Bản án về tội giết người số 365/2021/HS-PT

TÒA ÁN NHÂN DÂN CẤP CAO TẠI THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

BẢN ÁN 365/2021/HS-PT NGÀY 21/10/2021 VỀ TỘI GIẾT NGƯỜI

Ngày 21 tháng 10 năm 2021, tại trụ sở Tòa án nhân dân cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh đưa ra xét xử phúc thẩm công khai vụ án hình sự phúc thẩm thụ lý số 42/2021/TLPT-HS ngày 21 tháng 01 năm 2021 đối với bị cáo Hoàng Thái S.

Do có kháng cáo của bị cáo và đại diện hợp pháp của người bị hại đối với bản án hình sự sơ thẩm số 119/2020/HS-ST ngày 16 tháng 12 năm 2020 của Tòa án nhân dân tỉnh Bình Dương.

- Bị cáo có kháng cáo, bị kháng cáo:

Họ và tên: Hoàng Thái S, sinh năm 1992, tại tỉnh Bình Dương; nơi cư trú số: 64/8, đường T, Khu phố 2, phường P, thành phố T, tỉnh B; nghề nghiệp: không; trình độ học vấn: 12/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; quốc tịch: Việt Nam; tôn giáo: không; con ông Hoàng Xuân N và bà Nguyễn Thị Hoài H; có 01 con; tiền án: không, tiền sự: không;

Nhân thân: Ngày 28/01/2019, bị Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố T, tỉnh Bình Dương khởi tố về tội “Cố ý gây thương tích” theo quy định tại Điều 134 của Bộ luật Hình sự. Ngày 20 tháng 5 năm 2019, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố T ra quyết định đình chỉ điều tra vụ án hình sự đối với Hoàng Thái S do bị hại rút đơn yêu cầu khởi tố vụ án và đề nghị miễn trách nhiệm hình sự; bị tạm giữ, tạm giam từ ngày 27/7/2020 cho đến nay (có mặt).

- Người bào chữa cho bị cáo Hoàng Thái S: Ông Khưu Thanh T và Nguyễn Văn H là Luật sư của Công ty luật TNHH G, thuộc Đoàn Luật sư Thành phố H (có mặt).

- Bị hại: Tạ Văn L (đã chết).

- Người đại diện hợp pháp của bị hại Tạ Văn L (có kháng cáo):

1. Ông Tạ Văn L1, sinh năm 1969.

2. Bà Lê Thị L2, sinh năm 1973.

Cùng địa chỉ: Thôn An Xuân 3, xã Xuân Hải, huyện Ninh Hải, tỉnh Ninh Thuận.

- Người đại diện ủy quyền của ông Tạ Văn L1 và bà Lê Thị L2: Ông Bùi Văn T, sinh năm 1985; địa chỉ: số 675A, đường Đ, Phường 18, Quận 4, Thành phố H (có mặt).

- Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho người đại diện hợp pháp của bị hại: Bà Trần Thị Hồng V là Luật sư của Văn Phòng Luật sư Trần Thị Hồng V và Cộng sự, thuộc Đoàn Luật sư Thành phố H (có mặt).

- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:

1. Bà Huỳnh Thị Kim C, sinh năm 2000; địa chỉ: Khu phố 1, phường P, thành phố T, tỉnh B (vắng mặt).

2. Ông Trần Trung H, sinh năm 1996; địa chỉ: ấp H, xã A, huyện D, tỉnh B (vắng mặt).

3. Ông Hoàng Xuân N, sinh năm 1955; địa chỉ: Khu phố 2, phường P, thành phố T, tỉnh B (vắng mặt).

- Người làm chứng:

1. Ông Trần Nguyễn Duy L3, sinh năm 1968 (vắng mặt).

