TÒA ÁN NHÂN DÂN CẤP CAO TẠI ĐÀ NẴNG
BẢN ÁN 343/2021/HSPT NGÀY 23/09/2021 VỀ TỘI GIẾT NGƯỜI
Vào ngày 23 tháng 9 năm 2021, tại Trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Bình Định, Tòa án nhân dân cấp cao tại Đà Nẵng xét xử phúc thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 381/2021/TLPT-HS ngày 05 tháng 7 năm 2021 đối với bị cáo Tống Phước T về tội “Giết người”. Do kháng cáo của bị cáo đối với Bản án hình sự sơ thẩm số 18/2021/HS-ST ngày 25/05/2021 của Tòa án nhân dân tỉnh Bình Định.
* Bị cáo có kháng cáo:
TỐNG PHƯỚC T (tên gọi khác: Đầu Bự, T Bự) - sinh năm: 1992 tại Bình Định; nơi cư trú: tỉnh Bình Định; nghề nghiệp: Không; trình độ văn hóa: 7/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông: Tống Phước T (chết) và bà: Phạm Thị Ngọc A, sinh năm 1965; vợ, con: Chưa có; tiền án, tiền sự: Không;
Đặc điểm nhân thân: Ngày 31/7/2020, Tống Phước T bị Cơ Quan CSĐT - Công an TP. Q khởi tố về tội “Cố ý gây thương tích” theo khoản 1 Điều 134 Bộ luật Hình sự. Sau đó, Viện kiểm sát nhân dân Tp. Q đã ra quyết định đình chỉ điều tra vụ án do bị hại rút đơn yêu cầu.
Bị cáo bị bắt tạm giữ, tạm giam từ ngày 14/10/2020 đến 14/12/2020 được thay thế bằng biện pháp bảo lĩnh; ngày 04/3/2021 cho đến nay bị bắt tạm giam. Bị cáo có mặt tại phiên tòa.
- Người bào chữa: Ông Bùi Văn P - Luật sư của Công ty Luật TNHH MTV P thuộc đoàn Luật sư Bình Định bào chữa cho bị cáo theo luật định; vắng mặt và gởi Luận cứ bào chữa cho bị cáo tại phiên tòa.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Giữa Tống Phước T và Nguyễn Đông H (Tên gọi khác là L) có quen biết nhau từ trước. T có cho H mượn số tiền 1.000.000 đồng và đã nhiều lần đòi nhưng H không chịu trả. Khoảng 22h00’ ngày 15/6/2020, sau khi nhậu xong, T gọi điện cho H để tiếp tục đòi nợ thì giữa hai người xảy ra cãi nhau trên điện thoại. T bực tức việc H không trả nợ mà còn chửi mình nên nảy sinh ý định đi tìm H để đánh. T điều khiển xe mô tô nhãn hiệu Airblade, màu xanh đậm (mượn của người quen nhưng không rõ lai lịch) đi dạo tìm H thì gặp các anh Nguyễn Văn H1, Quách Văn T, Nguyễn Thanh T1 và Trần Thanh T2 đang ngồi nhậu trên vỉa hè đường T đoạn C. T đến và hỏi “Có thấy L không?”, T2 trả lời “Không thấy”. Cả nhóm mời T vào nhậu chung, T đồng ý. Trong lúc ngồi nhậu, T kể việc T mâu thuẫn với Nguyễn Đông H về chuyện tiền bạc. Sau đó, T dùng điện thoại của mình và mượn điện thoại của H1, T2 để gọi cho H nhưng H đều không nghe máy, nên T nhắn tin nhắn thoại cho H với nội dung “Mày ở đâu tao chờ mày nãy giờ. Tao mua sẵn dao rồi thích thì tao với mày ra làm chút”. T ngồi nhậu với cả nhóm được một lúc thì lái xe mô tô tiếp tục đi dạo tìm H. Khi đến khu vực bán hoa tại vỉa hè đường T thuộc C, T dừng lại tìm lấy được một con dao (cán màu đen, lưỡi inox, dài khoảng 30-35cm) mang theo tìm H để đánh.
