TÒA ÁN NHÂN DÂN CẤP CAO TẠI ĐÀ NẴNG
BẢN ÁN 346/2021/HSPT NGÀY 23/09/2021 VỀ TỘI GIẾT NGƯỜI
Vào ngày 23 tháng 9 năm 2021, tại Trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Bình Định, Tòa án nhân dân cấp cao tại Đà Nẵng xét xử công khai vụ án hình sự phúc thẩm thụ lý số 408/2021/TLPT-HS ngày 29 tháng 7 năm 2021 đối với bị cáo Trần Đức H về tội “Giết người”; do có kháng cáo của bị cáo và kháng nghị của Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Đà Nẵng đối với Bản án hình sự sơ thẩm số 11/2021/HS-ST ngày 29/06/2021 của Tòa án nhân dân tỉnh Bình Định; theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 2012/2021/QĐXXPT-HS ngày 13 tháng 9 năm 2021.
- Bị cáo kháng cáo, bị kháng nghị:
Họ và tên: Trần Đức H, sinh ngày 17/5/2002, tại tỉnh Bình Định; nơi đăng ký HKTT và cư trú: tỉnh Bình Định; nghề nghiệp: Học sinh; trình độ văn hóa: 10/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông: Trần Đình A, sinh năm 1963; con bà: Võ Thị Như P, sinh năm: 1969; vợ, con: Chưa có; có 04 anh chị em; tiền án, tiền sự: Không; bị cáo bị bắt tạm giữ, tạm giam từ ngày 24/12/2019 đến ngày 28/9/2020; cho bão lĩnh ngày 29/9/2020; có mặt.
Những người tham gia tố tụng khác:
Người bào chữa cho bị cáo Trần Đức H: Ông Nguyễn Ánh Q - Trợ giúp viên pháp lý của Trung tâm trợ giúp pháp lý Nhà nước tỉnh Bình Định; có mặt.
Bị hại:
Trần Nhật P, sinh năm: 1998; cư trú tại: Bình Định; vắng mặt.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án dược tóm tắt như sau:
Chiều ngày 23/12/2019, Trần Đức H và Nguyễn Tuấn K, sinh ngày 09/7/2004, trú tại, tỉnh Bình Định, đến thị trấn B, huyện H (nay là phường B, thị xã H) nhậu với bạn tại quán 2 Điếm. Khi đến quán, thấy Trần Nhật P, là người có mâu thuẫn liên quan đến quan hệ nam nữ với H trước đó, nên trong lúc nhậu H nảy sinh ý định tìm gặp P yêu cầu xin lỗi mình. Sau đó, H điện thoại rủ Nguyễn Tài T và Nguyễn Minh H xuống thị trấn B cùng với H đi tìm P. H nói với T mang theo “hàng”. T điện thoại rủ Võ Minh C và C rủ theo Lê Quốc K. Minh H điện thoại rủ Nguyễn Xuân T1. T đi xe máy một mình mang theo 02 con dao cán dài (dao tự chế), C, K, Minh H, T1 đi chung trên 02 xe máy cùng nhau đến quảng trường trung tâm thị trấn B, huyện H. Tại đây, H nói với tất cả mọi người đang có mặt là “đi tìm P để yêu cầu P xin lỗi mình, do sợ nhóm của P đánh nên rủ thêm các bạn đi cùng để hỗ trợ, nếu bị nhóm của P đánh thì sẽ đánh lại” và cả nhóm đồng ý. T đưa cho H và Minh H mỗi người cầm 01 con dao mà T mang theo rồi cùng H đi tìm P. Khoảng hơn 30 phút sau thì cả nhóm phát hiện P đang nhậu với bạn ở quán B, thuộc huyện H. H nói với nhóm của mình đứng ở ngoài quán chờ và đưa túi xách của mình cho K giữ (trong túi xách có súng tự chế và đạn nhưng K và những người trong nhóm của K không biết) rồi một mình cầm con dao đi bộ vào trong quán. Thấy H, P cầm theo 01 đoạn côn ba khúc tới chỗ H, cả hai cãi vã dẫn đến xô xát thì được mọi người trong quán can ngăn. Ngay sau đó, H ra ngoài cổng quán đưa con dao cho Minh H và gọi điện thoại cho K bảo mang túi xách đến cho H.