2. Bà Huỳnh Thị Thanh T1, sinh năm 1977 (vắng mặt).

3. Bà Phạm Thị Thương, sinh năm 1992 (vắng mặt).

4. Ông Nguyễn Ngọc L4, sinh năm 1968 (vắng mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 17 giờ 40 phút ngày 27 tháng 7 năm 2020, Hoàng Thái S điều khiển xe mô tô nhãn hiệu Honda Vision, màu trắng nâu, biển số 61H1-449.03 lưu thông trên đường Phú Lợi hướng từ ngã tư Chợ Đình về ngã tư Lê Hồng Phong. Lúc này từ phía bên lề phải theo hướng lưu thông của S có Tạ Văn L điều khiển xe mô tô nhãn hiệu Suzuki Raider, màu đen, biển số 85C1-374.61 chạy từ đường Đại lộ Bình Dương vào đường Phú Lợi thì suýt va chạm vào xe mô tô của S nhưng L không xin lỗi S mà bỏ chạy về hướng ngã tư Lê Hồng Phong. Bực tức vì sự việc trên, S điều khiển xe mô tô đuổi theo L; khi đến hẻm số 85 đường Phú Lợi thuộc Tổ 6, Khu phố 2, phường P, thành phố T, tỉnh B thì đuổi kịp L, S ép xe của L vào sát lề đường bên phải và dùng chân phải đạp một cái vào hông xe bên trái của L làm xe mô tô và L ngã xuống đường. S xuống xe và dùng tay phải lấy một con dao dài khoảng 20 cm, cán dao bằng nhựa dài khoảng 10,5 cm, lưỡi dao bằng kim loại, mũi sắc nhọn từ trong hộc để đồ phía trước xe mô tô của S đâm 01 nhát trúng vào khuỷu tay trái của L, dùng tay chân đánh, đá nhiều cái vào người của L. Bị S đánh, L bỏ chạy thì S cất dao vào hộc để đồ phía trước của xe rồi điều khiển xe mô tô đuổi theo. Khi L chạy được khoảng 32 mét đến phía trước quán cà phê 68, địa chỉ: Khu 2, phường P, thành phố T, tỉnh Bình Dương thì bị S đuổi kịp. S dừng xe và dùng chân phải đá 01 cái trúng vào mặt của L làm L ngã xuống đường, S tiêp tục dùng chân đá và đạp nhiều cái trúng vào vùng mặt, đầu, ngực và bụng của L cho đến khi L bất tỉnh. Nhìn thấy L bị S đánh, chủ quán cà phê 68 là bà Huỳnh Thị Thanh T1 cùng chồng là ông Trần Nguyễn Duy L3 chạy ra can ngăn nên S dừng lại rồi điều khiển xe mô tô chạy tẩu thoát khỏi hiện trường. Đến 18 giờ 15 cùng ngày, bà Thúy đến Công an phường P, thành phố T trình báo về sự việc trên. Tiếp nhận tin báo, Công an phường P đến xác định hiện trường, ghi nhận vụ việc và báo Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an tỉnh Bình Dương xử lý theo thẩm quyền.

Tạ Văn L được người dân đưa đi cấp cứu tại Bệnh viện Đa khoa tỉnh Bình Dương và tử vong cùng ngày. Sau khi biết L tử vong, Hoàng Thái S đến Công an phường P, thành phố T đầu thú. Quá trình điều tra, Hoàng Thái S đã thừa nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình.

Vật chứng thu giữ: 01 dao dài khoảng 20 cm; 01 (một) xe mô tô nhãn hiệu Honda Vision, màu trắng nâu, biển số 61H1 – 449.03; 01 (một) giấy chứng nhận đăng ký xe mô tô, xe máy, biển số 61H1 – 449.03 mang tên Trần Trung H; 01 (một) xe mô tô nhãn hiệu Suzuki Raider, màu đen, biển số 85C1 – 374.61; 01 (một) cái áo màu xanh đen có chữ “NIGHT WING” màu xanh trước bụng (áo thun); 01 (một) cái quần lửng màu xanh xám; 01 (một) đôi dép màu đen.

Kết luận giám định pháp y tử thi số 585/PC09-GĐPY ngày 08/8/2020, Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Bình Dương đối với Tạ Văn L, kết luận:

(1) Dấu hiệu chính qua giám định:

- Bên ngoài bị vài vết sây sát da, tụ máu.

- Dập rách phổi, rốn phổi bên phải.

- Vỡ tim vùng tiểu nhỉ phải.

- Khoang màng phổi phải chứa 1000gam máu.

- Bao tim chứa 300gam máu đông và không đông.

