Bản án về tội giết người số 356/2020/HSPT

TÒA ÁN NHÂN DÂN CẤP CAO TẠI HÀ NỘI

BẢN ÁN 356/2020/HSPT NGÀY 21/07/2020 VỀ TỘI GIẾT NGƯỜI

Ngày 21 tháng 7 năm 2020, tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Hưng Yên, Tòa án nhân dân cấp cao tại Hà Nội mở phiên tòa xét xử phúc thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 1068/2019/TLPT-HS ngày 26 tháng 12 năm 2019 đối với bị cáo Trần Đình Th, do có kháng cáo của đại diện bị hại đối với Bản án hình sự sơ thẩm số 108/2019/HS-ST ngày 18 tháng 11 năm 2019 của Tòa án nhân dân tỉnh Hưng Yên.

- Bị cáo bị kháng cáo:

Trần Đình Th, sinh năm 1980, nơi ĐKNKTT: Đội 12, thôn Đào Đ, xã Trung Ngh, thành phố Hưng Yên, tỉnh Hưng Yên; giới tính: Nam; quốc tịch: Việt Nam; dân tộc: Kinh; tôn giáo: Không; trình độ học vấn: Lớp 7/12; nghề nghiệp: Lao động tự do; con ông Trần Đình Ng và bà Trần Thị D; có vợ là Dương Thị H và có 02 con (con lớn sinh năm 2006, con nhỏ sinh năm 2013); tiền án, tiền sự: Không; bị cáo bị tạm giữ, tạm giam từ ngày 12/02/2019.

- Người bào chữa cho bị cáo: Luật sư Bùi Đình S, Đoàn luật sư tỉnh Hưng Yên. Vắng mặt, có đơn xin xử vắng mặt và gửi bài luận cứ.

- Người bị hại: Anh Trần Viết Đ1, sinh năm 1970 (đã chết ngày 12/02/2019).

- Đại diện hợp pháp của bị hại có kháng cáo:

1. Bà Trần Thị H1, sinh năm 1930 (là mẹ đẻ của bị hại); địa chỉ tại: Thôn Đào Đ, xã Trung Ngh, thành phố Hưng Yên, tỉnh Hưng Yên. Có mặt.

Đại diện theo ủy quyền của bà H1: Ông Trần Viết Đ2, sinh năm 1960; địa chỉ: Thôn Đào Đ, xã Trung Ngh, thành phố Hưng Yên, tỉnh Hưng Yên. Có mặt.

2. Chị Trần Thị H2 sinh năm 1970; địa chỉ: Thôn Đào Đ, xã Trung Ngh, thành phố Hưng Yên, tỉnh Hưng Yên. Có mặt.

- Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho bị hại: Luật sư Nguyễn Tự Q và Hà Văn A - Công ty Luật TNHH Châu A, Đoàn luật sư thành phố Hà Nội. Có mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Năm 1997, vợ chồng anh Trần Viết Đ1 và chị Trần Thị H2 đều sinh năm 1970, ở thôn Đào Đ, xã Trung Ngh, thành phố Hưng Yên, tỉnh Hưng Yên vay vàng của ông Trần Đình Ng và bà Trần Thị Di ở cùng thôn (là bố, mẹ vợ Trần Viết Đ1), để mua đất làm nhà. Đến năm 1999 vợ chồng ông Ng, bà Di đòi nợ tiền vay của vợ chồng anh Đ1, chị H2 nhưng khi trả nợ anh Đ1 có thái độ không hài lòng. Từ đó giữa anh Đ1 và gia đình ông Ng đã xảy ra mâu thuẫn, cãi chửi nhau và không qua lại với nhau, anh Đ1 cấm không cho chị H2 và các con đến nhà ông Ng, đồng thời anh Đ1 đã nhiều lần đến cổng nhà ông Ng có lời lẽ chửi bới, xúc phạm và ném gạch đá vào nhà ông Ng, chính quyền thôn đã nhiều lần phải đến giải quyết vụ việc.

