TÒA ÁN NHÂN DÂN CẤP CAO TẠI ĐÀ NẴNG
BẢN ÁN 343/2022/HS-PT NGÀY 18/08/2022 VỀ TỘI GIẾT NGƯỜI
Ngày 18 tháng 8 năm 2022, Tòa án nhân dân cấp cao tại Đà Nẵng xét xử phúc thẩm trực tuyến công khai vụ án hình sự thụ lý số 303/2022/TLPT-HS ngày 19 tháng 7 năm 2022 đối với bị cáo R về tội “Giết người”. Do có kháng cáo của bị cáo đối với Bản án hình sự sơ thẩm số 49/2022/HS-ST ngày 15/6/2022 của Tòa án nhân dân tỉnh Gia Lai.
Phiên tòa diễn ra tại các điểm cầu:
- Điểm cầu trung tâm: Phòng xét xử 302, tầng 3 trụ sở Tòa án nhân dân cấp cao tại Đà Nẵng.
- Điểm cầu thành phần: Hội trường xét xử, trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Gia Lai.
* Bị cáo có kháng cáo:
R, sinh ngày 17/4/1998, tại Gia Lai; Nơi ĐKHKTT và chỗ ở: Buôn S, xã C, huyện K, tỉnh Gia Lai; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Jrai; Tôn giáo: Không; Nghề nghiệp: làm nông; Trình độ học vấn: 10/12; Con ông K và con bà R; Bị cáo có vợ là K, sinh năm 1999 (là bị hại trong vụ án), bị cáo có 01 con, sinh ngày 17/5/2017; Tiền án, tiền sự: không.
Bị cáo đầu thú và bị tạm giữ, tạm giam từ ngày 23/12/2021 đến nay, hiện đang bị tạm giam tại Trại tạm giam Công an tỉnh Gia Lai. Có mặt.
* Người bào chữa cho bị cáo: Ông Huỳnh Văn K - Luật sư văn phòng Luật sư Huỳnh Kiên - Đoàn luật sư tỉnh Gia Lai. Có mặt.
* Người phiên dịch tiếng Jarai: Bà N - Cán bộ công tác tại UBND xã An Phú, thành phố Pleiku, tỉnh Gia Lai. Có mặt Trong vụ án còn có người đại diện hợp pháp cho người bị hại, người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan không có kháng cáo.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Vào khoảng 20 giờ 30 phút ngày 22/12/2021, R cùng với vợ là chị Ksor H và anh Dương Hồ V cùng trú tại: Buôn S, xã C, huyện K, tỉnh Gia Lai ngồi uống rượu chung tại nhà R. Đến khoảng 22 giờ 30 phút cùng ngày, sau khi uống khoảng 01 lít rượu thì anh V đi về nhà. Lúc này, giữa chị H và R có xảy ra mâu thuẫn với nhau. Chị H nói R tiêu xài nhiều tiền. Bực tức việc đi làm về mệt lại bị chị H cằn nhằn, chửi bới, trong khi đó tiền công đi làm về R đã đưa cho vợ nên R đã từ phía sau đi tới ngang chị H đang ngồi, dùng tay phải tát một cái vào vùng mặt bên trái chị H làm chị H ngã ngửa ra phía sau, đập đầu xuống sàn nhà bằng gỗ. R tiếp tục xông đến dùng hai tay túm tóc nhấc đầu chị H lên đập 02 phát liên tiếp phần sau đầu và phần mặt bên phải chị H xuống sàn nhà. Sau đó R đứng dậy dùng chân phải đạp 02 phát liên tiếp vào vùng sườn bên trái chị H và 01 phát vào đùi bên trái của chị H. Thấy chị H nằm im tại chỗ, R cầm chân phải chị H kéo ra phía trước hiên nhà và lấy chiếu đắp lên người chị H rồi đi vào trong nhà đóng cửa đi ngủ.
Đến khoảng 24 giờ, chị Ksor N, nghe thấy cháu Ksor S (Sinh năm: 2017; là con gái của R và chị Ksor H) khóc nên đi sang nhà R thì thấy chị H nằm trước hiên nhà trên người đắp một tấm chiếu. Chị N gọi mẹ đẻ là bà Ksor D và em gái là chị Ksor N ở nhà bên cạnh đến kiểm tra thì thấy chị H đang thở hấp hối rồi chết ngay sau đó.