Đến khoảng 00 giờ 15 phút ngày 16/6/2020, Nguyễn Đông H đi cùng Q (Chưa rõ lai lịch) đến chỗ H1, T2, T1 đang nhậu. Tại đây, H hỏi “Thằng Bự đâu?”, T2 trả lời “Nó đi từ sớm rồi”. H hỏi T2 “Nãy ông với ông Lọ gọi tui hả?”, T2 trả lời “Ừ, thằng Bự nó mượn điện thoại tao gọi cho mày”. H chửi T2 và hăm dọa “Tao xử với thằng Bự xong tao xử mày luôn”. Lúc này, T điều khiển xe mô tô chạy đến. Khi thấy H, T lập tức dừng xe giữa đường rồi cầm dao xông vào đâm, bổ liên tiếp nhiều nhát theo hướng từ trên xuống dưới vào vùng cổ, đầu của H làm cho H ngã xuống đường, mất khả năng kháng cự. T tiếp tục lao vào dùng dao đâm mạnh vào vùng cổ gáy của H gây ra vết thương dài khoảng 10cm. Thấy vậy, T2 vào can ngăn, ôm đẩy T ra làm T ngã xuống đường, nhưng T vùng dậy cầm dao tiếp tục xông vào đâm H. Lúc này H vừa gượng dậy và theo phản xạ H dùng ghế nhựa chống đỡ nhưng ghế bị bể, nên H thả ghế, vừa bỏ chạy vừa dùng tay bịt vết thương chảy máu ở cổ. T tiếp tục rượt đuổi theo H và dùng dao đâm vào vùng hông phía sau lưng trái của H gây ra vết thương dài 8cm. Lúc này, H1 chạy theo ôm T thì T mới dừng lại. T lấy xe mô tô chở H đến Bệnh viện Đa khoa tỉnh cấp cứu và điều trị từ ngày 16/6/2020 đến ngày 20/6/2020 thì xuất viện. Sau khi gây án, T cầm theo con dao, lái xe mô tô đến khu vực gần Tượng đài Chiến thắng ném dao xuống biển rồi bỏ trốn. Sáng cùng ngày, bà Võ Thị Thanh Tùng (mẹ của Nguyễn Đông H) đến Công an phường Lê Lợi để trình báo sự việc.
* Tại Bản kết luận giám định pháp y về thương tích số 161 ngày 04/8/2020 của Trung tâm Pháp y tỉnh Bình Định kết luận đối với thương tích của Nguyễn Đông H: Vết thương vùng cổ gáy sâu đến mỏm gai vùng cột sống cổ C4-C5, đứt toàn bộ cơ phía sau cổ không tổn thương xương vùng cột sống; vết thương vùng ngực trái từ sau khối cơ cạnh cột sống, sắc gọn, thủng nhỏ màng phổi trái, khí phì phò. Tỷ lệ tổn thương cơ thể do thương tích gây nên hiện tại là 7%.
Tại Bản án hình sự sơ thẩm số 18/2021/HS-ST ngày 25/5/2021, Tòa án nhân dân tỉnh Bình Định đã quyết định:
Tuyên bố: Bị cáo Tống Phước T phạm tội “Giết người”.
- Căn cứ vào: Điểm n khoản 1 Điều 123; điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 15; Điều 57 của Bộ luật hình sự.
- Xử phạt: Bị cáo Tống Phước T 10 (mười) năm tù, thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt giam 04/3/2021, được trừ thời hạn tạm giam trước từ ngày 14/10/2020 đến ngày 14/12/2020.
Ngoài ra, bản án sơ thẩm còn quyết định về phần xử lý vật chứng, án phí và quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.
Ngày 03/6/2021 bị cáo kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt.
Tại phiên tòa phúc thẩm: Bị cáo giữ nguyên yêu cầu kháng cáo.
Kiểm sát viên đại diện cho Viện Kiểm sát nhân dân cấp cáo tại Đà Nẵng phát biểu quan điểm giải quyết vụ án như sau: Tòa án sơ thẩm xử phạt bị cáo là đúng pháp luật; đề nghị không chấp nhận kháng cáo của bị cáo giữ nguyên Bản án sơ thẩm.
Người bào chữa cho bị cáo trình bày (Luận cứ bào chữa): Thương tích của người bị hại không lớn(7%), bị cáo được hưởng các tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm b,h,s khoản 1, khoản 2 Điều 51 BLHS; do đó đề nghị chấp nhận kháng cáo bị cáo giảm nhẹ hình phạt tù cho bị cáo với mức án thấp nhất.