Sau khi nhận lại túi xách thì H lấy súng, nạp đạn rồi đút vào trong túi quần phải và tiếp tục gọi P ra ngoài đường bê tông ở trước quán nhậu để nói chuyện, P bước ra cổng quán, H yêu cầu P xin lỗi mình thì xảy ra cãi vả tiếp. Lúc này, P đứng đối diện với H (cách khoảng 2m), H lấy súng (dạng súng bút) trong túi quần ra dùng tay phải cầm thân súng hướng về phía P, tay trái nắm thanh kim loại ở phần đuôi súng kéo mạnh ra sau rồi thả tay 2 lần làm viên đạn trong súng bị kích nổ đẩy đầu đạn ra khỏi nòng súng trúng vào ngực trái của P gây thương tích. Sau đó, cả nhóm lên xe bỏ chạy về Hoài Ân.
Tại Kết luận giám định về thương tật số 24/2020/PY-TgT ngày 04/3/2020 của Trung tâm pháp y tỉnh Bình Định: Vết thương thấu ngực do đạn bắn gây tràn máu, tràn khí màng phối trái, gãy xương sườn số IV trái đã phẫu thuật cắt lọc vết thương, dẫn lưu màng phổi trái. Hiện vùng ngực trái tương ứng đường trung đòn, cung trước xương sườn III, IV vết thương để sẹo lồi kích thước (2x1,5)cm. Có vết mổ dẫn lưu màng phổi đường nách giữa trái kích thước (2,5x2)cm; thở sâu đau vùng ngực trái. Tổng tỷ lệ tổn thương cơ thể của Trần Nhật P do thương tích gây nên hiện tại là 21%.
Tại Bản án hình sự sơ thẩm số 11/2021/HS-ST ngày 29/6/2021 của Tòa án nhân dân tỉnh Bình Định đã quyết định:
Tuyên bố: Bị cáo Trần Đức H phạm tội “Giết người”.
Căn cứ điểm n khoản 1 Điều 123, điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51, khoản 1 Điều 54, Điều 38, Điều 91, khoản 1 Điều 101, khoản 1, 3 Điều 102 Bộ luật Hình sự.
Xử phạt: Bị cáo Trần Đức H 02 (hai năm) tù. Thời hạn tù tính từ ngày bắt đi thi hành án, được trừ thời gian tạm giữ, tạm giam từ ngày 24/12/2019 đến ngày 28/9/2020.
Ngoài ra, bản án sơ thẩm còn, quyết định xử lý vật chứng, án phí, tuyên quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.
Ngày 05/7/2021, bị cáo Trần Đức H kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt và được hưởng án treo, với các lý do: Bị cáo còn nhỏ tuổi nên hiếu thắng, suy nghĩ bồng bột, nhận thức pháp luật hạn chế; từ trước đến nay ở địa phương luôn chấp hành tốt mọi chủ trương chính sách nhà nước, chưa có tiền án tiền sự, đây là lần đầu vi phạm; đã nhận ra lỗi lầm nên tỏ ra ăn năn hối hận và luôn thành khẩn khai báo nhận tội giúp các cơ quan pháp luật sớm kết thúc vụ án; gia đình cũng đã bồi thường toàn bộ thiệt hại và người bị hại đã có đơn xin bãi nại; bản thân đang học lớp 10 và bị tạm giam hơn 9 tháng nên gián đoạn việc học, nay xin giảm nhẹ hình phạt và hưởng án treo để có điều kiện tiếp tục học tập có cơ hội thành công dân tốt cho xã hội.
Ngày 22/7/2021, Viện trưởng Viện kiểm sát nhân cấp cao tại Đà Nẵng ban hành Quyết định kháng nghị phúc thẩm số 21/QĐ-VC2, đề nghị Tòa án cấp phúc thẩm sửa phần hình phạt của Bản án hình sự sơ thẩm số 11/2021/HS-ST ngày 29/6/2021 của Tòa án nhân dân tỉnh Bình Định theo hướng thêm điểm e khoản 1 Điều 52 BLHS và tăng mức án phạt tù đối với bị cáo Trần Đức H
Tại phiên tòa phúc thẩm:
Đại diện Viện kiểm sát nhân cấp cao tại Đà Nẵng giữ nguyên Quyết định kháng nghị phúc thẩm số 21/QĐ-VC2, đề nghị Tòa án cấp phúc thẩm sửa Bản án hình sự sơ thẩm số 11/2021/HS-ST ngày 29/6/2021 của Tòa án nhân dân tỉnh Bình Định theo hướng tăng hình phạt; bởi lẽ bị cáo Trần Đức H đã cố tình bắn 02 phát đạn vào Ngực của anh Trần Nhật P, đây là hành vi phạm tội đến cùng; nhưng cấp sơ thẩm không áp dụng tình tiết tăng nặng theo điểm e khoản 1 Điều 52 BLHS là không đúng pháp luật. Do vậy đề nghị HĐXX áp dụng và tăng hình phạt cho bị cáo. Tuy nhiên bị cáo là người chưa thành niên, có nhiều tình tiết giảm nhẹ, đang là học sinh, nên đề nghị HĐXX áp dụng Điều 65 BLHS để bị cáo có điều kiện tiếp tục học tập.
