Bản án về tội giết người số 357/2023/HS-PT

TÒA ÁN NHÂN DÂN CẤP CAO TẠI ĐÀ NẴNG

BẢN ÁN 357/2023/HS-PT NGÀY 29/08/2023 VỀ TỘI GIẾT NGƯỜI

Ngày 29 tháng 8 năm 2023, tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Bình Định xét xử phúc thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 313/2023/TLPT-HS ngày 03 tháng 7 năm 2023 đối với bị cáo Phạm Văn H và đồng phạm về tội “Giết người”. Do có kháng cáo của các bị cáo và kháng cáo của người đại diện hợp pháp của bị hại đối với Bản án hình sự sơ thẩm số 10/2023/HS-ST ngày 26 tháng 5 năm 2023 của Tòa án nhân dân tỉnh Bình Định.

- Bị cáo có kháng cáo:

1. Phạm Văn H, sinh năm 2001 tại Bình Định; nơi cư trú: Thôn A, xã N, thị xã A, tỉnh Bình Định; nghề nghiệp: Làm nông; trình độ văn hóa: 9/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Phạm Văn G và bà Bùi Thị Lệ S; tiền án, tiền sự: Không; Bị bắt tạm giữ, tạm giam ngày 18/02/2022; có mặt.

2. Trương Thanh T, sinh năm 2000 tại Bình Định; nơi cư trú: Thôn Đ, xã N, thị xã A, tỉnh Bình Định; nghề nghiệp: Không; trình độ văn hóa: 9/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Trương Ngọc Q và bà Trần Thị Minh H1; tiền án, tiền sự: Không; Bị bắt tạm giữ, tạm giam ngày 17/02/2022; có mặt.

3. Hồ Việt T1, sinh ngày 18/3/2004 tại Bình Định (Đến thời điểm phạm tội bị cáo được 17 tuổi 10 tháng 26 ngày); nơi cư trú: Thôn A, xã N, thị xã A, tỉnh Bình Định; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ văn hóa: 9/12; dân tộc:

Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Hồ Văn T2 và bà Phạm Thị C; tiền án, tiền sự: Không; Bị bắt tạm giữ, tạm giam ngày 17/02/2022 đến ngày 15/10/2022 thay thế biện pháp ngăn chặn từ tạm giam sang bảo lĩnh; có mặt.

- Người bào chữa cho các bị cáo:

+ Người bào chữa cho bị cáo Phạm Văn H: Ông Nguyễn Thế V - Luật sư hoạt động tại Công ty TNHH MTV N2 thuộc Đoàn luật sư tỉnh B. Có mặt.

+ Người bào chữa cho bị cáo Trương Thanh T: Ông Hoàng Trọng Q1 - Luật sư hoạt động tại V2 thuộc Đoàn luật sư tỉnh B. Có mặt.

+ Người bào chữa cho bị cáo Hồ Việt T1: Bà Nguyễn Thị Hồng T3 - Trợ giúp viên pháp lý của Trung tâm Trợ giúp pháp lý tỉnh B. Có đơn đề nghị xét xử vắng mặt.

- Người đại diện hợp pháp của bị cáo Hồ Việt T1: Ông Hồ Văn T2, sinh năm 1960 và bà Phạm Thị C, sinh năm 1964; đồng trú tại: Thôn A, xã N, thị xã A, tỉnh Bình Định. Có mặt.

- Bị hại: Nguyễn Minh S1 (đã chết). Đại diện hợp pháp của bị hại: Bà Nguyễn Thị L, sinh năm 1993; Địa chỉ: Thôn T, xã N, thị xã A, tỉnh Bình Định. Có mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Xuất phát từ việc Nguyễn Hồng V1 có mâu thuẫn trước đó với Nguyễn Minh S1, nên chiều tối ngày 14/02/2022, V1 và S1 hẹn gặp nhau tại ngã tư đèn xanh đèn đỏ (gần quán cây Ba thuộc xã N, thị xã A, tỉnh Bình Định) để giải quyết mâu thuẫn. Nguyễn Hồng V1 rủ Võ Chí H2, Phạm Quốc C1, Trương Thanh T, Phan Ngọc S2, Nguyễn Văn P, Nguyễn Hoàng D, Nguyễn Minh T4, Huỳnh Ngọc T5, gọi điện thoại rủ Trương Đắc T6, Hồ Việt T1, Phạm Văn H, Lâm Tiến H3; mượn xe ô tô 16 chỗ của Lâm Tiến H3 để làm phương tiện chở đồng bọn đi đánh S1, H3 đồng ý và rủ Nguyễn Anh Đ đi cùng.