(2) Cơ chế hình thành vết thương và đặc điểm hung khí:

- Cơ chế hình thành vết thương: Nạn nhân bị vài vết sây sát da, bầm tụ máu hằn tụ máu bên ngoài (đầu, mặt, ngực ...) trong đó có vết hằn tụ máu vùng ngực phải tại vị trí liên sườn 3,4 gây dập rách phổi, vỡ tim dẫn đến tử vong cho nạn nhân. Vết thương được hình thành theo cơ chế dẫm, đạp.

- Đặc điểm hung khí: Vết thương vùng ngực là do tác động của vật tày, cứng (chân, tay …) qua lớp đệm (áo …) gây nên.

(3) Nguyên nhân chết của nạn nhân: Đa chấn thương (do tác động của vật tày cứng vào vùng ngực gây vỡ tim, dập rách phổi).

Kết luận giám định số 16/SV-PC09 ngày 21/8/2020, Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Bình Dương, kết luận:

- Dấu vết trên con dao dài khoảng 20 cm, cán dao bằng nhựa dài khoảng 10,5cm, lưỡi dao bằng kim loại màu trắng, bảng mỏng, có một cạnh sắc, mũi nhọn, dài 9,5cm, bề rộng nhất của lưỡi dao 2,5cm gửi đến giám định: Có máu người thuộc nhóm máu O.

- Máu của nạn nhân Tạ Văn L gửi đến giám định: thuộc nhóm máu O.

Đối với xe mô tô nhãn hiệu Honda Vision, màu trắng nâu, biển số 61H1 – 449.03, số khung: RLHJF5818GY860382; số máy: JF66E-0592792. Qua tra cứu, xác định người đứng tên đăng ký chủ sở hữu là Trần Trung H đứng tên hộ cho bạn gái cũ là Huỳnh Thị Kim C. Ngày 27/7/2020, Chi cho Hoàng Thái S mượn để làm phương tiện đi lại. Việc S sử dụng xe để thực hiện hành vi phạm tội thì bà Chi không biết. Xét thấy đây là tài sản hợp pháp của bà Chi. Ngày 18/8/2020 Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an tỉnh Bình Dương Quyết định xử lý vật chứng số 45 trả lại cho bà Chi.

Đối với chiếc xe mô tô nhãn hiệu Suzuki Raider, màu đen, biển số 85C1 – 374.61, số khung: RLSDL11ANKV125971; số máy: CGA1525900 chủ sở hữu là bị hại Tạ Văn L. Ngày 18/8/2020 Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an tỉnh Bình Dương Quyết định xử lý vật chứng số 45 trả lại cho gia đình Tạ Văn L.

Về trách nhiệm dân sự: Bị hại Tạ Văn L có cha mẹ ruột là ông Tạ Văn L1 và bà Lê Thị L2 (ông L1, bà L2 ủy quyền cho ông Bùi Văn T). Ông Tiếng yêu cầu Hoàng Thái S bồi thường 638.900.000 đồng (sáu trăm ba mươi tám triệu chín trăm ngàn đồng), trong đó: chi phí mai táng là 278.900.000 đồng, chi phí cấp dưỡng nuôi cha mẹ của Tạ Văn L là 200.000.000 đồng, bồi thường tổn thất về tinh thần là 160.000.000 đồng. Bị cáo Hoàng Thái S đã tác động gia đình bồi thường số tiền 639.000.000 đồng cho cha mẹ Tạ Văn L.

Tại Bản án hình sự sơ thẩm số 119/2020/HS-ST ngày 16 tháng 12 năm 2020 của Tòa án nhân dân tỉnh Bình Dương, đã quyết định:

1. Về tội danh: Tuyên bố bị cáo Hoàng Thái S phạm tội “Giết người”.

2. Về hình phạt: Áp dụng điểm n khoản 1 Điều 123; điểm b, s khoản 1 và khoản 2 Điều 51; Điều 38 của Bộ luật Hình sự;

Xử phạt: Bị cáo Hoàng Thái S 16 (mười sáu) năm tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 27/7/2020.

Ngoài ra, bản án sơ thẩm còn tuyên về xử lý vật chứng, án phí và quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.

