TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH LONG AN
BẢN ÁN 37/2023/HS-ST NGÀY 23/06/2023 VỀ TỘI GIẾT NGƯỜI
Ngày 23 tháng 6 năm 2023, tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Long An xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 27/2023/TLST-HS ngày 28 tháng 4 năm 2023 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 42/2023/QĐXXST-HS ngày 01 tháng 6 năm 2023 đối với bị cáo:
Trương Tiến D, sinh năm 1983, tại tỉnh Long An; Nơi thường trú: Ấp B, xã T, thị xã K, tỉnh Long An; Nghề nghiệp: Làm thuê; Trình độ văn hóa (học vấn): 6/12; Dân tộc: Kinh; Giới tính: Nam; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông Trương Mạnh A, sinh năm 1955 (đã chết) và bà Phạm Thị M, sinh năm 1953; Có 01 anh sinh năm 1978 và 01 chị sinh năm 1981; Bị cáo sống chung như vợ chồng với Võ Thị Kim T, sinh năm 1991; Có 01 người con, sinh năm 2014; Tiền án, tiền sự: Không; Nhân thân: Ngày 19/10/2005, Trương Tiến D bị Tòa án nhân dân tỉnh Lâm Đồng tuyên phạt 10 năm tù về tội “Giết người”, ngày 27/02/2013, D chấp hành xong hình phạt tù (được giảm 02 năm 04 tháng), đến nay đã được xóa án tích theo quy định pháp luật; Bị cáo bị tạm giam từ ngày 10 tháng 11 năm 2022 cho đến nay, có mặt tại phiên tòa.
- Người bào chữa cho bị cáo: Luật sư Trương Văn V, Văn phòng luật sư N, thuộc Đoàn luật sư tỉnh Long An (có mặt).
- Bị hại: Lê Minh V1, sinh năm 1980; Địa chỉ: Số 105 đường H, Khu phố 3, Phường 2, thị xã K, tỉnh Long An (có mặt).
- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: Huỳnh Thị H, sinh năm 1975; Địa chỉ: Số 239 đường L, Khu phố 3, Phường 1, thị xã K, tỉnh Long An (vắng mặt).
- Người làm chứng:
1. Bùi Văn Đ, sinh năm 1979; Địa chỉ: Khu phố 5, phường 1, thị xã K, tỉnh Long An. (vắng mặt)
2. Phan Thanh Tr, sinh năm 1984; Địa chỉ: Khu phố 3, phường 1, thị xã K, tỉnh Long An. (vắng mặt)
3. Huỳnh Ngọc H1, sinh năm 1978; Địa chỉ: Khu phố 3, phường 1, thị xã K, tỉnh Long An. (vắng mặt)
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Vào khoảng 15 giờ ngày 22/4/2022, Trương Tiến D điều khiển xe mô tô biển số 51X5-24xx đi câu cá, mang theo giỏ xách câu cá bằng vải, bên trong có 02 cần câu máy và 01 con dao tự chế (mã tấu) dài 69cm, lưỡi bằng kim loại dài 51cm, nơi rộng nhất 06cm, cán bằng gỗ có kích thước 17,5x3,5cm. Khoảng 17 giờ cùng ngày, khi đang chạy xe thì D nghe có người kêu vào uống rượu nên dừng xe lại, vào nhậu cùng 03 người bạn, gồm: Bùi Thanh Đ, Huỳnh Ngọc H1 và Phan Thanh Tr tại bãi đất trống bên hông quán của ông Nguyễn Văn Ph thuộc Khu phố 5, Phường 1, thị xã K, tỉnh Long An. Trong lúc uống rượu, anh Lê Minh V1 từ trong quán đem thịt luộc ra bàn nhậu nhìn thấy D, do anh V1 không thích D uống rượu, chửi thề, đánh nhau nên đuổi D đi ra. Giữa D và anh V1 xảy ra cự cãi, D dùng tay và mũ bảo hiểm đánh anh V1 nhưng do mọi người can ngăn nên không trúng. D đi ra chỗ đậu xe mô tô lấy mã tấu đã mang theo trước đó. Lúc này, Đ nhìn thấy nên kêu anh V1 chạy, anh V1 đi ra lộ. D chạy lại bàn nhậu thì Tr và Đ ngăn cản, D nói “thằng nào cản tao chém chết mẹ” nên không ai dám can ngăn. D cầm dao chạy theo anh V1, lúc còn cách anh V1 một mét thì anh V1 quay lại đối diện D. D cầm dao bằng tay phải