Trước khi đi, V1 và Võ Chí H2 chuẩn bị khoảng hơn 14 cây phảng phát bờ, 03 - 04 cây kiếm N đem bỏ lên xe ô tô của Lâm Tiến H3 để đi đánh nhau. Sau đó, V1 cùng đồng bọn lên xe ô tô do Đ điều khiển, riêng Nguyễn Hoàng D điều khiển xe mô tô chở Nguyễn Minh T4 cầm 02 cây kiếm chạy theo xe ô tô trên.

Lúc này, Nguyễn Quốc T7 điều khiển xe mô tô chở Đinh Trọng N1 và Nguyễn Minh S1 đến điểm hẹn; xe ô tô nhóm V1 do Đ điều khiển cũng vừa tới, thấy nhóm S1 đang đứng bên kia đường thì dừng xe lại, cả nhóm bước xuống xe cầm theo hung khí chạy lại đánh nhóm S1. Khi đó V1 cầm kiếm N tát vào mặt N1 một cái, chém vào S1 một cái ngang người rồi chém hai cái từ trên xuống, S1 đưa tay đỡ nên trúng vào tay, S1 rút con dao từ trong túi quần ra, V1 đâm tiếp một cái vào hông S1 làm S1 gục ngã bên đường; đồng thời Dự cũng dùng kiếm chém trúng vào lưng S1 02 cái; C1 cầm phảng chém trúng vào lưng S1 01 cái; Lâm Tiến H3 ném phảng về phía T7 đang bỏ chạy về hướng B, T (không trúng T7). Sau khi chém S1 gục ngã bên đường, nhóm V1 tiếp tục rượt đuổi đánh T7, nhưng không đánh được. Sau đó, cả nhóm bỏ đi thì gặp người của nhóm S1 là: Võ Anh Đ1, Trần Văn B, Võ Văn T8, nhưng cả hai nhóm không xảy ra đánh sau. Nguyễn Văn S3 được Nguyễn Quốc P1 cùng mọi người đưa đi cấp cứu tại Bệnh viện đa khoa tỉnh B nhưng đã tử vong.

Tại Bản kết luận giám định pháp y về tử thi số 53/2022/PY-TT của Trung tâm pháp y tỉnh B ngày 22/02/2022 kết luận:

1. Dấu hiệu chính qua giám định:

+ Xây xát da vùng thái dương trái.

+ Vùng bụng trái có vết thương phòi mạc nối ra ngoài, bờ mép sắc gọn, góc trên vuốt, góc dưới tù.

+ Mỏm vai trái có vết thương lóc cuốn da bờ mép sắc gọn, góc ngoài tù, góc trong vuốt.

+ Mặt sau ngoài 1/3 dưới cẳng tay trái có vết thương bờ mép sắc gọn có độ lóc da từ trên xuống dưới.

+ Vết thương mặt sau 1/3 giữa cẳng tay phải sâu tới xương, bờ mép sắc gọn hướng từ trên xuống dưới, đứt hai xương từ bờ xương đến thân xương.

+ Mổ mở rộng vết thương vùng bụng trái: Ổ bụng có nhiều máu không đông, vết thương thủng lách từ thân lách đến cuốn lách.

2. Nguyên nhân chết: Suy tuần hoàn cấp do vết thương thấu bụng gây thủng lách + đa vết thương.

* Về vật chứng vụ án: Cơ quan cảnh sát điều tra thu giữ các vật chứng gồm:

+ 01 (một) xe ô tô gắn biển kiểm soát 76B – 003.83, loại 16 chỗ màu trắng, không kiểm tra chất lượng bên trong xe.

