tình tiết định khung “Có tính chất côn đồ” theo quy định tại điểm n khoản 1 Điều 123 Bộ luật Hình sự là có căn cứ, đúng pháp luật.

[4]. Hành vi phạm tội của các bị cáo là đặc biệt nghiêm trọng, côn đồ, hung hãn, coi thường pháp luật và coi thường tính mạng của người khác. Hành vi của các bị cáo đã tước đoạt tính mạng của ông Lường Khắc T1, không những gây đau thương, tang tóc không gì bù đắp nổi cho gia đình nạn nhân mà còn gây mất trật tự, trị an tại địa phương, gây hoang mang, bất bình trong dư luận nhân dân nên cần xử phạt nghiêm minh để trừng phạt, cải tạo đối với các bị cáo và răn đe, phòng ngừa chung. Với nhận định trên, cấp sơ thẩm đã phân hóa vai trò của từng bị cáo, xác định bị cáo Ngân Văn H là đối tượng đầu tiên, có hành vi quyết liệt nhất tấn công bị hại, tạo tiền đề cho các đồng phạm thực hành vi phạm tội, bị cáo H cũng là người thực hiện nhiều hành vi hành hung và tác động lên các vùng trọng yếu trên cơ thể bị hại nên bị cáo H giữ vai trò đầu vụ. Bị cáo Ngân Văn H1 tham gia với mức độ thấp hơn giữ vai trò đồng phạm, đứng thứ ba trong vụ án, sau vai trò của bị cáo Ngân Văn T3. Cấp sơ thẩm cũng đã xem xét đến nhân thân chưa có tiền án, tiền sự, không có tình tiết tăng nặng và xem xét đầy đủ các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự và căn cứ vào các quy định của Bộ luật Hình sự để quyết định hình phạt đối với các bị cáo là đúng pháp luật. Tuy nhiên, xét thấy trong vụ án này, người bị hại có một phần lỗi; các bị cáo là người lao động, trình độ nhận thức hạn chế, nhất thời phạm tội nên cấp sơ thẩm xử phạt bị cáo H 17 năm tù, bị cáo H1 14 năm tù là có phần nghiêm khắc vì vậy HĐXX phúc thẩm sẽ chấp nhận kháng cáo của các bị cáo H và H1, giảm nhẹ một hình phạt cho các bị cáo.

[5]. Về án phí: Kháng cáo của các bị cáo được chấp nhận nên các bị cáo không phải chịu án phí hình sự phúc thẩm.

[6]. Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị HĐXX không xem xét và đã có hiệu lực pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ Điều 348; điểm b khoản 1 Điều 355, Điều 357 Bộ luật tố tụng Hình sự; Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án.

1. Đình chỉ xét xử phúc thẩm đối với kháng cáo về phần trách nhiệm dân sự của bị cáo Ngân Văn H1; Phần quyết định về trách nhiệm dân sự tại bản án hình sự sơ thẩm số 184/2021/HS-ST ngày 18 tháng 6 năm 2021 của Tòa án nhân dân thành phố Hà Nội có hiệu lực pháp luật.

2. Chấp nhận kháng cáo của các bị cáo Ngân Văn H và Ngân Văn H1; Sửa bản án hình sự sơ thẩm số 184/2021/HS-ST ngày 18 tháng 6 năm 2021 của Tòa án nhân dân thành phố Hà Nội về hình phạt đối với các bị cáo, cụ thể như sau:

Áp dụng điểm n khoản 1 Điều 123, điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 và Điều 58 Bộ luật Hình sự.

Xử phạt bị cáo Ngân Văn H 16 (mười sáu) năm tù về tội ”Giết người”; thời hạn tù tính từ ngày 04/9/2020.

Xử phạt bị cáo Ngân Văn H1 13 (mười ba) năm tù về tội ”Giết người”; thời hạn tù tính từ ngày 04/9/2020.

3. Về án phí: Các bị cáo Ngân Văn H và Ngân Văn H1 không phải chịu án phí hình sự phúc thẩm.

4. Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

5. Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật từ ngày tuyên án./.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

54
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội giết người số 403/2021/HS-PT

Số hiệu:403/2021/HS-PT
Cấp xét xử:Phúc thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân cấp cao
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 27/09/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về