Bản án về tội giết người số 379/2021/HS-PT

TÒA ÁN NHÂN DÂN CẤP CAO TẠI ĐÀ NẴNG

BẢN ÁN 379/2021/HS-PT NGÀY 28/09/2021 VỀ TỘI GIẾT NGƯỜI

Ngày 28 tháng 9 năm 2021, tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Đắk Lắk, Tòa án nhân dân cấp cao tại Đà Nẵng xét xử phúc thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 384/2021/TLPT-HS ngày 05/7/2021 đối với bị cáo Nguyễn Văn N về tội “Giết người”. Do có kháng cáo của bị cáo đối với bản án hình sự sơ thẩm số 44/2021/HSST ngày 01/06/2021 của Tòa án nhân dân tỉnh Đắk Lắk.

- Bị cáo có kháng cáo:

Họ và tên: Nguyễn Văn N (Tên gọi khác: H), sinh năm 1982, tại tỉnh Hà Nam; nơi đăng ký HKTT: tỉnh Hà Nam; chỗ ở trước khi phạm tội: tỉnh Đắk Lắk; nghề nghiệp: Chăn nuôi; trình độ học vấn: 12/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; con ông Nguyễn Văn T, sinh năm 1953 và bà Trịnh Thị N, sinh năm 1961; có vợ Nghiêm Thị P, sinh năm 1984 và 02 con, con lớn sinh năm 2017, con nhỏ sinh năm 2018; tiền án, tiền sự: Không;

Bị cáo bị bắt tạm giữ, tạm giam từ ngày 27/3/2020 đến nay, hiện đang tạm giam; Có mặt.

- Người bào chữa cho bị cáo: Ông Phạm Duy C – Luật sư thuộc Văn phòng Luật sư C, Đoàn Luật sư tỉnh Đắk Lắk; có mặt;

Địa chỉ: tỉnh Đắk Lắk.

- Bị hại: Anh Nguyễn Xuân H, sinh năm 1988; trú tại: tỉnh Đắk Lắk; vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khong 18 giờ ngày 02/02/2020, Nguyễn Văn N đến nhà anh Triệu Văn C1 ở thôn 1, xã E, huyện K, tỉnh Đắk Lắk chơi thì gặp anh Nguyễn Xuân H cũng đang ngồi chơi tại nhà anh C1. Tại đây, anh C1 mời N và H uống rượu, cả ba người cùng uống rượu đến khoảng 19 giờ cùng ngày thì anh C1 có công việc riêng phải đi giải quyết, còn lại N và H tiếp tục ngồi uống rượu. Đến khoảng 22 giờ cùng ngày, thấy anh H đã say rượu nên N nói H đi về, nhưng H không chịu về. N dắt xe máy của anh H ra ngoài cổng rồi đẩy anh H ra ngoài cổng, nhưng do anh H quên dép nên N lấy dép đưa cho anh H và dẫn anh H ra ngoài cổng để anh H đi về. Khi ra đến cổng, anh H không chịu về mà giằng co với N làm cho N bị ngã, đầu va vào chậu cây quất cảnh của nhà anh C1 nhưng không bị thương tích gì. Bị ngã, N bực tức chạy vào bếp của anh C1 cầm 02 con dao ra hù dọa, N nói “Mày không đi về tao chém chết mẹ mày”. Anh H không về mà chửi N thì N ném 02 con dao ra khu đất trống bên cạnh rồi hai bên tiếp tục xô đẩy nhau, khi anh H bị ngã xuống sân, nằm ngửa mặt lên trời thì N dùng 02 tay nâng chiếc xe rùa bằng kim loại ở gần đó lên cao ngang mặt, ném vào người anh H, làm xe rùa trúng vào vùng mặt của anh H. Anh H vẫn tiếp tục chửi nên N lấy cái cuốc và dùng cán cuốc đánh vào xe rùa và vào người anh H, anh H vẫn chửi nên N lấy thanh sắt hộp có kích thước (6 x 3 x 220)cm đánh vào người và đầu anh H, lúc này N thấy anh H bị chảy máu nhiều nên N sợ và bỏ trốn khỏi hiện trường.

Tại Biên bản hiện trường ngày 03/02/2020 xác định: Hiện trường nơi xảy ra vụ án tại nhà anh Triệu Văn C1, thuộc thôn 1, xã E, huyện K, tỉnh Đắk Lắk. Hiện trường đã bị xáo trộn do nhiều người qua lại. Quá trình khám nghiệm, Cơ quan điều tra đã thu giữ:

- 01 thanh sắt hình hộp, trong rỗng, có kích thước 6cm x 3cm x 220cm.