+ 01 (một) cây phảng dài 113cm, lưỡi bằng kim loại dài 36cm, cán bằng tre tròn dài 77cm;

+ 01 (một) cây phảng cán bằng gỗ dài 79cm, chu vi rộng nhất 10cm; phần lưỡi bằng kim loại dài 38cm, bản rộng nhất 7cm (ký hiệu số 1);

+ 01 (một) cây phảng cán bằng gỗ dài 76,5cm, chu vi rộng nhất 11cm;

phần lưỡi bằng kim loại dài 35,7cm, bản rộng nhất 7cm (ký hiệu số 2);

+ 01 (một) cây phảng cán bằng gỗ dài 78cm, chu vi rộng nhất 11cm; phần lưỡi bằng kim loại dài 36,5cm, bản rộng nhất 7cm (ký hiệu số 3);

+ 01 (một) cây phảng cán bằng gỗ dài 80cm, chu vi rộng nhất 10cm; phần lưỡi bằng kim loại dài 41cm, bản rộng nhất 6,5cm (ký hiệu số 4);

+ 01 (một) cây phảng cán bằng gỗ dài 81,5cm, chu vi rộng nhất 10cm;

phần lưỡi bằng kim loại dài 35,6cm, bản rộng nhất 6,4cm (ký hiệu số 5);

+ 01 (một) cây phảng cán bằng gỗ dài 80cm, chu vi rộng nhất 10cm; phần lưỡi bằng kim loại dài 43cm, bản rộng nhất 6,5cm (ký hiệu số 6);

+ 01 (một) cây phảng cán bằng gỗ dài 79,5cm, chu vi rộng nhất 11cm;

phần lưỡi bằng kim loại dài 41cm, bản rộng nhất 6,7cm (ký hiệu số 7);

+ 01 (một) dao tự chế có cán bằng gỗ hình trụ tròn, dài 23cm, đường kính 3cm; lưỡi bằng kim loại dài 27,7cm, bản rộng nhất 6,1cm (ký hiệu số 15);

+ 01 (một) cây phảng cán bằng gỗ dài 81,5cm, chu vi rộng nhất 12cm;

phần lưỡi bằng kim loại dài 35,8cm, bản rộng nhất 6cm (ký hiệu số 16);

+ 01 (một) cây phảng cán bằng gỗ dài 77,7cm, chu vi rộng nhất 11cm;

phần lưỡi bằng kim loại dài 35cm, bản rộng nhất 7cm (ký hiệu số 12);

+ 01 (một) cây kiếm có cán bằng gỗ màu vàng, kích thước phần cán dài 9cm, rộng nhất 5cm; phần lưỡi bằng kim loại dài 58,5cm, bản rộng nhất 4cm;

bao kiếm bằng gỗ màu vàng dài 78cm, bản rộng nhất 7cm (ký hiệu số 14);

+ 01 (một) cây kiếm có cán bằng gỗ ốp nhựa màu trắng, quấn bên ngoài cùng vải dù màu đen, có kích thước phần cán dài 24,5cm, rộng 3,5cm; phần lưỡi bằng kim loại dài 52,5cm, bản rộng nhất 3cm;

+ 01 (một) cây phảng tự chế cán bằng sắt hình trụ tròn dài 175cm, đường kính 2cm; lưỡi bằng kim loại dài 23cm, bản rộng nhất 7,2cm (ký hiệu số 17);

+ 01 (một) cây phảng tự chế cán bằng sắt hình trụ tròn dài 122cm, đường kính 2,5cm; lưỡi bằng kim loại dài 63cm, bản rộng nhất 4,5cm (ký hiệu số 18);

+ 01 (một) cây phảng tự chế cán bằng sắt hình trụ tròn dài 120cm, đường kính 2,5cm; lưỡi bằng kim loại dài 49cm, bản rộng nhất 3,7cm (ký hiệu số 19);

+ 01 (một) cây phảng tự chế cán bằng sắt hình trụ tròn dài 111,5cm, đường kính 2,5cm; lưỡi bằng kim loại dài 62cm, bản rộng nhất 4,5cm (ký hiệu số 20);

+ 01 (một) cây phảng cán bằng gỗ dài 76,5cm, chu vi rộng nhất 10cm;

phần lưỡi bằng kim loại dài 35,6cm, bản rộng nhất 7cm (ký hiệu số 8);