Sáng ngày 12/02/2019, gia đình ông Ng làm cơm cúng giỗ mẹ đẻ tại nhà và mời các con, các cháu trong gia đình đến ăn cỗ, trong đó có anh Trần Đình Th, sinh năm 1977, vợ là chị Trần Thị H3, sinh năm 1978; Trần Đình Th, sinh năm 1980, vợ là chị Dương Thị H, sinh năm 1981 và chị Trần Thị Nụ, sinh năm 1974 đều ở cùng thôn (là con đẻ và con dâu ông Ng), không có vợ chồng anh Đ1, chị H2 cùng các con. Cùng ngày anh Đ1 đến nhà anh trai là Trần Viết Đ2, sinh năm 1960 ở cùng thôn để dự lễ mừng thọ. Sau khi ăn, uống rượu xong tại nhà anh Đ2, anh Đ1 đã có lời lẽ chửi đổng, hàm ý chửi bố vợ là ông Ng và gia đình ông Ng, thấy sự việc này anh Trần Đình V (tên gọi khác là Tr), sinh năm 1973 ở cùng thôn (gần nhà anh Đ2 và là em họ của ông Ng) đã gọi điện thoại cho anh Th, nhưng anh Th không nghe máy. Khoảng 13 giờ, sau khi ăn cỗ xong, anh Th thấy có cuộc gọi nhỡ nên đã gọi lại cho anh V, qua điện thoại anh V nói “Thằng Đ1 nó đang ở nhà thằng Đ2, đang chửi ông bà, bố mẹ mày”, anh Th không nói gì, tắt máy rồi điều khiển xe mô tô của mình chở em trai là Trần Đình Th ngồi sau, đi đến nhà anh V, sau đó tiếp tục đi qua cửa lách đến sân nhà chị Nguyễn Thị V1, sinh năm 1971 (là chị dâu của anh V) nằm giữa nhà anh V và anh Đ2. Một lúc sau ông Ng và vợ là bà D, con dâu cũng đến nhà chị V1, chị V1 đã khóa cửa cổng lại vì sợ xảy ra sự việc đánh nhau. Lúc này tại nhà anh Đ2, anh Đ1 vẫn tiếp tục có lời lẽ chửi đổng hàm ý chửi gia đình ông Ng. Tại sân nhà chị V1 có ông Ng, bà D, anh Th, chị Nụ, chị H3, chị H. Ông Ng nói “Tao vào đây xem đứa nào làm sao mà cứ lôi tên ông bà, bố mẹ tao ra chửi”. Khi nghe thấy tiếng ông Ng thì anh Đ1 từ trong nhà anh Đ2 đi ra cổng chửi “Địt mẹ thằng già”, mọi người phía gia đình ông Ng cũng lời qua tiếng lại, hai bên cãi chửi nhau. Lúc này, anh Đ1 được anh Đ2 cùng vợ chồng anh Nguyễn Viết Ch, sinh năm 1975 và vợ là chị Trần Thị Ch1, sinh năm 1976 (là hàng xóm của anh Đ2) can ngăn, còn chị V1 can ngăn gia đình ông Ng. Do bực tức việc anh Đ1 chửi bới, xúc phạm gia đình mình nên ông Ng nói “Mày có giỏi mày ra ngoài đường kia”. Anh Đ1 vẫn có lời lẽ chửi bới và nói “Địt mẹ thằng già kia, mày bảo bố mày ra đường cái chứ gì” đồng thời đi ra ngoài đường. Trên đường đi, anh Đ1 lấy một chiếc đòn gánh bằng tre dài 1,17 mét ở cạnh cổng ra vào của gia đình anh Ch rồi đi vào đường ngõ, lối đi vào nhà anh V.