chém 01 nhát hướng từ trên xuống trúng đỉnh đầu của anh V1 làm chảy máu, anh V1 ngồi xuống. Thấy anh V1 chảy nhiều máu nên D cầm máu cho anh V1 rồi chạy lại cất con dao vào giỏ xách câu cá, lấy xe mô tô chở anh V1, Đ ôm anh V1 ngồi sau, đưa đến Bệnh viện Đa khoa khu vực Đ, thị xã K để cấp cứu. Sau đó, D chạy xe về quán của bạn gái tên Huỳnh Thị H, tạm trú tại Khu phố 3, Phường 1, thị xã K, tỉnh Long An để túi đựng cần câu vào vách tường và lấy con dao ném ở nền gạch. Thấy vậy, chị H kêu D đi đầu thú và lấy con dao đem cất, sợ D lại gây chuyện nữa, H quấn con dao bằng áo cũ rồi ném xuống cống thoát nước vì sợ người khác đụng vào con dao sẽ đứt tay, chân. D kêu H chở về Công an xã T, thị xã K để đầu thú.
Trong lúc chuẩn bị đi thì lực lượng Công an Phường 1, thị xã K đến mời D về làm việc. Tại cơ quan Công an, D đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội.
Tại Bản kết luận giám định pháp y về thương tích số 180 ngày 18/7/2022 của Trung tâm pháp y, Sở Y tế tỉnh Long An xác định:
- 01 sẹo vết thương vùng đỉnh trái kích thước 08 x 0,6 cm, lành không dấu thần kinh khu trú.
- CT scan sọ: Khuyết sọ đỉnh trái kích thước 50 x 22 mm. Nứt thành sau xoang hàm trái. Nhuyễn não (dập não cũ) vùng đỉnh trái kích thước khoảng 32 x 18 mm, dầy niêm mạc xoang hàm hai bên.
- Tụ máu ngoài màng cứng cùng đỉnh trái, xuất huyết liền não kèm tụ khí nội sọ.
- Xuất huyết khoang dưới nhện.
Kết luận: Tỷ lệ tổn thương cơ thể do thương tích gây nên tại thời điểm giám định của nạn nhân Lê Minh V1 là 57%.
Tại bản Cáo trạng số 27/CT-VKSLA-P2 ngày 24 tháng 4 năm 2023 của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Long An đã truy tố bị cáo Trương Tiến D về tội “Giết người” theo quy định tại điểm n khoản 1 Điều 123 của Bộ luật Hình sự.
Tại phiên tòa, Bị cáo Trương Tiến D thừa nhận hành vi phạm tội đúng như nội dung cáo trạng truy tố và xác định bị Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Long An truy tố về tội “Giết người” theo quy định tại điểm n khoản 1 Điều 123 của Bộ luật Hình sự là đúng, không oan. Bị cáo xin giảm nhẹ hình phạt.
Bị hại Lê Minh V1 xác định hành vi bị cáo thực hiện đúng như nội dung cáo trạng đã xác định. Về trách nhiệm dân sự: Bị hại yêu cầu bị cáo Trương Tiến D bồi thường 33.159.146 đồng gồm tiền viện phí, thuốc và ngày công lao động. Về trách nhiệm hình sự: Đề nghị Hội đồng xét xử xem xét theo quy định pháp luật.
Kiểm sát viên đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Long An phát biểu quan điểm luận tội:
Lời khai nhận của bị cáo tại phiên tòa phù hợp với lời khai của bị cáo tại cơ quan điều tra, phù hợp với lời khai của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan, người làm chứng và các chứng cứ khác thu thập được trong quá trình điều tra thể hiện trong hồ sơ vụ án như: Bản kết luận giám định pháp y về thương tích; Biên bản khám nghiệm hiện trường; Bản ảnh thực nghiệm hiện trường;… có đủ cơ sở xác định hành vi của bị cáo đã có đủ yếu tố cấu thành tội “Giết người” theo quy định tại điểm n khoản 1 Điều 123 của Bộ luật Hình sự nên Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Long An truy tố bị cáo về tội danh và điều luật như trên là có căn cứ, đúng pháp luật, không oan.