+ 01 (một) cây phảng cán bằng gỗ dài 76cm, chu vi rộng nhất 10cm; phần lưỡi bằng kim loại dài 35,5cm, bản rộng nhất 6,7cm (ký hiệu số 9);

+ 01 (một) cây phảng cán bằng gỗ dài 77cm, chu vi rộng nhất 10cm; phần lưỡi bằng kim loại dài 36cm, bản rộng nhất 7cm (ký hiệu số 10);

+ 01 (một) cây phảng cán bằng gỗ dài 81cm, chu vi rộng nhất 10cm; phần lưỡi bằng kim loại dài 36cm, bản rộng nhất 6cm (ký hiệu số 11);

+ 01 (một) cây phảng cán bằng gỗ dài 76,5cm, chu vi rộng nhất 10cm;

phần lưỡi bằng kim loại dài 35,5cm, bản rộng nhất 7cm (ký hiệu số 13);

+ 01 (một) cây phảng cán bằng gỗ dài 79,5cm, chu vi rộng nhất 10cm;

phần lưỡi bằng kim loại dài 40cm, bản rộng nhất 6,5cm (ký hiệu số 13.1).

* Về Dân sự: Gia đình Nguyễn Minh S1 đã chi phí ma chay, mai táng, xây mồ mả số tiền 80.480.000 đồng; Gia đình bị cáo Trương Thanh T đã bồi thường thiệt hại cho gia đình Nguyễn Minh S1 số tiền là 10.000.000 đồng, gia đình bị cáo Lâm Tiến H3 đã bồi thường thiệt hại cho gia đình Nguyễn Minh S1 số tiền là 15.000.000 đồng, gia đình bị cáo Phạm Văn H đã bồi thường thiệt hại cho gia đình Nguyễn Minh S1 số tiền là 5.000.000 đồng. Gia đình bị cáo Nguyễn Anh Đ, Trương Đắc T6 đã tự nguyện nộp cho Cơ quan điều tra, mỗi gia đình 10.000.000 đồng để khắc phục hậu quả.

Tại Bản án hình sự sơ thẩm số 10/2023/HS-ST ngày 26/5/2023 của Toà án nhân dân tỉnh Bình Định đã quyết định:

Căn cứ điểm n khoản 1 Điều 123; điểm b, s khoản 1, 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự đối với các bị cáo: Trương Thanh T, Phạm Văn H;

Căn cứ điểm n khoản 1 Điều 123; điểm b, s khoản 1, 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự, Điều 91; Điều 101 Bộ luật Hình sự đối với bị cáo Hồ Việt T1;

Căn cứ Điều 17, 47, 48, 58 Bộ luật Hình sự; Điều 106,135 Bộ luật Tố tụng hình sự.

Căn cứ Điều 584; 585; 586 và 591 của Bộ luật Dân sự năm 2015.

Căn cứ quy điểm a, c khoản 1 Điều 23; điểm a khoản 6 Điều 27 Nghị Quyết số 326/2016/UBTVQH14ngày 30/12/2016 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Tuyên xử:

1. Về tội danh:

Tuyên bố các bị cáo Trương Thanh T, Hồ Việt T1, Phạm Văn H phạm tội “Giết người”.

2. Về hình phạt:

2.1. Xử phạt bị cáo Phạm Văn H 12 (mười hai) năm tù. Thời hạn tù tính từ ngày bắt tạm giữ, tạm giam bị cáo, ngày 18/02/2022.

2.2. Xử phạt bị cáo Trương Thanh T 12 (mười hai) năm tù. Thời hạn tù tính từ ngày bắt tạm giữ, tạm giam bị cáo, ngày 17/02/2022.

2.3. Xử phạt bị cáo Hồ Việt T1 09 (chín) năm tù. Thời hạn tù tính từ ngày bắt bị cáo đi thi hành án, được trừ thời gian bị cáo bị bắt tạm giữ, tạm giam từ ngày 17/02/2022 đến ngày 15/10/2022.

Ngoài ra, Bản án sơ thẩm còn quyết định về phần tội danh và hình phạt đối với các bị cáo khác, về trách nhiệm dân sự, về xử lý vật chứng, về án phí, về quyền và nghĩa vụ thi hành án và thông báo về quyền kháng cáo.