Đến 01 giờ 30 phút, ngày 23/12/2021, R đã đến Công an xã C, huyện K đầu thú và khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội.
Ngày 23/12/2021, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện K đã tiến hành khám nghiệm hiện trường, khám nghiệm tử thi.
Tại Bản kết luận giám định pháp y tử thi số 885/GĐPY ngày 10/01/2022 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Gia Lai kết luận nguyên nhân chết của chị Ksor H như sau:
- Các dấu vết thương tích:
+ Đầu mặt cổ: Hai mắt nhắm, đồng tử hai bên đều 5mm; hai ống tai, mũi, miệng: khô; lưỡi nằm trong cung răng; các răng không gãy; vành tai phải bầm tụ máu trong diện (6x3cm); vành tai phải rách da kích thước (0,5x0,5cm); vùng trán phải bầm tụ máu trong diện (5x3cm); vùng mũi, gò má, hàm trên, hàm dưới trái bầm tụ máu diện (15x13cm); vùng chẩm trái bầm tụ máu diện (7x5cm).
+ Ngực, bụng: Vùng 1/3 trong xương đòn phải xây xát da diện (4x4cm).
+ Lưng, mông, cơ quan sinh dục, hậu môn: Không phát hiện dấu vết thương tích.
+ Tay, chân: Vùng mặt trong cánh tay phải bầm tụ máu diện (12x0,2cm); tay trái, hai chân không phát hiện thương tích.
- Khám trong:
+ Vùng đầu: Mô cơ dưới da vùng trán phải, chẩm trái bầm tụ máu; xương sọ không nứt vỡ, không tụ máu ngoài, dưới màng cứng trong não; nhu mô não thể chai có các chấm xuất huyết.
+ Vùng ngực: Mô cơ dưới da vùng ngực phải bầm tụ máu kích thước (2x2cm); vùng cung bên sườn số 6 trái bầm tụ máu; gãy xương sườn số 6; khoang màn phổi hai bên sạch, phổi phải không dập vỡ, phổi trái dập thùy dưới, tim không dập vỡ.
+ Vùng bụng: Bầm tụ máu, vùng mạn bên sườn trái, cơ hoành trái; dập vỡ gan; ổ bụng chứa khoảng 03 lít máu lỏng, máu đông cục.
- Dấu hiệu chính qua giám định: Nhu mô não, thể chai có các chấm xuất huyết; gãy xương sườn số 6; dập thùy dưới phổi trái; ổ bụng chứa khoảng 3000ml máu lỏng và máu đông cục; dập vỡ gan.
- Nguyên nhân chết: Chấn thương bụng kín.
Ngày 28/3/2021, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an tỉnh Gia Lai đã tiến hành thực nghiệm điều tra cho bị cáo R xác định vị trí đánh chị H và diễn lại toàn bộ hành vi đánh chị H xảy ra ngày 22/12/2021. Kết quả thực nghiệm điều tra phù hợp với lời khai nhận của bị cáo và các tài liệu chứng cứ khác mà Cơ quan điều tra thu thập được.
Tại Bản án hình sự sơ thẩm số 49/2022/HS-ST ngày 15/6/2022 của Tòa án nhân dân tỉnh Gia Lai đã quyết định:
1. Về tội danh:
Tuyên bố bị cáo R phạm tội “Giết người”;
2. Về hình phạt:
Áp dụng điểm n khoản 1 Điều 123; các điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 38 Bộ luật Hình sự năm 2015.
Xử phạt bị cáo R 16 (mười sáu) năm tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 23/12/2021.
Ngoài ra, bản án sơ thẩm còn quyết định về phần xử lý vật chứng, án phí và quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.
Kháng cáo:
Ngày 21/6/2022, bị cáo R nộp đơn kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt.
Tại phiên tòa phúc thẩm:
Bị cáo giữ nguyên nội dung kháng cáo.