Hành vi của bị cáo dùng dao là hung khí nguy hiểm chém 01 cái trúng vào vùng đầu là vùng trọng yếu trên cơ thể của bị hại mục đích nhằm tước đoạt mạng sống của bị hại, bị hại không chết mà bị thương là nằm ngoài ý thức chủ quan của bị cáo, do đó cần có một hình phạt nghiêm khắc, cách ly bị cáo ra khỏi xã hội một thời gian mới có tác dụng cải tạo, giáo dục bị cáo và phòng ngừa chung.
Tuy nhiên, khi quyết định hình phạt đề nghị Hội đồng xét xử xem xét các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với bị cáo như: Bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, bị cáo làm giảm bớt tác hại của tội phạm là các tình tiết giảm nhẹ được quy định tại các điểm a, s khoản 1, khoản 2 Điều 51 của Bộ luật Hình sự. Ngoài ra, bị cáo phạm tội chưa đạt theo quy định tại Điều 15 của Bộ luật Hình sự.
Từ những phân tích trên, đề nghị Hội đồng xét xử: Tuyên bố bị cáo Trương Tiến D phạm tội “Giết người”.
Áp dụng điểm n khoản 1 Điều 123; điểm a, s khoản 1 Điều 51, Điều 15, Điều 38, Điều 50, Điều 57 của Bộ luật Hình sự, xử phạt bị cáo Trương Tiến D từ 12 năm tù đến 13 năm tù.
Về trách nhiệm dân sự: Buộc bị cáo có nghĩa vụ bồi thường cho bị hại số tiền 33.159.146 đồng.
Về xử lý vật chứng: Đề nghị tịch thu tiêu hủy 01 con dao dài 69cm, lưỡi bằng kim loại dài 51cm, nơi rộng nhất 06cm, cán bằng gỗ có kích thước 17,5x3,5cm, loại dao tự chế; 01 túi đựng cần câu cá màu đen, dài 1,5cm, rộng 0,2 m trên túi có đường viền màu xanh dọc theo chiều dài của túi có chữ Simano màu trắng và hình con cá màu trắng, túi có dây kéo và quay đeo, bên trong túi có hai cần câu máy (một cần câu màu đen được gấp đôi, ổ máy màu đen có viền vàng; 01 cần câu cá màu đen, thân màu vàng, được gấp đôi, ổ máy màu đen); 01 đôi dép xốp màu đen đã qua sử dụng, có chữ Asiasports.
Đối với 01 xe mô tô loại Dream màu nâu, hiệu LiFan biển số 51X5-24xx, số khung không có, số máy LF1P50FMG 10094842 đã qua sử dụng là tài sản của bị cáo nên tiếp tục tạm giữ để đảm bảo thi hành án.
Đối với Huỳnh Thị H kêu D đi đầu thú và lấy con dao đem cất, sợ D lại gây chuyện nữa, H quấn con dao bằng áo cũ rồi ném xuống cống thoát nước vì sợ người khác đụng vào con dao sẽ đứt tay, chân. Như vậy, hành vi của H không cấu thành tội “Che giấu tội phạm” nên Cơ quan điều tra Công an tỉnh Long An không xem xét khởi tố là có căn cứ.
Người bào chữa cho bị cáo trình bày: Luật sư thống nhất về tội danh và điều luật mà Viện kiểm sát truy tố đối với bị cáo. Đề nghị Hội đồng xét xử xem xét cho bị cáo các tình tiết giảm nhẹ như: Bị cáo bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải; sau khi thực hiện hành vi phạm tội đã cầm máu cho bị hại và đưa bị hại đi cấp cứu nhằm làm giảm bớt tác hại của tội phạm theo quy định tại điểm a, s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự. Do bị cáo có 02 tình tiết giảm nhẹ quy định tại khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự nên đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng xử phạt bị cáo mức hình phạt nhẹ nhất.
Lời nói sau cùng của bị cáo: Bị cáo xin Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt để bị cáo sớm về với gia đình.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan Cảnh sát điều tra Công an tỉnh Long An, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Long An, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự thủ tục theo quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo, bị hại không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.