Ngày 29/5 và ngày 09/6/2023 các bị cáo Hồ Việt T1, Phạm Văn H và Trương Thanh T có đơn kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt.

Ngày 07 và ngày 09/6/2023 đại diện hợp pháp của bị hại Nguyễn Minh S1 là bà Nguyễn Thị L có đơn kháng cáo với nội dung: xin giảm nhẹ hình phạt cho các bị cáo Hồ Việt T1, Phạm Văn H và Trương Thanh T.

Tại phiên tòa phúc thẩm:

Các bị cáo Phạm Văn H, Hồ Việt T1 và đại diện hợp pháp của bị hại bà Nguyễn Thị L vẫn giữ nguyên nội dung kháng cáo như trong đơn đã nêu, đề nghị xem xét giảm nhẹ hình phạt cho các bị cáo; riêng bị cáo Trương Thanh T tự nguyện rút lại đơn kháng cáo.

Luật sư bào chữa cho bị cáo T nêu quan điểm: tuy tại phiên toà bị cáo T rút đơn kháng cáo, nhưng đại diện hợp pháp của người bị hại vẫn giữ nguyên kháng cáo xin giảm nhẹ cho bị cáo T; bị cáo T không quen biết bị hại, không có mâu thuẫn và không hẹn hò với bị hại, gặp xe là lên đi, khi đến hiện trường chỉ cầm cái phảng đứng đó chứ không làm gì, nhưng án phạt 12 năm tù là quá nặng. Án sơ thẩm nhận định bị cáo có nhiều tình tiết giảm nhẹ ở khoản 1, khoản 2 Điều 51, nhưng khi quyết định hình phạt không áp dụng Điều 54 là thiếu sót. Tại phiên toà phúc thẩm bị cáo có hai tình tiết mới là đã bồi thường xong thiệt hại và người bị hại có đơn xin giảm nhẹ; bị cáo đã hoàn thành nghĩa vụ quân sự; vai trò bị cáo không đáng kể. Vì vậy, đề nghị HĐXX giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo T.

Luật sư bào chữa cho bị cáo H nêu quan điểm: bị cáo H không có mâu thuẫn với bị hại, vì cả nể bạn bè nên tham gia giúp sức về mặt tinh thần, không trực tiếp thực hiện hành vi phạm tội. Bị cáo có nhiều tình tiết giảm nhẹ, chấp hành tốt chủ trương, chính sách, chưa có tiền án , tiền sự; có ông nội là người có công cách mạng; bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải; tác động gia đình bồi thường xong và người bị hại xin giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo, nhưng án phạt 12 năm tù là quá nặng. Tại phiên toà phúc thẩm bị cáo có hai tình tiết mới là đã bồi thường xong thiệt hại và người bị hại có đơn xin giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo. Vì vậy, đề nghị HĐXX áp dụng Điều 54 xử dưới khung hình phạt cho bị cáo H.