Do bực tức từ trước về việc anh Đ1 đã nhiều lần có lời lẽ chửi bới, chửi đổng, chửi ông Ng. Trong lúc mọi người cãi chửi nhau, Trần Đình Th đã quay lên nhà ở của anh V để tìm dao thì thấy 01 con dao (dạng dao mèo), dài 43,5cm, chuôi dao bằng gỗ dài 15,5cm, lưỡi dao bằng kim loại dài 28cm, có một cạnh sắc, đầu mũi dao nhọn, bản rộng nhất của lưỡi dao 4,5 cm được để ở đầu giường tại gian phòng khách. Th cầm dao áp sát lưỡi dao dọc theo thân người rồi đi xuống đứng ở sân nhà chị V1. Khi thấy anh Đ1 đi ra ngoài đường, mọi người trong gia đình ông Ng cũng đi qua cửa lách lên nhà anh V để đi về. Trần Đình Th đi xe máy ra ngoài ngõ trước đã gặp anh Đ1 cầm chiếc đòn gánh đi ngược chiều và đang có lời lẽ chửi bới gia đình mình, do bức xúc anh Th xuống xe đã đấm 01 nhát vào mặt anh Đ1, anh Đ1 dùng đòn gánh vụt 01 nhát vào trán bên phải của anh Th, hai người giằng co làm rơi chiếc đòn gánh, anh Đ1 đi ra phía ngoài đường, anh Th đi ngược lại trong ngõ. Lúc này Th cầm dao chạy từ nhà anh V ra phía ngoài ngõ, nhìn thấy anh Th và anh Đ1 đang giằng co đánh nhau, anh Đ1 đang chạy ra ngoài đường, Th cầm dao đuổi theo đến khu vực phía sau tường bếp của nhà bà Trần Thị M, Th dùng tay trái túm vào phần cổ phía sau gáy của anh Đ1, ghì ấn xuống, đồng thời tay phải đang cầm dao (dạng dao mèo) đâm 01 nhát theo chiều hướng từ dưới chếch lên trên trúng vào phần ngực bên phải của anh Đ1 làm anh Đ1 ngã nằm ngửa xuống đường và tử vong tại chỗ.

Ngay sau khi sự việc xảy ra, Trần Đình Th đã đến Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an tỉnh Hưng Yên đầu thú và tự nguyện giao nộp dạng dao mèo, dài 43,5cm, chuôi dao bằng gỗ dài 15,5cm, lưỡi dao bằng kim loại dài 28cm, có một cạnh sắc, đầu mũi dao nhọn, bản rộng nhất của lưỡi dao 4,5 cm, trên bề mặt lưỡi dao có dính tạp chất màu nâu, niêm phong đánh ký hiệu D; 01 đôi giày da nam màu đen, 01 đôi tất nam màu xám đen, trong đó có 01 chiếc dính tạp chất màu nâu, 01 chiếc áo thun dài tay màu đen, 01 chiếc quần dài bằng vải màu đen, trên ống quần bên trái có dính tạp chất màu nâu, niêm phong ký hiệu QAT. Tiến hành xem xét dấu vết trên thân thể đối với Th xác định có 01 vết xây xước, rớm máu tại khuỷu tay trái, kích thước (1,3 x 0,8)cm; quanh vùng đuôi mắt bên phải và gò má phải có nhiều dấu vết màu nâu đỏ đã khô, thu giữ, niêm phong ký hiệu MMT.