- 01 cây cuốc có cán bằng tre dài 162cm, thân bằng tre tròn có đường kính 3,5cm, lưỡi cuốc bằng kim loại có kích thước 30,5cm x 15,5cm.

- 01 con dao dài 41,5cm, cán bằng gỗ dài 12,5cm, lưỡi bằng kim loại có 01 cạnh sắc bén dài 29cm, rộng 7,5cm, đầu bằng.

- 01 con dao dài 38cm, cán bằng kim loại dài 11cm, lưỡi bằng kim loại dài 17cm, rộng 7,5cm, đầu bằng.

- 01 xe rùa (xe đẩy) bằng kim loại có chiều dài 130cm, chiều rộng 63cm, chiều cao 60cm. Có 01 chiếc bánh xe để di chuyển, có 02 chân chống dưới thùng xe, có 02 tay cầm để đẩy và di chuyển xe cách nhau 50cm, độ rộng của thùng xe là 63cm x 85cm x 20cm.

Tại Bản kết luận giám định pháp y thương tích trên hồ sơ số: 285/GĐHS- TTPY ngày 10/3/2020 của Trung tâm pháp y tỉnh Đắk Lắk, kết luận: Nguyễn Văn H bị vết thương ngang vùng trán #5cm là 3%; vết thương vùng chẩm trái sau tai #4cm là 1%; vết thương dọc nhân trung #2cm là 3%; gãy xương sườn số 10, 11 bên trái là 4%; vỡ lún thành xoang trán hai bên là 14%; các vết thương sưng nề bầm tím là 0%. Tỷ lệ tổn thương cơ thể do thương tích gây nên là 23%.

Cơ chế tác động: Vết thương ngang vùng trán, vết thương dọc nhân trung, vỡ lún thành xoang trán hai bên do vật sắc hoặc tày có cạnh tác động trực tiếp hướng từ trước ra sau; vết thương vùng chẩm trái (T) do vật sắc hoặc vật tày có cạnh tác động trực tiếp hướng từ sau ra trước, từ phải sang trái; gãy xương sườn số 10, 11 bên trái do vật tày tác động trực tiếp.

Tại bản án hình sự sơ thẩm số 44/2021/HSST ngày 01-6-2021, Tòa án nhân dân tỉnh Đắk Lắk đã quyết định:

[1] Tuyên bố: Bị cáo Nguyễn Văn N phạm tội “Giết người”.

[2] Về điều luật áp dụng và mức hình phạt:

Áp dụng điểm n khoản 1 Điều 123; Điều 15; điểm b khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 57 của Bộ luật hình sự.

Xử phạt bị cáo Nguyễn Văn N 12 (Mười hai) năm tù, thời hạn chấp hành hình phạt tù được tính từ ngày bị bắt tạm giữ, tạm giam, ngày 27/3/2020.

Ngoài ra bản án còn quyết định về phần trách nhiệm dân sự, phần xử lý vật chứng, án phí và quyền kháng cáo.

Ngày 14/6/2021 bị cáo Nguyễn Văn N kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt, tại biên bản ngày 16/6/2021 bị cáo kháng cáo đề nghị hủy bản án sơ thẩm.

Tại phiên tòa phúc thẩm: Bị cáo giữ nguyên yêu cầu kháng cáo.

Kiểm sát viên đại diện cho Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Đà Nẵng phát biểu quan điểm giải quyết vụ án như sau: Bản án sơ thẩm xét xử là đúng pháp luật, bị cáo kháng cáo không có tình tiết mới đề nghị bác kháng cáo của bị cáo và giữ nguyên Bản án sơ thẩm.

Luật sư bào chữa cho bị cáo N trình bày: Bị cáo không phạm tội “giết người” mà chỉ phạm tội “Cố ý gây thương tích”, đề nghi xem xét lại vụ án và giảm hình phạt cho bị cáo.

Bị cáo N thống nhất với ý kiến bào chữa của người bào chữa và trình bày: Bị cáo không giết người, hành vi của bị cáo chỉ phạm tội “Cố ý gây thương tích”, người bị hại cũng có lỗi, đề nghị hủy Bản án sơ thẩm để điều tra xét xử về tội “cố ý gây thương tích” và xin giảm nhẹ hình phạt tù.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Xét kháng cáo của bị cáo N, thấy:

[1.1] Về tội danh: Vào khoảng 22 giờ ngày 02/02/2020, tại nhà anh Triệu Văn C1 ở thôn 1, xã E, huyện K, tỉnh Đắk Lắk, sau khi đã uống rượu, giữa bị cáo Nguyễn Văn N và anh Nguyễn Xuân H xảy ra mâu thuẫn xô xát, bị cáo cho rằng bản thân chỉ phạm tội “Cố ý gây thương tích” do trong quá trình bị cáo và bị hại giằng co nhau cây cuốc đã gây nên các vết thương ở vùng đầu của bị hại, lỗi thuộc một phần của bị hại chứ không phải do bị cáo gây ra. Tuy nhiên, căn cứ các tài liệu, chứng cứ đã thu thập trong hồ sơ vụ án và quá trình thẩm tra tại phiên tòa đã xác định giữa bị cáo và bị hại có sự giằng co nhau, nhưng các vết thương của bị hại là do bị cáo gây ra; bị cáo đã dùng xe rùa ném vào người bị hại, cuốc, cây sắt đánh vào vùng mặt, đầu, sườn và nhiều vị trí khác trên người anh Nguyễn Xuân H gây thương tích cơ thể với tỉ lệ 23%, đây là những vùng trọng yếu của cơ thể con người có khả năng dẫn đến chết người; Tòa án sơ thẩm xét xử bị cáo về tội “giết người” với tình tiết định khung có tính chất côn đồ là có căn cứ; Do đó không chấp nhận kháng cáo của bị cáo đề nghị hủy bản án sơ thẩm để điều tra lại về tội “cố ý gây thương tích”.

[1.2] Xét kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt của bị cáo, thấy: Hành vi phạm tội của bị cáo là đặc biệt nghiêm trọng và nguy hiểm cho xã hội, đã trực tiếp xâm phạm đến tính mạng, sức khỏe của người bị hại và gây mất trật tự trị an chung tại địa phương. Tuy nhiên việc xảy ra xô xát nguyên nhân ban đầu người bị hại cũng có một phần lỗi, tại phiên tòa và quá trình điều tra ban đầu bị cáo đã thành khẩn khai báo về hành vi phạm tội của mình, bị cáo có nhân thân tốt;

phạm tội thuộc trường hợp chưa đạt theo quy định tại khoản 3 Điều 57 BLHS năm 2015; gia đình bị cáo đã chủ động bồi thường khắc phục hậu quả cho bị hại số tiền 50.000.000 đồng, người bị hại làm đơn bãi nại và xin giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo; bị cáo có bố đẻ (Ông Nguyễn Văn T) được Nhà nước tặng thưởng Huân chương chiến sỹ vẻ vang hạng ba. Đây là các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự được quy định tại điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51 BLHS năm 2015. Xét thấy mức án cấp sơ thẩm xử phạt bị cáo 12 năm tù có phần nghiêm khắc; do đó, chấp nhận một phần kháng cáo của bị cáo giảm cho bị cáo một phần hình phạt tù.

[3] Các phần khác của Bản án hình sự sơ thẩm về trách nhiệm dân sự, về xử lý vật chứng, về án phí hình sự và dân sự sơ thẩm không có kháng cáo, không bị kháng nghị có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

[4] Án phí hình sự phúc thẩm bị cáo Nguyễn Văn N không phải chịu theo quy định tại Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí tòa án.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

1.Căn cứ điểm b khoản 1, khoản 2 Điều 355; điểm c khoản 1 Điều 357 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015;

Căn cứ khoản 2 Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý, sử dụng án phí và lệ phí Toà án.

Chấp nhận một phần kháng cáo của bị cáo Nguyễn Văn N sửa Bản án hình sự sơ thẩm số: 44/2021/HS-ST ngày 01/6/2021 của Tòa án nhân dân tỉnh Đắk Lắk như sau:

Áp dụng điểm n khoản 1 Điều 123; Điều 15; điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; khoản 3 Điều 57 của Bộ luật hình sự năm 2015(Sửa đổi, bổ sung năm 2017).

Xử phạt bị cáo Nguyễn Văn N 10 (Mười) năm tù về tội “Giết người”, thời hạn chấp hành hình phạt tù được tính từ ngày 27/3/2020.

2. Các Quyết định khác của Bản án hình sự sơ thẩm số: 44/2021/HS-ST ngày 01/6/2021 của Tòa án nhân dân tỉnh Đắk Lắk về trách nhiệm dân sự, xử lý vật chứng, án phí hình sự sơ thẩm và các phần khác không có kháng cáo, kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

3. Án phí hình sự phúc thẩm bị cáo Nguyễn Văn N không phải chịu.

Bản án hình sự phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án. 

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

333
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội giết người số 379/2021/HS-PT

Số hiệu:379/2021/HS-PT
Cấp xét xử:Phúc thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân cấp cao
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 28/09/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về