Bị cáo Trần Đức H vẫn giữ nguyên kháng cáo như trong đơn là xin được giảm nhẹ hình phạt và xin được hưởng án treo để tiếp tục được đến trường học tập.
Ông Trần Ánh Quang-Trợ giúp viên pháp lý của Trung tâm trợ giúp pháp lý Nhà nước tỉnh Bình Định người bào chữa cho bị cáo phát biểu : bị cáo tuổi đời còn quá trẻ thiếu suy nghĩ nên bồng bột sai lầm; nay bị cáo đã biết ân hận và vẫn đang tiếp tục học lớp 10, để giúp bị cáo tiến bộ được học hành trở thành người tốt, kính đề nghị HĐXX giảm nhẹ hình phạt và cho bị cáo hưởng án treo.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1] Chỉ vì mâu thuẫn trong quan hệ nam nữ trước đó giữa bị cáo Trinh với Trần Nhật P, mà vào chiều 23/12/2019 khi đến quán nhậu Hai Điếm, B, H, Bình Định, bị cáo nhìn thấy P nên đã điện thoại rủ Nguyễn Tài T mang theo 02 dao dài tự chế và nhiều người khác đến tìm P yêu cầu xin lỗi nếu P đánh thì đánh lại. Sau 30 phút tìm, thấy P nhậu tại quán B, B; bị cáo đưa túi xách bên trong có súng thể thao (súng bút) cho Trần Tuấn K giữ và mang dao (do T đưa) vào gặp P và yêu cầu P xin lỗi nhưng hai bên xô xát nhau; thấy P cầm côn nhị khúc, nên bị cáo ra ngoài đưa dao cho Trần Minh H và bảo K đưa túi xách đựng súng thể thao, bị cáo lắp đạn vào súng vào gặp lại P yêu cầu ra ngoài xin lỗi, hai bên cãi nhau thì bị cáo bắn 01 phát đạn vào ngực trái P gây nên thương tích 21%. Với hành vi và hậu quả như trên, án sơ thẩm nhận định bị cáo P có nhân thân tốt, chưa có tiền án tiền sự; không có tình tiết tăng nặng; có nhiều tình tiết giảm nhẹ như: Thành khẩn khai báo; ăn năn hối cải; bồi thường toàn bộ thiệt hại theo điểm b, s khoản 1 và sau khi phạm tội đã đầu thú; người bị hại có đơn bãi nại xin giảm nhẹ hình phạt theo khoản 2 Điều 51 BLHS; từ đó áp dụng khoản 1 Điều 54 và các quy định về “phạm tội chưa đạt”, “người chưa đủ 18 tuổi phạm tội” tuyên phạt bị cáo 02 năm tù về tội “Giết người” theo điểm n khoản 1 Điều 123 BLHS; sau khi xét xử sơ thẩm, bị cáo kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt và xin được hưởng án treo; Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Đà Nẵng kháng nghị đề nghị áp dụng tình tiết tăng nặng quyết tâm thực hiện tội phạm đến cùng và tăng mức hình phạt.
[2] Xét Quyết định kháng nghị phúc thẩm số số 21/QĐ-VC2 ngày 22/7/2021 của Viện kiểm sát nhân cấp cao tại Đà Nẵng; HĐXX thấy rằng: Khi bị cáo đưa súng lên ngực của P lẫy đạn 01 lần không hiệu quả thì bị cáo kéo lần hai nên đạn nổ găm vào ngực P; điều đó chứng tỏ bị cáo quyết tâm phạm tội đến cùng. Do vậy cấp sơ thẩm không áp dụng điểm e Điều 52 là thiếu sót, đồng thời tuyên phạt bị cáo 02 năm tù là nhẹ; nên Quyết định kháng nghị của Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Đà Nẵng là có căn cứ, HĐXX chấp nhận tăng hình phạt đối với bị cáo.