Khám nghiệm hiện trường, xác định: Hiện trường nơi xảy ra vụ án là đoạn đường ngõ phía sau bếp nhà bà Trần Thị M thuộc thôn Đào Đ, mặt đường được trải bê tông rộng 220cm. Quá trình khám nghiệm đã phát hiện thu giữ: Tại vị trí số số (1) là tử thi của Trần Viết Đ1, trong tư thế nằm ngửa, không mặc áo, mặc quần dài tối màu, đi chân trần, đầu tử thi quay hướng nam, chân phải co dựa vào thành tường phía đông, chân trái duỗi về phía bắc, mặt đường xung quanh khu vực đầu của tử thi có đám dấu vết màu nâu đỏ; tại vị trí số (2) tiếp giáp với gót chân trái của tử thi có 01 đám dấu vết màu nâu đỏ, có kích thước (260 x 220)cm, trên đám dấu vết này có các dấu chân bám chất màu nâu; trên tường bếp nhà bà M, song song vị trí gót chân trái của tử thi, có đám dấu vết màu nâu đỏ dạng phun theo hướng từ trên xuống dưới, có kích thước (83 x 50)cm, thu giữ niêm phong ký hiệu lần lượt M1, M2. Mở rộng hiện trường: Tại vị trí số (3) về phía bắc, cách gót chân tử thi 640cm phát hiện trên mặt tường, cách nền đường 100 của nhà anh Trần Hữu Đ3, sinh năm 1959, có đám dấu vết màu nâu đỏ, kích thước (28 x 8)cm, niêm phong lý hiệu M3; vị trí đánh số (4), cách vị trí số (3) về hướng bắc 500cm, tiếp giáp với tường bao nhà ông Nguyễn Viết Tr1, sinh năm 1953, phát hiện 01 bao tải đựng rác màu trắng xanh, trên bao tải phát hiện 01 chiếc đòn gánh bằng tre, có chiều dài 117cm, chiều ngang rộng nhất 6cm, trên bề mặt đòn gánh có bám dính chất màu nâu đỏ, niêm phong ký hiệu M4; vị trí số (5), cách vị trí số (4) về hướng bắc 360cm, cách mép tường phía đông nhà anh Đ3c 140 cm, cách mép tường phía tây nhà ông Tr1 80cm, phát hiện 01 đôi dép màu nâu, đã thu giữ theo quy định.

Khám nghiệm tử thi Trần Viết Đ1, xác định: Phía trước mỏm vai phải sát mỏm vai có vết xây xước da kích thước (4 x 3)cm; mặt sau ngoài khuỷu tay phải, sát mỏm khuỷu có vết xây xước da kích thước (2 x 2)cm; tại vùng ngực bên phải cách đường giữa 2,5cm, cách hõm nách phải 14cm có vết rách da bờ mép gọn vuốt đuôi chuột ở đầu vết thương bên trái, kích thước (7x 2,5)cm, khép vết thương có kích thước (7 x 1)cm, sâu thấu vào khoang ngực, vết thương có chiều hướng từ trước ra sau, từ dưới lên trên; tại vùng môi trên bên trái, cách mép trái 1,5cm, cách đường giữa 4cm có vết xây xước da kích thước (0,4 x 0,2) cm.

Mổ khoang ngực, bụng tử thi xác định: Tổ chức dưới da tại vùng ngực bên phải tương ứng với vết rách da đã mô tả trên bầm tụ máu, cơ liên sườn tại khoang liên sườn số 03, 04 bị đứt kích thước (4 x 2)cm, cung trước các xương sườn số 04, 05 bị đứt, xương sườn số 04 bị đứt tại vị trí cách đường giữa 3cm kích thước (2 x 0,3)cm, xương sườn số 05 bị đứt tại vị trí cách đường giữa 2cm kích thước (1,2 x 0,3)cm. Khoang ngực bên phải có khoảng 02 lít máu lẫn máu đông, phổi bên phải xẹp. Khoang ngực bên trái có khoảng 50ml máu, phổi trái xung huyết. Phổi bên phải tại thùy trên có vết rách nhu mô phổi, kích thước (4,5 x 3)cm, sâu vào nhu mô phổi 3cm. Mở bao tim bên trong có khoảng 20ml máu, tim xung huyết. Đ2 mạch phổi có vết rách kích thước (3 x 1,5)cm.