Người bào chữa cho bị cáo Hồ Việt T1 có đơn đề nghị xét xử vắng mặt và gửi luận cứ nêu quan điểm: bị cáo T1 được V1 rủ đi là lên xe đi chứ không biết đánh nhau, khi đến hiện trường bị cáo cầm hung khí chứ không đánh ai, bị cáo có vai trò không đáng kể là người chưa đủ 18 tuổi nên nhận thức xã hội và pháp luật hạn chế, bị cáo phạm tội là do nông nổi nhất thời. Bị cáo có nhân thân tốt, chưa có tiền án, tiền sự; thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải; tác động gia đình bồi thường xong và người bị hại xin giảm nhẹ, nhưng án phạt 09 năm tù là quá nặng. Tại phiên toà phúc thẩm bị cáo có hai tình tiết mới là đã bồi thường xong thiệt hại và người bị hại có đơn xin giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo. Vì vậy, đề nghị HĐXX áp dụng Điều 54 giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo T1.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Đà Nẵng trình bày quan điểm: kháng cáo của các bị cáo và đại diện hợp pháp của bị hại là hợp lệ đúng pháp luật được xem xét theo thủ tục phúc thẩm; các bị cáo và đại diện hợp pháp của bị hại kháng cáo đề nghị sửa án sơ thẩm giảm nhẹ hình phạt. Tại phiên tòa hôm nay, qua tranh luận xét thấy việc điều tra là đầy đủ, toàn diện. Căn cứ vào các tài liệu chứng cứ có trong hồ sơ vụ án Tòa án cấp sơ thẩm đã áp dụng điểm n khoản 1 Điều 123; điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51 BLHS xử phạt bị cáo Trương Thanh T và Phạm Văn H mỗi bị cáo 12 năm tù; áp dụng thêm Điều 91; Điều 101 Bộ luật hình sự, xử phạt bị cáo Hồ Việt T1 09 năm tù là có căn cứ. Các bị cáo và đại diện hợp pháp của bị hại kháng cáo, tại phiên toà hôm nay có cung cấp được hai tình tiết giảm nhẹ mới; vì vậy, đề nghị HĐXX chấp nhận kháng cáo của các bị cáo và đại diện hợp pháp của bị hại; áp dụng Điều 54 giảm nhẹ hình phạt cho các bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Tại phiên tòa phúc thẩm, các bị cáo Hồ Việt T1, Phạm Văn H và Trương Thanh T thừa nhận toàn bộ hành vi như án sơ thẩm đã nêu, lời khai của các bị cáo phù hợp với lời khai của các bị cáo khác trong vụ án; người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan; người làm chứng và các tài liệu, chứng cứ khác tại cơ quan điều tra và được xem xét đánh giá tại các phiên toà. Như vậy, có đủ căn cứ chứng minh kết luận: chỉ vì mâu thuẫn với nhau từ trước giữa Nguyễn Hồng V1 và Nguyễn Minh S1 mà vào chiều tối ngày 14/02/2022 V1 đã rủ rê gọi điện 13 người khác trong đó có các bị cáo Hồ Việt T1, Phạm Văn H và Trương Thanh T; cùng Võ Chí H2 mang theo 14 cây phảng phát bờ và 4 cây kiếm N lên xe 16 chỗ của Lâm Tiến H3 do Nguyễn Anh Đ cầm lái đến ngã tư quán C thuộc xã N, thị xã A, tỉnh Bình Định nơi hai bên hẹn nhau giải quyết mâu thuẫn bằng bạo lực. Hậu quả Nguyễn Hồng V1 dùng kiếm N đâm chí mạng vào hông Nguyễn Minh S1 gây thủng lách dẫn đến tử vong.

[2] Với hành vi và hậu quả như trên; Toà án cấp sơ thẩm đã xem xét nguyên nhân, động cơ, mục đích, tính chất mức độ, hậu quả của tội phạm, nhân thân và các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ, vai trò của từng bị cáo. Các bị cáo có nhiều tình tiết giảm nhẹ như thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải; đã bồi thường thiệt hại; đại diện hợp pháp của người bị hại có đơn xin giảm nhẹ; bị cáo T1 là người chưa thành niên. Từ đó Toà án cấp sơ thẩm đã áp dụng điểm n khoản 1 Điều 123 có khung hình phạt tù từ 12 năm đến 20 năm, tù chung thân hoặc tử hình; điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51 BLHS xử phạt bị cáo Trương Thanh T và Phạm Văn H mỗi bị cáo 12 năm tù; áp dụng thêm Điều 91; Điều 101 Bộ luật hình sự, xử phạt bị cáo Hồ Việt T1 09 năm tù là đúng pháp luật; 13 bị cáo còn lại có mức hình phạt từ 10 đến 19 năm tù không kháng cáo.