Ngày 21/12/2020, ông Tạ Văn L1 và bà Lê Thị L2 là đại diện hợp pháp của bị hại kháng cáo yêu cầu tăng hình phạt đối với bị cáo Hoàng Thái S.

Ngày 22/12/2020, bị cáo Hoàng Thái S kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt. Tại phiên tòa phúc thẩm: Người đại diện hợp pháp của bị hại và bị cáo giữ nguyên yêu cầu kháng cáo.

Đại diện Viện kiểm sát xét xử phúc thẩm phát biểu: Hành vi của bị cáo có tính chất côn đồ, do đó mức án 16 năm tù mà cấp sơ thẩm xử phạt là không tương xứng, nhẹ. Do đó đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu kháng cáo của người đại diện hợp pháp của người bị hại, xử phạt bị cáo Hoàng Thái S mức án từ 19 đến 20 năm tù.

Luật sư bào chữa cho bị cáo phát biểu: Nguyên nhân dẫn đến hành vi phạm tội của bị cáo có một phần lỗi từ người bị hại. Bị cáo có nhiều tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự như cấp sơ thẩm đã nhận định đó là bồi thường toàn bộ thiệt hại theo yêu cầu từ phía gia đình người bị hại, sau khi phạm tội đã ra tự thú, thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải; gia đình bị cáo có công với cách mạng. Trong quá trình chuẩn bị xét xử phúc thẩm, mặc dù không có yêu cầu từ phía gia đình người bị hại, tuy nhiên bị cáo tác động gia đình tiếp tục bồi thường số tiền 50.000.000 đồng, thể hiện thái độ ăn năn hối cải của bị cáo. Do đó đề nghị Hội đồng xét xử, xem xét giảm nhẹ và xử phạt bị cáo mức án thấp nhất của khung hình phạt.

Luật sư bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho gia đình người bị hại phát biểu: thống nhất với lập luận của đại diện Viện kiểm sát. Tuy nhiên về mức án, đề nghị xử phạt bị cáo Hoàng Thái S mức án tù chung thân.

Lời nói sau cùng bị cáo mong muốn được Hội đồng xét xử chấp nhận đơn kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

Kháng cáo của bị cáo Hoàng Thái S đúng về hình thức, nội dung và được nộp trong hạn luật định nên được Hội đồng xét xử xem xét theo trình tự phúc thẩm.

[1] Về nội dung vụ án: khoảng 17 giờ 40 phút ngày 27 tháng 7 năm 2020, xuất phát từ việc anh Tạ Văn L điều khiển xe mô tô biển số 85C1-374.61 suýt va chạm vào xe mô tô biển số 61H1- 449.03 do Hoàng Thái S điều khiển nhưng không xin lỗi S, S bực tức điều khiển xe mô tô đuổi theo anh L. Khi đến hẻm 85 đường P thuộc tổ 6, khu 2, phường P, thành phố T, tỉnh B, S điều khiển xe ép xe của anh L rồi dùng chân phải đạp làm anh L và xe mô tô ngã. Sau đó, S lấy một con dao dài khoảng 20 cm đâm 01 nhát trúng vào khuỷu tay trái và dùng tay chân đánh, đá nhiều cái vào người của L. L bỏ chạy, S tiếp tục đuổi theo đến phía trước quán Cà phê 68, địa chỉ: Khu 2, phường P, thành phố T, tỉnh B, S dùng chân phải đá 01 cái trúng vào mặt của L rồi dùng chân đá, đạp nhiều cái trúng vào vùng mặt, đầu, ngực và bụng của anh L gây thương tích đa chấn thương (vỡ tim, dập rách phổi…). Mặc dù được đưa đi cấp cứu kịp thời, nhưng anh L đã tử vong cùng ngày tại bệnh viện.

[2] Quá trình điều tra, xét xử bị cáo khai nhận diễn biến hành vi phạm tội như nêu trên và thừa nhận chính bị cáo đã dùng vũ lực đạp, đá nhiều lần vào vùng ngực, vùng đầu nạn nhân, gây hậu quả khiến người bị hại tử vong. Do đó, Tòa án cấp sơ thẩm tuyên bố bị cáo Hoàng Thái S phạm tội “Giết người” theo Điều 123 Bộ luật hình sự là có căn cứ. Xét thấy, chỉ vì một nguyên cớ nhỏ, không đáng kể, bị cáo đã không kiềm chế bản thân, dùng vũ lực để giải quyết mâu thuẫn, đánh người bị hại dẫn tới tử vong, vì thế Tòa án cấp sơ thẩm đã áp dụng tình tiết định khung tăng nặng “Có tính chất côn đồ” theo điểm n khoản 1 Điều 123 Bộ luật hình sự là đúng pháp luật.

