Bản án về tội giết người số 382/2021/HS-PT

TÒA ÁN NHÂN DÂN CẤP CAO TẠI THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

BẢN ÁN 382/2021/HS-PT NGÀY 09/11/2021 VỀ TỘI GIẾT NGƯỜI

Ngày 09 tháng 11 năm 2021 tại trụ sở Tòa án nhân dân cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh xét xử phúc thẩm vụ án hình sự thụ lý số 321/2021/TLPT-HS ngày 27 tháng 5 năm 2021 đối với bị cáo Trần Ngọc Đ do có kháng cáo của bị cáo, đối với Bản án hình sự sơ thẩm số 142/2021/HS-ST ngày 23 tháng 4 năm 2021 của Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh.

Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử phúc thẩm số 203/2021/QĐPT-HS ngày 08 tháng 4 năm 2021.

- Bị cáo có kháng cáo:

Trần Ngọc Đ; sinh năm: 1992; tại: tỉnh Tây Ninh; nơi đăng ký nhân khẩu thường trú: Khu phố 1, thị trấn T, huyện T, tỉnh Tây Ninh; quốc tịch: Việt Nam; dân tộc: Kinh; tôn giáo: Không; giới tính: Nam; trình độ học vấn: 6/12; nghề nghiệp: chạy xe ôm; con ông Trần Quý T (Chết) và bà Nguyễn Thị Ngọc T (Chết); vợ, con: Chưa có; tiền án, tiền sự: Không; bi bắt tạm giam: 27/12/2019.

- Nhân thân: Ngày 27/4/2012, bị Tòa án nhân dân Quận 1, Thành phố Hồ Chí Minh xử phạt 01 năm tù, về tội “Trộm cắp tài sản” (Theo bản án số 92/2012/HSST ngày 27/4/2012) đã chấp xong hình phạt tù tại Trại giam Châu Bình - Bộ Công an và toàn bộ bản án. (Có mặt) Người bào chữa cho bị cáo: Ông Nguyễn Bá Tùng - Luật sư thuộc Đoàn luật sư Thành phố Hồ Chí Minh bào chữa chỉ định cho bị cáo Trần Ngọc Đ (Có mặt).

Bị hại: Ông Nguyễn Hoàng T, sinh năm 1985; cư trú: 290/56/13/48F Nơ Trang Long, Phường x, quận Bình Thạnh, Thành phố Hồ Chí Minh.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Năm 2018, Trần Ngọc T nghi ngờ bạn gái mình là Lê Hồng N có quan hệ tình cảm với Nguyễn Hoàng S nên vào ngày 24/12/2018, Ngọc T đã dùng dao chém Nguyễn Hoàng S. Khoảng 12h00’ ngày 10/9/2019, anh Nguyễn Hoàng T (anh ruột Nguyễn Hoàng S) đang cùng bạn là Nguyễn Quốc Đngồi uống cà phê trên đường Phan Chu Trinh, Phường 12, quận Bình Thạnh thì nhìn thấy Trần Ngọc T điều khiển xe gắn máy chở chị Lê Hồng N đi ngang qua, anh Nguyễn Hoàng T liền lấy xe máy chở Đăng đuổi theo để bắt giữ Ngọc T. Khi đuổi theo vào đến hẻm 334/64 Chu Văn An, Phường 12, quận Bình Thạnh, anh Nguyễn Hoàng T nhìn thấy Ngọc T đang ngồi trên xe gắn máy nên xuống xe cầm theo 01 cây dũ 03 khúc chạy đến, Ngọc T hoảng sợ bỏ xe chạy bộ ra đường Chu Văn An rồi bắt xe ôm về nhà trọ. Chị Lê Hồng N chạy vào nhà số 304A Chu Văn An, Phường 12, quận Bình Thạnh báo cho Trần Ngọc Đ (em ruột Ngọc T) và Ngô Minh H (em họ Ngọc T) biết việc Ngọc T bị đuổi đánh. Hiếu lấy 01 cây kéo bằng kim loại (màu đen dài khoảng 20cm) đưa cho Ngọc Đ, còn Hiếu cầm 01 con dao Thái Lan (dài khoảng 20cm) cùng một thanh niên bạn của Hiếu (chưa xác định được lai lịch) chạy ra. Thấy vậy, anh Nguyễn Hoàng T cùng anh Đăng bỏ chạy, anh Nguyễn Hoàng T chạy bộ đến trước nhà số 334/64/103 Chu Văn An, Phường 12, quận Bình Thạnh thì vấp ngã, vừa ngồi dậy thì Ngọc Đ đuổi kịp dùng kéo đâm trúng vào cổ và vùng bả vai anh Nguyễn Hoàng T. Lúc này, Hiếu và bạn của Hiếu cũng chạy tới dùng dao đâm anh Nguyễn Hoàng T, khi thấy anh Nguyễn Hoàng T nằm bất động, máu ra nhiều Ngọc Đ cùng Hiếu và bạn Hiếu đi về nhà. Anh Nguyễn Hoàng T được người dân đưa đi cấp cứu tại Bệnh viện Chợ Rẫy.