[3] Xét kháng cáo xin được giảm nhẹ hình phạt và được hưởng án treo của bị cáo Trần Đức H; HĐXX thấy rằng: Như đã phân tính đánh giá tại phần [1] bị cáo có một tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự mà cấp sơ thẩm chưa áp dụng nên Viện kiểm sát nhân dân đã kháng nghị và đã được HĐXX chấp nhận; nên không thể chấp nhận kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt của bị cáo. Đối với kháng cáo xin được hưởng án treo, thì thấy: Bị cáo H sinh ra trong gia đình nhân dân lao động, bản thân chưa đủ tuổi thành niên, đang là học sinh lớp 10 nhưng do thiếu hiểu biết kiến thức pháp luật mà nhất thời phạm tội; trong vụ án này chỉ một mình bị cáo thực hiện hành vi phạm tội, nên bị cáo không phải là kẻ chủ mưu, cầm đầu; trước đây chưa có tiền án tiền sự; ở địa phương luôn chấp hành tốt mọi quy định; sau khi thực hiện hành vi phạm tội đã tự giác ra đầu thú và giao nộp tất cả vũ khí gây án, thể hiện sự ăn năn hối cải; quá trình điều tra và tại các phiên tòa luôn thành khẩn khai báo nhận tội; đã tác động gia đình bồi thường toàn bộ thiệt hại và người bị hại gửi đơn bãi nại xin giảm nhẹ hình phạt. Xét thấy bị cáo có nơi cư trú rõ ràng, có điều kiện tiếp tục học tập phổ thông; đã bị tạm giam hơn 9 tháng cũng đủ sức răn đe giáo dục; vì vậy không nhất thiết giam giữ nhằm tạo điều kiện cho bị cáo là người chưa thành niên được cảm hóa giáo dục từ nhà trường và cộng đồng để chuộc lại lỗi lầm, sớm trở thành người có ích cho xã hội; nên cho bị cáo cải tạo tại địa phương cũng thỏa đáng.
[4] Về án phí: Kháng cáo của bị cáo được chấp nhận một phần, nên không phải chịu án phí hình sự phúc thẩm.
[5] Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, không bị kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.
Vì các lẽ trên;
QUYẾT ĐỊNH
1/ Căn cứ điểm b khoản 1 Điều 355; điểm e khoản 1, điểm a khoản 2 Điều 357 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015.
Chấp nhận Quyết định kháng nghị phúc thẩm số 21/QĐ-VC2 ngày 22/7/2021 của Viện kiểm sát nhân cấp cao tại Đà Nẵng và một phần kháng cáo của bị cáo; sửa Bản án hình sự sơ thẩm số 11/2021/HS-ST ngày 29/6/2021 của Tòa án nhân dân tỉnh Bình Định.
2/ Tuyên bố: Bị cáo Trần Đức H phạm tội “Giết người”.
Căn cứ điểm n khoản 1 Điều 123; điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; điểm e khoản 1 Điều 52; khoản 1 Điều 54; Điều 38; Điều 65; Điều 91; khoản 1 Điều 101; khoản 1, 3 Điều 102 Bộ luật Hình sự.
Xử phạt: Bị cáo Trần Đức H 03 (ba) năm tù, nhưng cho hưởng án treo thời gian thử thách là 60 tháng; thời gian thử thách của bị cáo kể từ ngày tuyên án phúc thẩm;
Giao bị cáo Trần Đức H cho Ủy ban nhân dân thị trấn Tăng Bạt Hổ, huyện Hoài Ân, tỉnh Bình Định giám sát, giáo dục trong thời gian thử thách. Người được hưởng án treo thay đổi nơi cư trú thì thực hiện theo quy định của pháp luật về thi hành án hình sự;
Trong thời gian thử thách người được hưởng án treo cố ý vi phạm nghĩa vụ 02 lần trở lên thì Tòa án có thể quyết định buộc người được hưởng án treo phải chấp hành hình phạt tù của bản án đã cho hưởng án treo.
3/ Về án phí: Căn cứ Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc Hội “Quy định về về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng áp phí và lệ phí Tòa án”.
Bị cáo Trần Đức H không phải chịu án phí hình sự phúc thẩm.
4/ Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, không bị kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.
Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án (23/9/2021).
Bản án về tội giết người số 346/2021/HSPT
Số hiệu: | 346/2021/HSPT |
Cấp xét xử: | Phúc thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân cấp cao |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 23/09/2021 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về