[3] Xét kháng cáo xin giảm nhẹ mức hình phạt của các bị cáo và của đại diện hợp pháp của bị hại; HĐXX thấy rằng: tại phiên toà hôm này dù bị cáo T tự nguyện rút đơn kháng cáo, nhưng đại diện hợp pháp của bị hại vẫn giữ nguyên nội dung kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt cho cả ba bị cáo Hồ Việt T1, Phạm Văn H và Trương Thanh T, nên HĐXX vẫn xem xét đối với bị cáo T. Qua ý kiến trình bày của những người bào chữa và quan điểm của đại diện Viện kiểm sát: cả ba bị cáo đều có vai trò thứ yếu, tuy có tham gia đi đến hiện trường và sử dụng hung khí, nhưng không tham gia tấn công người bị hại. Quá trình điều tra, truy tố, xét xử đều thể hiện sự ăn năn hối cải và thành khẩn khai báo, đã bồi thường một phần thiệt hại, nên cấp sơ thẩm áp dụng điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51 BLHS cho các bị cáo xử mức án khởi điểm khung hình phạt. Tại phiên toà hôm nay các bị cáo có cung cấp thêm hai tình tiết mới là đã bồi thường xong toàn bộ thiệt hại và đại diện người bị hại có đơn xin giảm nhẹ. Vì vậy, HĐXX áp dụng Điều 54 xử dưới khung hình phạt cho các bị cáo là có căn cứ.

[4] Từ những nhận định trên đây, xét thấy toà án cấp sơ thẩm đã xem xét đánh giá chứng cứ toàn diện vụ án, cá thể hoá vai trò của từng bị cáo xử phạt với mức án như trên là đúng pháp luật. Các bị cáo và đại diện hợp pháp của bị hại kháng cáo, có cung cấp được tình tiết giảm nhẹ mới. Do vậy, HĐXX chấp nhận kháng cáo của bị cáo, đại diện hợp pháp của bị hại, quan điểm của những người bào chữa và đề nghị của đại diện Viện kiểm sát, giảm nhẹ hình phạt cho các bị cáo.

[5] Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị có hiệu lực kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

[6] Các bị cáo Hồ Việt T1, Phạm Văn H, Trương Thanh T và đại diện người bị hại không phải nộp tiền án phí hình sự phúc thẩm theo quy định.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ điểm b khoản 1 Điều 355, Điều 357 của Bộ luật Tố tụng hình sự.

1/ Chấp nhận kháng cáo của các bị cáo Hồ Việt T1, Phạm Văn H và bà Nguyễn Thị L là đại diện hợp pháp cho người bị hại, sửa phần hình phạt của Bản án hình sự sơ thẩm số 10/2023/HS-ST ngày 26/5/2023 của Toà án nhân dân tỉnh Bình Định đối với các bị cáo Hồ Việt T1, Phạm Văn H và Trương Thanh T.

Tuyên bố các bị cáo Trương Thanh T, Hồ Việt T1, Phạm Văn H phạm tội “Giết người”.

Áp dụng điểm n khoản 1 Điều 123 Bộ luật Hình sự; điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự.

Xử phạt bị cáo Phạm Văn H 11 (mười một) năm 06 (sáu) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày bắt tạm giữ, tạm giam bị cáo, ngày 18/02/2022.

Xử phạt bị cáo Trương Thanh T 11 (mười một) năm 06 (sáu) tháng tù.

Thời hạn tù tính từ ngày bắt tạm giữ, tạm giam bị cáo, ngày 17/02/2022.

Áp dụng điểm n khoản 1 Điều 123; điểm b, s khoản 1, 2 Điều 51, Điều 91; Điều 101 Bộ luật Hình sự.

Xử phạt bị cáo Hồ Việt T1 08 (tám) năm tù. Thời hạn tù tính từ ngày bắt bị cáo đi thi hành án, được trừ thời gian bị cáo bị bắt tạm giữ, tạm giam từ ngày 17/02/2022 đến ngày 15/10/2022.

2/ Án phí phúc thẩm: Áp dụng Nghị quyết số 326/2016/NQ-UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội về án phí và lệ phí Tòa án; các bị cáo Hồ Việt T1, Phạm Văn H và Trương Thanh T và đại diện hợp pháp của người bị hại không phải nộp tiền án phí hình sự phúc thẩm theo quy định.

3/ Các Quyết định khác của Bản án sơ thẩm về phần tội danh và hình phạt đối với các bị cáo khác, về trách nhiệm dân sự, xử lý vật chứng và án phí sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị, có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

Bản án phúc thẩm có hiệu lực kể từ ngày tuyên án (29/8/2023).

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

35
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

 Bản án về tội giết người số 357/2023/HS-PT

Số hiệu:357/2023/HS-PT
Cấp xét xử:Phúc thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân cấp cao
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 29/08/2023
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về