Thấy anh Nguyễn Hoàng T bị truy đuổi, anh Nguyễn Quốc Đ chạy về báo cho Nguyễn Hoàng S biết sự việc rồi cầm theo 01 con dao cùng Nguyễn Hoàng S cầm theo 01 gậy đánh bóng chày bằng gỗ đi đến hẻm 334/64 Chu Văn An. Đến nơi, thấy Ngọc Đ kêu Hiếu mang hung khí ra thì anh Nguyễn Hoàng S và anh Đăng bỏ chạy và đến Công an Phường 12, quận Bình Thạnh trình báo vụ việc, đồng thời giao nộp 01 con dao và 01 cây gậy đánh bóng chày (bút lục 25, 26).

Theo bản Kết luận giám định pháp y về thương tích số 940/TgT.19 ngày 01/11/2019 của Trung tâm pháp y Sở Y tế Thành phố Hồ Chí Minh (bút lục 43- 46), kết luận về thương tích của anh Nguyễn Hoàng T như sau:

Dấu hiệu chính qua giám định:

- Vết thương vùng cổ sau gây dập tủy cổ ngang mức đốt sống cổ 4, 5 đã được điều trị, hiện còn: 01 sẹo nhỏ kích thước 2x (0,1-0,2) cm; Liệt ½ người trái, mất cảm giác nông ½ người phải; Có tỉ lệ 89% (Tám mươi chín phần trăm); Thương tích do vật sắc nhọn gây ra, gây nguy hiểm đến tính mạng của đương sự.

- Đa vết thương phần mềm đã được điều trị, hiện còn: 01 sẹo phẳng tại vùng bả vai phải kích thước 1,1 x (0,1-0,2) cm, có tỉ lệ 01% (Một phần trăm); 01 sẹo phẳng tại mặt trước ngoài 1/3 dưới đùi phải kích thước 4 x (0,1-0,4)cm, có tỉ lệ 02% (Hai phần trăm). Các thương tích trên do vật sắc, vật sắc nhọn hoặc vật có cạnh sắc tác động gây ra, không gây nguy hiểm đến tính mạng của đương sự.

Cộng lùi tỷ lệ theo Thông tư 20/2014/TT-BYT ngày 12/6/2014 của Bộ Y tế sẽ ra tỉ lệ 89,3%, làm tròn sẽ là 89%. Tỷ lệ tổn thương cơ thể do thương tích gây nên hiện tại là: 89% (Tám mươi chín phần trăm).

Tại Cơ quan CSĐT Công an Thành phố Hồ Chí Minh, Trần Ngọc Đ đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội như nêu trên (Bút lục 194-206).

Vật chứng thu giữ: 01 con dao màu đen dài khoảng 40cm, cán dao bằng kim loại dài khoảng 11cm, bản lưỡi chỗ rộng nhất khoảng 07cm; 01 cây gậy bóng chày bằng gỗ dài khoảng 54cm.

Về dân sự: Anh Nguyễn Hoàng T yêu cầu bồi thường 418.817.606 đồng, Trần Ngọc Đ chưa bồi thường (Bút lục 81, 82).

Tại Bản án hình sự sơ thẩm số 142/2021/HS-ST ngày 23 tháng 4 năm 2021 của Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh đã tuyên xử như sau:

Căn cứ vào điểm n khoản 1 Điều 123; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 38 của Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017);

Xử phạt: Bị cáo Trần Ngọc Đ 16 (Mười sáu) năm tù, về tội: “Giết người”.

Thời hạn tù tính kể từ ngày 27/12/2019.

Ngoài ra, bản án sơ thẩm còn tuyên về phần trách nhiệm dân sự, xử lý vật chứng, án phí hình sự sơ thẩm và quyền kháng cáo theo luật định.

Sau khi xét xử sơ thẩm, trong thời hạn kháng cáo theo luật định.

- Ngày 27/4/2021 bị cáo Trần Ngọc Đ làm đơn kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt.