[3] Xét kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt của bị cáo và đại diện hợp pháp của người bị hại, Hội đồng xét xử thấy rằng: Khi quyết định hình phạt, Tòa án cấp sơ thẩm đã áp dụng đầy đủ các tình tiết giảm nhẹ cho bị cáo như sau khi phạm tội đã ra tự thú; quá trình điều tra và xét xử đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải; tự nguyện bồi thường khắc phục hậu quả theo quy định tại các điểm b, r, s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự. Đồng thời nguyên nhân dẫn tới hành vi phạm tội của bị cáo có một phần lỗi của người bị hại khi tham gia giao thông không chú ý quan sát dẫn tới bị cáo cho rằng suýt dẫn đến tai nạn giao thông, nhưng lại không có cách ứng xử phù hợp dẫn tới hành vi phạm tội của bị cáo; gia đình bị cáo có công với cách mạng. Do đó mức án 16 (mười sáu) năm tù mà cấp sơ thẩm xử phạt là tương xứng với hành vi và hậu quả mà bị cáo gây ra. Tuy nhiên xét thấy, sau khi phạm tội bị cáo đã tác động gia đình bồi thường toàn bộ số tiền theo yêu cầu của gia đình người bị hại. Trong quá trình chuẩn bị xét xử phúc thẩm nhận thấy hành vi sai trái của mình và day dứt với hành vi đó, bị cáo tiếp tục tự nguyện bồi thường số tiền 50.000.000 đồng tại Cục thi hành án dân sự tỉnh Bình Dương để bù đắp một phần mất mát cho gia đình nạn nhân. Điều đó thể hiện bị cáo thực sự biết ăn năn hối cải. Do đó Hội đồng xét xử không chấp nhận đơn kháng cáo của người đại diện hợp pháp của người bị hại; đồng thời chấp nhận đơn kháng cáo, giảm nhẹ một phần hình phạt cho bị cáo.

[4] Quan điểm của Đại diện Viện kiểm sát xét xử phúc thẩm tại phiên tòa và đề nghị của vị Luật sư bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho gia đình người bị hại không được Hội đồng xét xử chấp nhận.

Chấp nhận một phần quan điểm bào chữa của Luật sư.

[5] Án phí hình sự phúc thẩm: Do kháng cáo được chấp nhận nên bị cáo không phải chịu tiền án phí hình sự phúc thẩm.

[6] Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào điểm a, b khoản 1 Điều 355 của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015;

[1] Không chấp nhận kháng cáo đề nghị tăng nặng hình phạt của ông Tạ Văn L1 và bà Lê Thị L2 là đại diện hợp pháp của bị hại.

Chấp nhận kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt của bị cáo Hoàng Thái S.

Sửa bản án sơ thẩm số 119/2020/HS-ST ngày 16 tháng 12 năm 2020 của Tòa án nhân dân tỉnh Bình Dương.

[1.1] Về tội danh:

Tuyên bố bị cáo Hoàng Thái S phạm tội “Giết người”.

[1.2] Về hình phạt:

Áp dụng điểm n khoản 1 Điều 123; điểm b, s khoản 1 và khoản 2 Điều 51; Điều 38 của Bộ luật Hình sự;

Xử phạt: Bị cáo Hoàng Thái S 14 (Mười bốn) năm tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 27/7/2020.

[2] Về án phí: Áp dụng Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Uỷ ban Thường vụ Quốc hội.

Bị cáo Hoàng Thái S không phải chịu án phí hình sự phúc thẩm.

[3] Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

[4] Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

692
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội giết người số 365/2021/HS-PT

Số hiệu:365/2021/HS-PT
Cấp xét xử:Phúc thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân cấp cao
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành:21/10/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về