Quá trình khám nghiệm tử thi Trần Viết Đ1 thu giữ: 01 chiếc quần dài màu đen có dính chất màu nâu và chất bẩn, 01 chiếc dây lưng giả da màu đen, niêm phong ký hiệu Q; Các mẫu giám định.

Ngày 20/3/2019, anh Trần Đình T đã giao nộp 01 chiếc USB bên trong có lưu trữ hình ảnh sự việc cãi chửi nhau tại khu vực cổng nhà anh Đ2 và chị V1 mà anh T đã quay được, niêm phong ký hiệu UT.

Ngày 05/4/2019, ông Trần Viết Đ2 giao nộp 02 chiếc USB có lưu trữ hình ảnh video quay lại từ chiếc điện thoại di động của anh T và lời trình bày của một số người làm chứng, niêm phong ký hiệu TQ và ĐQ.

Ngày 13/4/2019, Cơ quan điều tra đã tiến hành ghi âm giọng nói của ông Trần Đình Ng vào 01 USB, niêm phong ký hiệu GN.

Tại Kết luận giám định số 50/PC09 ngày 31/3/2019 của Phòng kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh Hưng Yên đối với tử thi Trần Viết Đ1, kết luận: Nguyên nhân chết: Mất máu cấp không hồi phục do vết thương thấu ngực làm rách phổi phải, rách động mạch phổi. Cơ chế hình thành vết thương: Vết xây xát da phía trước mỏm vai phải, vết xây xát da mặt sau ngoài khuỷu tay phải, vết xây xát da vùng môi trên bên trái do vật tầy gây ra; vết rách da vùng ngực bên phải, vết đứt cơ liên sườn tại khoang liên sườn số 03 (ba), 04 (bốn), vết đứt cung trước các xương sườn số 04 (bốn), 05 (năm), vết rách thùy trên phổi phải, vết rách động mạch phổi do vật sắc nhọn gây ra. Thể loại chết: Không tự nhiên.

Tại Kết luận giám định số 753/C09(TT3) ngày 15/3/2019 của Viện khoa học hình sự - Bộ công an đối với các mẫu vật đã thu giữ tại hiện trường, kết luận: Các dấu vết màu nâu (ký hiệu M1 và M3) và các dấu vết trên con dao (ký hiệu D), trên chiếc đòn gánh (ký hiệu M4), trên chiếc quần vải màu đen (ký hiệu QAT) đều là máu người và là máu của tử thi Trần Viết Đ1.

Tại Kết luận giám định số 2574/C09-P6 ngày 01/7/2019 của Viện khoa học hình sự - Bộ công an đối với 04 chiếc USB đã thu giữ của ông Trần Viết Đ2; anh Trần Đình T và ghi âm giọng nói của ông Trần Đình Ng kết luận: Không phát hiện dấu hiệu cắt ghép, chỉnh sửa nội dung trong các tệp tin video và tệp tin âm thanh gửi giám định. Mẫu cần giám định có chất lượng kém nên không đủ điều kiện xác định tiếng nói của ông Trần Đình Ng.

Quá trình điều tra, đại diện bị hại đề nghị bị cáo phải bồi thường tiền mai táng phí là 47.000.000 đồng và các khoản khác theo quy định của pháp luật. Bị cáo đã tác động gia đình bồi thường số tiền 50.000.000 đồng.

Tại Bản án hình sự sơ thẩm số 108/2019/HS-ST ngày 18 tháng 11 năm 2019 của Tòa án nhân dân tỉnh Hưng Yên đã quyết định:

1. Về tội danh: Tuyên bố bị cáo Trần Đình Th phạm tội Giết người.

2. Về hình phạt: Áp dụng khoản 2 Điều 123; điểm b, s khoản 1 và khoản 2 Điều 51; Điều 38 của Bộ luật hình sự. Xử phạt bị cáo Trần Đình Th 11 năm tù. Thời hạn tù tính từ ngày tạm giữ, tạm giam ngày 12/02/2019.