Về sự vắng mặt của người tham gia tố tụng: Tại phiên tòa, vắng mặt người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan là Huỳnh Thị H và những người làm chứng Bùi Văn Đ, Phan Thanh Tr và Huỳnh Ngọc H1. Tuy nhiên, xét thấy bà H và những người làm chứng đã được triệu tập hợp lệ và đã có lời khai tại Cơ quan điều tra, việc vắng mặt của bà H và những người làm chứng không gây trở ngại cho việc xét xử, do đó căn cứ vào Điều 292 và Điều 293 của Bộ luật Tố tụng hình sự, Hội đồng xét xử quyết định vẫn tiến hành xét xử vắng mặt những người này.
[2] Về nội dung: Lời khai nhận của bị cáo Trương Tiến D tại phiên tòa phù hợp với lời khai của bị cáo tại Cơ quan điều tra, phù hợp với lời khai của bị hại, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan và người làm chứng trong quá trình điều tra và phù hợp với các tài liệu, chứng cứ trong hồ sơ vụ án như: Bản kết luận giám định pháp y về thương tích; Biên bản khám nghiệm hiện trường; Bản ảnh thực nghiệm hiện trường và những chứng cứ khác mà cơ quan điều tra đã thu thập được, có đủ căn cứ xác định:
Khoảng 17 giờ ngày 22/4/2022, tại bãi đất trống bên cạnh quán của ông Nguyễn Văn Ph thuộc Khu phố 5, Phường 1, thị xã K, tỉnh Long An, xuất phát từ việc Lê Minh V1 không cho Trương Tiến D nhậu chung vì V1 cho rằng D nhậu chửi thề và kiếm chuyện đánh nhau nên giữa D và V1 xảy ra mâu thuẫn, cự cãi. Do mọi người can ngăn nên D đánh V1 nhưng không trúng, sau đó D chạy lại xe mô tô biển số 51X5-24xx để lấy mã tấu rồi chạy đuổi theo V1 và đe dọa mọi người ai can ngăn sẽ chém. Khi D còn cách V1 khoảng 01 mét thì V1 quay lại đối diện với D. Lúc này, D cầm dao bằng tay phải chém 01 nhát hướng từ trên xuống trúng đỉnh đầu của V1 chảy máu, V1 ngồi xuống. D cầm máu cho V1 rồi cùng mọi người chở V1 đưa đến Bệnh viện Đa khoa khu vực Đ, thị xã K để cấp cứu. Tại Bản kết luận giám định pháp y về thương tích của Trung tâm pháp y, Sở Y tế tỉnh Long An kết luận: Tỷ lệ tổn thương cơ thể do thương tích gây nên tại thời điểm giám định của nạn nhân Lê Minh V1 là 57%.
[3] Hành vi của bị cáo xuất phát từ mâu thuẫn nhỏ nhặt do bị hại V1 không cho bị cáo tham gia nhậu chung nhưng bị cáo lại dùng dao là hung khí nguy hiểm chém vào đỉnh đầu là vùng trọng yếu trên cơ thể của bị hại V1. Tại văn bản số 264/TTPY-GĐTH ngày 08/9/2022 của Trung tâm Pháp y Sở Y tế Long An đã xác định “với tỷ lệ tổn thương cơ thể do thương tích gây nên của Lê Minh V1 nếu không được cấp cứu kịp thời có khả năng dẫn đến tử vong”. Vì vậy, bị hại không chết mà chỉ bị thương tích 57% do được cấp cứu kịp thời là nằm ngoài ý thức chủ quan của bị cáo. Hành vi của bị cáo có đủ yếu tố cấu thành tội “Giết người” theo quy định tại điểm n khoản 1 Điều 123 của Bộ luật Hình sự với tình tiết định khung là “có tính chất côn đồ” nên Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Long An truy tố bị cáo là có căn cứ, đúng pháp luật, không oan.