Bị cáo T thống nhất lời bào chữa của Luật sư bào chữa và xin giảm nhẹ hình phạt tù.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1] Do việc Nguyễn Đông H nợ tiền Tống Phước T nhưng H không trả; khoảng 22h00’ ngày 15/6/2020, T tiếp tục gọi điện cho H để đòi nợ thì giữa hai người xảy ra cãi vã. Đến 00h15’ ngày 16/6/2020 T mang theo dao đi tìm H để đánh; khi đến vỉa hè đường T thuộc C, T nhìn thấy H lập tức cầm dao xông vào đâm, bổ liên tiếp nhiều nhát theo hướng từ trên xuống dưới vào vùng cổ, đầu của H làm cho H ngã xuống đường, T tiếp tục lao vào dùng dao đâm mạnh vào vùng cổ gáy của H làm H té ngã, vừa gượng dậy và theo phản xạ H dùng ghế nhựa chống đỡ nhưng ghế bị bể, nên H thả ghế, vừa bỏ chạy vừa dùng tay bịt vết thương chảy máu ở cổ. T tiếp tục rượt đuổi theo H và dùng dao đâm vào vùng cổ và vùng hông phía sau lưng trái của H nhưng được mọi người can ngăn. T bỏ mặc hậu quả không đưa nạn nhân đi cấp cứu và bỏ trốn. Hậu quả, H bị thương với tỷ lệ thương tật 7%. Tòa án sơ thẩm xét xử bị cáo về tội “Giết người” với tình tiết định khung “Có tính chất côn đồ” được quy định tại điểm n khoản 1 Điều 123 BLHS là có căn cứ và đúng pháp luật.
[2] Xét kháng cáo xin giảm hình phạt tù của bị cáo, thấy: Hành vi của bị cáo Tống Phước T gây ra là đặc biệt nghiêm trọng, chỉ vì mâu thuẫn trong việc trả nợ bị cáo sử dụng dao là hung khí nguy hiểm đâm bổ nhiều nhát vào vùng cổ, lưng và hông là những vị trí trọng yếu trên cơ thể của người bị hại Nguyễn Đông H và để mặc cho hậu quả xảy ra. Hành vi của bị cáo thể hiện bản tính côn đồ, hung hãn, coi thường pháp luật, cố ý xâm phạm đến tính mạng, sức khỏe của người khác một cách trái pháp luật đồng thời làm mất trật tự an toàn xã hội tại địa phương; trước khi phạm tội bị cáo đã có hành vi cố ý gây thương tích cho người khác. Quá trình giải quyết vụ án bị cáo Tống Phước T thành khẩn khai báo, ăn năn, hối cải, đã bồi thường khắc phục hậu quả cho bị hại 20.000.000, đồng, bị hại xin giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo nên bị cáo được hưởng các tình tiết giảm nhẹ được quy định tại điểm b, s khoản 1; khoản 2 Điều 51 BLHS; bị cáo phạm tội thuộc trường hợp “Phạm tội chưa đạt” được áp dụng Điều 15; khoản 3 Điều 57 của BLHS. Tòa án cấp sơ thẩm đã căn cứ vào tính chất, mức độ phạm tội, hậu quả của tội phạm, nhân thân của bị cáo, áp dụng đầy đủ các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự xử phạt bị cáo Tống Phước T mức án 10 năm tù về tội “Giết người” là không nặng và đúng pháp luật. Tại cấp phúc thẩm bị cáo kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt nhưng không có tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự nào mới; do đó, Hội đồng xét xử phúc thẩm không chấp nhận kháng cáo của bị cáo giữ nguyên bản án sơ thẩm.
[3] Các phần khác của Bản án hình sự sơ thẩm về xử lý vật chứng, án phí hình sự sơ thẩm không có kháng cáo, không bị kháng nghị có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.
[4] Án phí hình sự phúc thẩm bị cáo T phải chịu 200.000,(Hai trăm ngàn) đồng, theo quy định tại khoản 2 Điều 135, khoản 2 Điều 136 Bộ luật tố tụng Hình sự, Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí tòa án.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ điểm a khoản 1, khoản 2 Điều 355, Điều 356 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015;
Căn cứ khoản 2 Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý, sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.
1. Không chấp nhận kháng cáo của bị cáo Tống Phước T và giữ nguyên Bản án hình sự sơ thẩm số: 18/2021/HSST ngày 25/5/2021 của Tòa án nhân dân tỉnh Bình Định.
Áp dụng điểm n khoản 1 Điều 123; điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 15; khoản 3 Điều 57 của Bộ luật hình sự năm 2015(Sửa đổi, bổ sung năm 2017).
Xử phạt: Bị cáo Tống Phước T 10 (mười) năm tù về tội “Giết người” thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt giam 04/3/2021, được trừ thời hạn tạm giam trước từ ngày 14/10/2020 đến ngày 14/12/2020.
2. Các Quyết định khác của Bản án hình sự sơ thẩm số: 18/2021/HSST ngày 25/5/2021 của Tòa án nhân dân tỉnh Bình Định về xử lý vật chứng, án phí hình sự sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật, kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.
3. Án phí hình sự phúc thẩm bị cáo bị cáo Tống Phước T phải chịu 200.000, đồng (Hai trăm ngàn đồng).
Bản án hình sự phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.
Bản án về tội giết người số 343/2021/HSPT
Số hiệu: | 343/2021/HSPT |
Cấp xét xử: | Phúc thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân cấp cao |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 23/09/2021 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về