Ngoài ra, Tòa án cấp sơ thẩm còn quyết định về trách nhiệm dân sự, xử lý vật chứng, án phí và thông báo quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.

Ngày 28/11/2019, đại diện bị hại là bà Trần Thị H1 kháng cáo với nội dung đề nghị tăng hình phạt đối với bị cáo, làm rõ dấu hiệu bỏ lọt tội phạm.

Tại phiên tòa phúc thẩm:

Bị cáo Trần Đình Th đã thành khẩn khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình như nội dung bản án sơ thẩm đã nêu và đề nghị Hội đồng xét xử giảm hình phạt.

Đại diện bị hại vẫn giữ nguyên nội dung kháng cáo, đề nghị hủy bản án sơ thẩm, yêu cầu tăng hình phạt đối với bị cáo và xem xét xử lý anh Trần Đình Th, ông Trần Đình Ng, anh Trần Đình V về hành vi đồng phạm Giết người cùng với bị cáo. Chị H2 là vợ của bị hại đề nghị xem xét giảm hình phạt cho bị cáo và chấp nhận trả số tiền 50.000.000 đồng gia đình bị cáo bồi thường thêm cho phía gia đình bị hại.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Hà Nội có quan điểm: Tòa án cấp sơ thẩm đã xem xét đầy đủ các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự và lời khai của bị cáo, đại diện bị hại, người làm chứng, nguyên nhân xảy ra sự việc để xét xử bị cáo mức án 11 năm tù theo khoản 2 Điều 123 Bộ luật Hình sự là có căn cứ. Tại cấp phúc thẩm xét thấy không có căn cứ chấp nhận kháng cáo của gia đình người bị hại, giữ nguyên quyết định của bản án sơ thẩm.

Luật sư bào chữa cho bị cáo: Đề nghị Hội đồng xét xử không chấp nhận kháng cáo của đại diện bị hại, giữ nguyên quyết định của bản án sơ thẩm.

Luật sư Nguyễn Tự Quyết bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho người bị hại đề nghị: Về tội danh nhất trí với quan điểm của Viện kiểm sát, đề nghị Hội đồng xét xử xem xét và xử lý ông Trần Đình Ng, anh Trần Đình V, anh Trần Đình Th là đồng phạm về hành vi Giết người cùng với Trần Đình Th. Đối chất giữa Trần Đình Th và Trần Đình V để làm rõ con dao mà bị cáo gây án có từ bao giờ, bị cáo lấy ở đâu? Tiến hành thực nghiệm điều tra lại tại nơi xảy ra vụ án có sự tham gia chứng kiến của anh Trần Viết Đ2 vì anh Đ2 có mặt trực tiếp và chứng kiến ngay từ đầu. Đề nghị phải truy tố, xét xử bị cáo Trần Đình Th về tội Giết người “có tính chất côn đồ” căn cứ vào những nội dung trên, đề nghị Hội đồng xét xử hủy bản án sơ thẩm để điều tra lại do vụ án có đồng phạm.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Căn cứ các chứng cứ, tài liệu đã được thẩm tra tại phiên tòa; căn cứ kết quả tranh luận, trên cơ sở xem xét đầy đủ, toàn diện chứng cứ, ý kiến của Kiểm sát viên, của những người tham gia tố tụng, Hội đồng xét xử phúc thẩm nhận thấy như sau:

[1] Về hình thức: Đơn kháng cáo của người đại diện hợp pháp bị hại đảm bảo về hình thức và trong hạn luật định nên được chấp nhận để xem xét.