Đại diện Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Đà Nẵng cho rằng bản án sơ thẩm xác định bị cáo phạm tội “Giết người” với tình tiết định khung “phạm tội có tính chất côn đồ” là có căn cứ, đúng pháp luật. Hành vi phạm tội của bị cáo là đặc biệt nghiêm trọng. Tòa án cấp sơ thẩm đã xem xét đầy đủ các tình tiết giảm nhẹ và xử phạt bị cáo 16 năm tù là phù hợp, bị cáo không có tình tiết giảm nhẹ mới. Vì vậy, đề nghị Hội đồng xét xử không chấp nhận kháng cáo, giữ nguyên bản án sơ thẩm.
Luật sư bào chữa cho bị cáo cho rằng bị cáo có nhiều tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự nên Tòa án cấp sơ thẩm xử phạt 16 năm tù là nặng, đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
[1]. Tại phiên tòa phúc thẩm, bị cáo R khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội. Lời khai của bị cáo tại phiên toà phù hợp với lời khai trong quá trình điều tra và phù hợp với các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án. Từ đó, có đủ cơ sở kết luận: do có mâu thuẫn trong gia đình, vào khoảng 22 giờ 30 phút ngày 22/12/2021, sau khi uống rượu và bị vợ là chị Ksor H chửi mắng, R đã bực tức dùng tay phải tát một phát vào vùng mặt bên trái chị H làm chị H ngã ngửa ra phía sau và đập đầu xuống sàn nhà. R tiếp tục xông đến dùng hai tay túm tóc nhấc đầu chị H lên đập liên tiếp hai phát phần sau đầu và phần mặt bên phải chị H xuống sàn nhà. Sau đó, R tiếp tục đứng dậy dùng chân phải đạp 02 phát liên tiếp vào vùng sườn bên trái chị H và 01 phát vào đùi bên trái của chị H làm chị H thương tích vùng mặt, đầu, gãy xương sườn số 06 trái, dập thùy dưới phổi trái, dập vỡ gan, chấn thương bụng kín sau đó tử vong.
[2] Hành vi trên của bị cáo R đã phạm tội “Giết người” với tình tiết định khung “phạm tội có tính chất côn đồ” quy định tại điểm n khoản 1 Điều 123 Bộ luật Hình sự như bản án sơ thẩm đã qui kết là có căn cứ, đúng tội.
[3] Xét kháng cáo xin giảm hình phạt của bị cáo: Tòa án cấp sơ thẩm đâ xét bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự và có các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm b, điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự: bị cáo có nhân thân tốt, là người dân tộc thiểu số, sống ở vùng điều kiện kinh tế khó khăn, nhận thức pháp luật còn hạn chế, sau khi phạm tội bị cáo đã đầu thú và thành khẩn khai báo; ăn năn hối cải; đại diện hợp pháp của bị hại xin giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo. Tòa án cấp sơ thẩm xử phạt bị cáo 16 năm tù là phù hợp, tương xứng với tính chất và mức độ, hậu quả hành vi phạm tội. Tại phiên tòa phúc thẩm, bị cáo không có tình tiết giảm nhẹ mới nên không có cơ sở chấp nhận kháng cáo và ý kiến của người bào chữa đề nghị giảm hình phạt cho bị cáo.
[4] Bị cáo phải chịu án phí hình sự phúc thẩm.
Vì các lẽ trên;
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ điểm a khoản 1 Điều 355 Bộ luật Tố tụng hình sự;
Không chấp nhận kháng cáo của bị cáo R;
Giữ nguyên Bản án hình sự sơ thẩm số 49/2022/HS-ST ngày 15/6/2022 của Tòa án nhân dân tỉnh Gia Lai:
1. Áp dụng điểm n khoản 1 Điều 123; các điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 38 Bộ luật Hình sự năm 2015.
Xử phạt bị cáo R 16 (mười sáu) năm tù về tội “Giết người”. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 23/12/2021.
2. Án phí hình sự phúc thẩm:
Bị cáo R phải chịu 200.000đ.
3. Các quyết định khác của bản án hình sự sơ thẩm không có kháng cáo, không bị kháng nghị có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.
Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.
Bản án về tội giết người số 343/2022/HS-PT
Số hiệu: | 343/2022/HS-PT |
Cấp xét xử: | Phúc thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân cấp cao |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 18/08/2022 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về