[4] Hành vi của bị cáo là rất nguy hiểm cho xã hội, đã trực tiếp xâm phạm đến quyền sống của con người, bị cáo cũng thừa biết quyền sống là một trong các quyền cơ bản của con người nhưng muốn giải quyết mâu thuẩn nhỏ nhặt với bị hại, bị cáo đã sử dụng dao là hung khí nguy hiểm chém vào đỉnh đầu là vùng trọng yếu trên cơ thể con người, có khả năng dẫn đến tử vong cho người bị hại, chứng tỏ bị cáo có bản chất hung hăng côn đồ, xem thường pháp luật, xem thường tính mạng, sức khỏe của người khác. Với tính chất, mức độ nguy hiểm của hành vi mà bị cáo thực hiện và hậu quả của hành vi mà bị cáo gây ra nên cần áp dụng hình phạt thỏa đáng, cần buộc cách ly bị cáo ra khỏi xã hội một thời gian dài nhất định mới có tác dụng răn đe, cải tạo, giáo dục bị cáo và phòng ngừa chung.
Khi quyết định hình phạt, Hội đồng xét xử xem xét các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với bị cáo. Về tình tiết tăng nặng: Bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự. Về tình tiết giảm nhẹ: Bị cáo đưa người bị hại đi cấp cứu nhằm làm giảm bớt tác hại của tội phạm; bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải là các tình tiết giảm nhẹ được quy định tại các điểm a, s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự nên xem xét giảm nhẹ một phần về hình phạt cho bị cáo. Bị hại không chết mà chỉ bị thương tích 57% nên hành vi của bị cáo là phạm tội chưa đạt theo quy định tại Điều 15 của Bộ luật Hình sự.
Nhận thấy, tuy bị cáo có 02 tình tiết giảm nhẹ theo quy định tại khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự nhưng bị cáo có nhân thân xấu, đã từng bị Tòa án xét xử cùng về tội “Giết người” mặc dù đã được xóa án tích nhưng cần áp dụng một mức hình phạt tương xứng để giáo dục bị cáo và phòng ngừa chung nên không áp dụng Điều 54 của Bộ luật Hình sự đối với bị cáo.
[5] Về trách nhiệm dân sự: Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị hại Lê Minh V1 yêu cầu bị cáo Trương Tiến D bồi thường tiền viện phí, thuốc và ngày công lao động là 33.159.146 đồng. Tại phiên tòa sơ thẩm, bị cáo Trương Tiến D đồng ý bồi thường theo yêu cầu của bị hại, do đó, Hội đồng xét xử ghi nhận sự tự nguyện thỏa thuận này giữa bị cáo và bị hại.
[6] Đối với Huỳnh Thị H sau khi biết D thực hiện hành vi phạm tội, H nói D đi đầu thú và lấy con dao đem cất do sợ D tiếp tục lấy dao thực hiện hành vi phạm tội. Sau đó, H quấn con dao bằng áo cũ rồi ném xuống cống thoát nước vì sợ người khác đụng vào con dao sẽ đứt tay, chân. Đến khi Cơ quan điều tra làm việc thì H đã chỉ ra nơi giấu con dao và Cơ quan điều tra cũng đã thu hồi được con dao mà bị cáo sử dụng vào việc phạm tội do đó hành vi của H không cấu thành tội “Che giấu tội phạm”, Cơ quan điều tra Công an tỉnh Long An không xử lý là có căn cứ.
[7] Về xử lý vật chứng, thực hiện theo quy định tại Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự, xử lý như sau:
Đối với 01 con dao dài 69 cm, lưỡi bằng kim loại dài 51 cm, nơi rộng nhất 06cm, cán bằng gỗ có kích thước 17,5x3,5cm, loại dao tự chế là hung khí bị cáo dùng để thực hiện hành vi phạm tội nên cần tịch thu tiêu hủy.
Đối với tài sản cá nhân của bị cáo gồm: 01 túi đựng cần câu cá màu đen, dài 1,5cm, rộng 0,2 m trên túi có đường viền màu xanh dọc theo chiều dài của túi có chữ Simano màu trắng và hình con cá màu trắng, túi có dây kéo và quay đeo, bên trong túi có hai cần câu máy (một cần câu màu đen được gấp đôi, ổ máy màu đen có viền vàng; 01 cần câu cá màu đen, thân màu vàng, được gấp đôi, ổ máy màu đen); 01 đôi dép xốp màu đen đã qua sử dụng, có chữ Asiasports, là các tài sản bị cáo không yêu cầu trả lại và xét hiện nay không còn giá trị sử dụng nên cần tịch thu tiêu hủy.