[2] Về nội dung:

Tại phiên tòa phúc thẩm, bị cáo tiếp tục thừa nhận hành vi phạm tội của mình, lời nhận tội phù hợp với lời khai của những người làm chứng, kết luận giám định nguyên nhân chết của anh Trần Viết Đ1, cơ chế hình thành thương tích và vật chứng thu giữ là con dao bị cáo đã đâm bị hại, nên đủ căn cứ kết luận: Khoảng 13 giờ ngày 12/02/2019, do bực tức từ trước về việc anh Đ1 nhiều lần có lời lẽ chửi bới, xúc phạm gia đình mình, khi nhìn thấy anh Th (anh trai Th) và anh Đ1 đang giằng co đánh nhau, thấy vậy Trần Đình Th đã dùng dao (dạng dao mèo) đâm một nhát trúng vào phần ngực bên phải của anh Đ1 làm anh Đ1 tử vong. Do đó, Tòa án cấp sơ thẩm xét xử bị cáo Trần Đình Th về tội Giết người theo khoản 2 Điều 123 Bộ luật hình sự là có căn cứ, đúng pháp luật. Do đó, không có căn cứ để chấp nhận luận cứ bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho gia đình bị hại cho rằng bị cáo phạm tội có tính chất côn đồ theo điểm n khoản 1 Điều 123 Bộ luật Hình sự được.

Hành vi phạm tội của bị cáo là đặc biệt nghiêm trọng, xâm phạm đến tính mạng và sức khỏe của người khác được pháp luật bảo vệ và thể hiện sự coi thường pháp luật. Hành vi của bị cáo còn gây mất an ninh, trật tự tại địa phương, gây sự hoảng sợ cho mọi người. Do đó, bị cáo phải chịu trách nhiệm hình sự tương ứng với tính chất, mức độ, hậu quả hành vi phạm tội bị cáo đã gây ra.

[3] Xét kháng cáo của đại diện gia đình bị hại thấy rằng:

[3.1] Về mức hình phạt:

Trong quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo đã thành khẩn khai nhận về hành vi phạm tội của mình; bị cáo đã tác động đến gia đình để bồi thường, khắc phục cho gia đình bị hại số tiền 50 triệu đồng. Bị cáo có bố đẻ là ông Trần Đình Ng được nhà nước tặng thưởng Huân chương kháng chiến, bản thân bị cáo là quân nhân xuất ngũ hoàn thành nghĩa vụ quân sự, vợ của bị hại là chị Trần Thị H2 có đơn xin giảm nhẹ trách nhiệm hình sự cho bị cáo. Do đó, Tòa án cấp sơ thẩm cho bị cáo được hưởng tình tiết giảm nhẹ theo quy định tại điểm b, s khoản 1 và khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự là có căn cứ.

Hội đồng xét xử phúc thẩm thấy rằng: Căn cứ tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội, các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự và nhân thân người phạm tội cũng như diễn biến nguyên nhân xảy ra sự việc, phía bị hại có một phần lỗi như phân tích trên, Tòa án cấp sơ thẩm đã xử phạt bị cáo mức án 11 năm tù là phù hợp với tính chất, hành vi, hậu quả do bị cáo gây ra, nên không có căn cứ chấp nhận kháng cáo của đại diện bị hại về phần này.

[3.2] Về đề nghị xem xét dấu hiệu bỏ lọt tội phạm đối với một số đối tượng như anh Trần Đình Th, ông Trần Đình Ng, anh Trần Đình V, Hội đồng xét xử thấy:

Đối với ông Trần Đình Ng, khi xảy ra sự việc hai bên cãi chửi nhau, do bực tức ông Ng nói anh Đ1 ra ngoài đường, nhưng không có mục đích để đánh nhau, việc anh Chu Văn H4 trình bầy trước và sau khi anh Đ1 bị Th dùng dao đâm, có nghe thấy ông Ng nói: “đánh chết mẹ nó đi, đâm chết mẹ nó đi”, “đâm cho chết đi”, nhưng ông Ng không thừa nhận, quá trình điều tra cũng như tại phiên tòa không có tài liệu chứng cứ nào chứng minh ông Ng có hành vi hô hào, kích động để Th dùng dao đâm anh Đ1, do vậy không có căn cứ xác định ông Ng đồng phạm với Th về tội Giết người.