Tại phiên tòa phúc thẩm, bị cáo Trần Ngọc Đ đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội, xác định bản án sơ thẩm đã xét xử bị cáo đúng người, đúng tội, không oan sai và bị cáo vẫn giữ nguyên yêu cầu kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh tham gia phiên tòa phát biểu ý kiến như sau:

Tại phiên tòa phúc thẩm bị cáo thừa nhận hành vi phạm tội của mình. Bị cáo kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt nhưng không đưa ra tình tiết giảm nhẹ đặc biệt. Hành vi của bị cáo là hết sức côn đồ, cấp sơ thẩm xử phạt bị cáo 16 năm tù là không nặng. Do vậy, đề nghị Hội đồng xét xử không chấp nhận kháng cáo của bị cáo, giữ nguyên bản án sơ thẩm.

Luật sư bào chữa cho bị cáo Trần Ngọc Đ cho rằng tuy bị cáo không có mâu thuẫn với bị hại nhưng muốn tiếp cứu anh mình nên bị cáo có hành vi tấn công gây thương tích cho bị hại. Trong quá trình bị giam giữ bị cáo rất ăn năn hối cải việc làm của mình. Đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA HỘI ĐỒNG XÉT XỬ

Tại phiên tòa phúc thẩm bị cáo thừa nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình, đối chiếu với các chứng cứ đã được thẩm tra tại phiên tòa. Hội đồng xét xử thấy rằng việc Tòa sơ thẩm xử phạt bị cáo Trần Ngọc Đ phạm tội “Giết người” là có căn cứ bởi các lẽ sau:

[1] Trần Ngọc Đ không có mâu thuẫn gì với bị hại Nguyễn Hoàng T nhưng khi nghe Lê Hồng N báo cho biết anh Ngọc T (anh ruột của Đức) bị anh Nguyễn Hoàng T đuổi đánh, Đức sử dụng một cây kéo kim loại màu đen dài khoản 20cm do Hiếu đưa làm hung khí tấn công nhiều nhát vào người anh Nguyễn Hoàng T, hậu quả làm anh Nguyễn Hoàng T thương tật 89%. Về ý thức bị cáo nhận thức được việc dùng kéo nhọn đâm nhiều nhát vào cổ, vai sẽ gây tử vong nhưng bị cáo vẫn thực hiện hành vi một cách quyết liệt.

[2] Hành vi của bị cáo là rất nguy hiểm cho xã hội, thể hiện tính côn đồ xem thường pháp luật, tấn công bị hại trong lúc bị hại đã té ngã không có khả năng tự vệ, tấn công vào một người mà người đó không có mâu thuẫn gì với mình. Hành vi của bị cáo đã phạm vào tội “Giết người” tội phạm và hình phạt được quy định tại điểm n khoản 1 Điều 123 Bộ luật hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017). Đối với bị cáo cần phải có mức án nghiêm, cách ly xã hội một thời gian để giáo dục bị cáo và cùng răn đe phòng ngừa chung.

[3] Tại phiên tòa phúc thẩm bị cáo xin giảm nhẹ hình phạt nhưng không có tình tiết giảm nhẹ đặc biệt, hơn nữa mức án 16 năm tù là đúng với tính chất mức độ hành vi phạm tội của bị cáo gây ra, do đó không chấp nhận yêu cầu kháng cáo của bị cáo, giữ y bản án sơ thẩm.

[4] Về án phí hình sự phúc thẩm:

Do kháng cáo không được chấp nhận nên bị cáo Trần Ngọc Đ phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự phúc thẩm.

[5] Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không bị kháng cáo, kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào điểm a khoản 1 Điều 355 của Bộ luật Tố tụng Hình sự năm 2015 Không chấp nhận kháng cáo của bị cáo Trần Ngọc Đ.

Giữ nguyên bản án hình sự sơ thẩm số 142/2021/HS-ST ngày 23 tháng 4 năm 2021 của Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh.

Áp dụng vào điểm n khoản 1 Điều 123; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 38 của Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017);

Xử phạt: Bị cáo Trần Ngọc Đ 16 (Mười sáu) năm tù, về tội: “Giết người”.

Thời hạn tù tính từ ngày 27/12/2019.

Tiếp tục tạm giam bị cáo để đảm bảo Thi hành án. Về án phí hình sự phúc thẩm:

Bị cáo Trần Ngọc Đ phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự phúc thẩm.

Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không bị kháng cáo, kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật kể từ ngày thời hạn hết kháng cáo, kháng nghị theo quy định của pháp luật.

Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

167
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội giết người số 382/2021/HS-PT

Số hiệu:382/2021/HS-PT
Cấp xét xử:Phúc thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân cấp cao
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 09/11/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về