Đối với 01 xe mô tô loại Dream màu nâu, hiệu LiFan biển số 51X5-24xx, số khung không có, số máy LF1P50FMG 10094842 đã qua sử dụng là tài sản của bị cáo do đã mua, có nguồn gốc hợp pháp nên tiếp tục tạm giữ để đảm bảo thi hành án.
[8] Về án phí: Cău cứ Điều 135, 136 của Bộ luật Tố tụng hình sự và Điều 23 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội, buộc bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm và án phí dân sự sơ thẩm theo quy định.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
1. Tuyên bố: Bị cáo Trương Tiến D phạm tội “Giết người”.
Áp dụng điểm n khoản 1 Điều 123; điểm a, s khoản 1 Điều 51; Điều 15;
Điều 38; Điều 50; Điều 57 của Bộ luật Hình sự;
Xử phạt: Bị cáo Trương Tiến D 12 (mười hai) năm tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt tạm giam bị cáo (ngày 10 tháng 11 năm 2022).
Căn cứ Điều 329 của Bộ luật Tố tụng hình sự, tiếp tục tạm giam bị cáo Trương Tiến D 45 (bốn mươi lăm) ngày kể từ ngày tuyên án để bảo đảm cho việc kháng cáo, kháng nghị và thi hành án.
2. Về trách nhiệm dân sự: Áp dụng Điều 48 của Bộ luật Hình sự; khoản 1 Điều 584, khoản 1 Điều 585 và Điều 590 của Bộ luật Dân sự năm 2015, bị cáo Trương Tiến D có trách nhiệm bồi thường cho bị hại Lê Minh V1 số tiền tổng cộng là 33.159.146 đồng.
Kể từ ngày bản án có hiệu lực pháp luật hoặc kể từ ngày có đơn yêu cầu thi hành án của người được thi hành án cho đến khi thi hành án xong, bên phải thi hành án còn phải chịu khoản tiền lãi của số tiền còn phải thi hành án theo mức lãi suất quy định tại Điều 357, Điều 468 của Bộ luật Dân sự năm 2015, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác.
3. Về xử lý vật chứng: Áp dụng Điều 47 của Bộ luật Hình sự và Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự:
Tịch thu tiêu hủy: 01 con dao dài 69 cm, lưỡi bằng kim loại dài 51 cm, nơi rộng nhất 06cm, cán bằng gỗ có kích thước 17,5x3,5cm, loại dao tự chế; 01 túi đựng cần câu cá màu đen, dài 1,5cm, rộng 0,2 m trên túi có đường viền màu xanh dọc theo chiều dài của túi có chữ Simano màu trắng và hình con cá màu trắng, túi có dây kéo và quay đeo, bên trong túi có hai cần câu máy (một cần câu màu đen được gấp đôi, ổ máy màu đen có viền vàng; 01 cần câu cá màu đen, thân màu vàng, được gấp đôi, ổ máy màu đen); 01 đôi dép xốp màu đen đã qua sử dụng, có chữ Asiasports.
Tiếp tục tạm giữ để đảm bảo thi hành án: 01 xe mô tô loại Dream màu nâu, hiệu LiFan biển số 51X5-24xx, số khung không có, số máy LF1P50FMG 10094842.
Các vật chứng nêu trên hiện do Cục Thi hành án dân sự tỉnh Long An quản lý theo biên bản giao nhận vật chứng ngày 26 tháng 4 năm 2023.
4. Về án phí: Áp dụng Điều 135, 136 của Bộ luật Tố tụng hình sự và Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội buộc bị cáo Trương Tiến D phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm và 1.657.957 đồng án phí dân sự sơ thẩm.
5. Án xử sơ thẩm công khai. Bị cáo, bị hại có mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan vắng mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo về những vấn đề trực tiếp liên quan đến quyền lợi, nghĩa vụ của mình trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết công khai.
6. Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các điều 6, 7, 7a, 7b và 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.
Bản án về tội giết người số 37/2023/HS-ST
Số hiệu: | 37/2023/HS-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Long An |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 23/06/2023 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về