Đối với anh Trần Đình Th, có hành vi đánh nhau với anh Đ1 sau đó bị cáo Th đuổi theo và dùng dao đâm anh Đ1 chết, anh Th và bị cáo không có sự bàn bạc trước cùng cố ý Giết người. Mặt khác ông Đ2 là anh trai anh Đ1 khai anh Th đuổi theo anh Đ1, ôm anh Đ1 vít vào cổ anh Đ1 để bị cáo Th dùng dao đâm anh Đ1 là không có cơ sở. Bởi khi xảy ra vụ án một số người làm chứng cũng có mặt chứng kiến sự việc nhưng không có ai xác định anh Th có hành vi vít cổ anh Đ1 để cho bị cáo Th đâm anh Đ1 vì vậy không thể xác định anh Th là đồng phạm giết anh Đ1.

Đối với anh Trần Đình V có hành vi gọi điện thoại cho anh Th, thông báo cho gia đình anh Th biết việc anh Đ1 có hành vi chửi bới gia đình ông Ng mục đích là để gia đình ông Ng can ngăn không cho anh Đ1 chửi nữa, và không có lời nói xúi giục, kích động nào để bị cáo Th dùng dao đâm anh Đ1, nên không có căn cứ xác định anh V là đồng phạm với bị cáo Th giết anh Đ1.

Từ những phân tích trên thấy rằng Tòa án cấp sơ thẩm đã quy kết và áp dụng các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ, nguyên nhân xảy ra sự việc và xử bị cáo Trần Đình Th về tội Giết người theo khoản 2 Điều 123 Bộ luật Hình sự với mức hình phạt 11 năm tù là có căn cứ, đúng pháp luật. Do đó, không có cơ sở chấp nhận kháng cáo của đại diện gia đình người bị hại, cần giữ nguyên bản án sơ thẩm.

Tại phiên tòa, chị Trần Thị H2 chấp nhận trả lại gia đình người bị hại số tiền 50 triệu đồng mà bị cáo và gia đình bị cáo bồi thường tiếp. Như vậy, chị H2 có trách nhiệm trả lại số tiền trên cho gia đình người bị hại.

[4] Án phí hình sự phúc thẩm: Bà Trần Thị H1 không phải chịu án phí hình sự phúc thẩm.

[5] Các quyết định khác của bản án hình sự sơ thẩm không có kháng cáo, không bị kháng nghị có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

Vì các lẽ trên, Căn cứ vào điểm a khoản 1 Điều 355; Điều 356 Bộ luật tố tụng Hình sự; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về án phí và lệ phí Tòa án;

QUYẾT ĐỊNH

Không chấp nhận kháng cáo của đại diện hợp pháp của bị hại, giữ nguyên Bản án hình sự sơ thẩm số 108/2019/HS-ST ngày 18 tháng 11 năm 2019 của Tòa án nhân dân tỉnh Hưng Yên, cụ thể:

1. Về tội danh: Tuyên bố bị cáo Trần Đình Th phạm tội “Giết người”.

2. Về hình phạt: Áp dụng khoản 2 Điều 123; điểm b, s khoản 1 và khoản 2 Điều 51; Điều 38 của Bộ luật hình sự.

Xử phạt: Bị cáo Trần Đình Th 11 năm tù, thời hạn tù tính từ ngày tạm giữ, tạm giam ngày 12/02/2019.

Về án phí: Bà Trần Thị H1 không phải chịu án phí hình sự phúc thẩm.

Các quyết định khác của bản án hình sự sơ thẩm không có kháng cáo, không bị kháng nghị có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

Bản án hình sự phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

127
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội giết người số 356/2020/HSPT

Số hiệu:356/2020/HSPT
Cấp xét xử:Phúc thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân cấp cao
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 21/07/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về