Bản án về tội giết người số 340/2023/HS-PT

TÒA ÁN NHÂN DÂN CẤP CAO TẠI ĐÀ NẴNG

BẢN ÁN 340/2023/HS-PT NGÀY 28/08/2023 VỀ TỘI GIẾT NGƯỜI

Ngày 28 tháng 8 năm 2023, tại Trụ sở Tòa án nhân dân cấp cao tại Đà Nẵng xét xử phúc thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 315/2023/TLPT-HS ngày 06 tháng 7 năm 2023 đối với các bị cáo Trần Công Hiếu, Nguyễn Ngọc Khương về tội “Giết người”.Do có kháng cáo của các bị cáo và người đại diện hợp pháp của bị cáo đối với Bản án hình sự sơ thẩm số 07/2023/HS-ST-CTN ngày 31 tháng 5 năm 2023 của Tòa án nhân dân thành phố Đà Nẵng.

Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 2880/2023/QĐXXPT-HS ngày 31 tháng 7 năm 2023.

- Bị cáo có kháng cáo:

1. Trần Công H, sinh ngày 26 tháng 11 năm 2005 tại Đà Nẵng; nơi cư trú: thôn P, xã H, huyện H, thành phố Đà Nẵng; nghề nghiệp: lao động phổ thông; trình độ văn hóa: 10/12; dân tộc: Kinh; giới tính: nam; tôn giáo: không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Trần Công H1 và bà Trần Thị Hồng N; tiền án, tiền sự: không.

Bị cáo bị bắt tạm giam ngày 25/8/2022 , có mặt tại phiên tòa.

2. Nguyễn Ngọc K, sinh ngày 20 tháng 5 năm 2004 tại Đà Nẵng; nơi cư trú: thôn P, xã H, huyện H, thành phố Đà Nẵng; nghề nghiệp: lao động phổ thông; trình độ văn hóa: 9/12; dân tộc: Kinh; giới tính: nam; tôn giáo: không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Nguyễn Văn Ố và bà Nguyễn Thị Bích K1; tiền án, tiền sự: không.

Bị cáo bị bắt tạm giam ngày 25/8/2022, có mặt tại phiên tòa.

- Người đại diện hợp pháp của bị cáo Trần Công H: 1. Ông Trần Công H1, sinh năm 1983; cư trú tại: thôn P, xã H, huyện H, thành phố Đà Nẵng (cha của bị cáo), có mặt tại phiên tòa.

2. Bà Trần Thị Hồng N; sinh năm 1984; cư trú tại: I đường N, phường H, quận L, thành phố Đà Nẵng (mẹ của bị cáo), có mặt tại phiên tòa.

- Người bào chữa cho bị cáo Trần Công H: bà Nguyễn Thị Quỳnh N1, Trợ giúp viên pháp lý của Trung tâm trợ giúp pháp lý Nhà nước thành phố Đà Nẵng, có mặt tại phiên tòa.

- Người bào chữa cho bị cáo Nguyễn Ngọc K: bà Hà Thị Mỹ H2, Luật sư của Văn phòng L, thuộc Đoàn Luật sư thành phố Đà Nẵng, có mặt tại phiên tòa.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Khoảng đầu năm 2022, anh Hồ Nguyễn Quốc D đến học nghề làm nến tại xưởng của bà Trần Thị Hồng N (địa chỉ I đường N, phường H, quận L, thành phố Đà Nẵng). Quá trình học tại đây thì anh D có xảy ra mâu thuẫn xô xát với con đẻ bà N là Trần Công H nên H nói bà N cho anh D nghỉ học nghề. Sau đó, anh D đã về quê, nhưng H vẫn còn bực tức chuyện bị đánh nên H nhiều lần liên lạc nói anh D ra Đà Nẵng để giải quyết mâu thuẫn, nhưng đều bị anh D từ chối.

Khoảng 17 giờ ngày 25-8-2022, H ngồi uống nước với Nguyễn Ngọc K, rồi truy cập vào mạng xã hội Facebook thì phát hiện anh D đang cùng một số công nhân làm nến ngồi nhậu trước xưởng làm nến của bà N nên nảy sinh ý định trả thù. H liền rủ K cùng đi đến xưởng làm nến của mẹ H để đánh anh D thì K đồng ý nên H mượn xe mô tô biển kiểm soát 43K1-56226 của Trần Văn T để K chở H. Trên đường đi, H nói cho K nghe về mâu thuẫn giữa H và D trước đây rồi nói K tìm mua dao, nhưng K nói tìm mấy khúc cây gỗ thì dễ đánh hơn. Khi đến chợ H3 thuộc phường H, H nói K dừng xe đứng đợi còn H đi vào bên trong chợ mua 01 con dao loại của Thái Lan dài 21,5cm. Khi H đi ra Khương nhìn thấy trên tay H cầm dao nên nói H vứt dao đi nhưng H không đồng ý thì K tiếp tục chở H đến nhà số I đường N Khi đến nơi thấy anh D thì H nhảy xuống xe, cầm dao bằng tay phải, chạy đến sau lưng anh D đâm liên tiếp 02 nhát theo hướng từ trên xuống dưới, từ trái qua phải vào vùng lưng của anh D rồi H rút dao chạy ra xe để K chở chạy trốn. Khi đến trước số nhà B đường T, H vứt con dao xuống lề đường, rồi cả 02 chạy xe về nhà ở xã H. Anh D được đưa đi cấp cứu nhưng đã tử vong trên đường đi.

Tại Kết luận giám định số 99/KLPY-KTHS ngày 12-9-2022 của Phòng K2 - Công an thành phố Đà Nẵng, xác định:

- Vùng lưng bên phải ngang đốt sống lưng số 4, cách đường giữa lưng 9,5cm có vết thương rách đứt da cơ, bờ mép vết thương sắc gọn, miệng vết thương có hình bầu dục dài 1,8cm, chỗ rộng nhất 0,6cm, trục dọc miệng vết thương tạo với trục dọc cơ thể một góc 15 độ, rãnh vết thương xuyên vào lồng ngực có chiều hướng từ sau ra trước, từ trái qua phải, từ dưới lên trên. Ký hiệu “V1”;

- Vùng lưng bên trái ngang đốt sống lưng số 6, cách đường giữa lưng 07cm, có vết thương rách đứt da cơ, bờ mép vết thương sắc gọn, miệng vết thương có hình bầu dục dài 3cm, chỗ rộng nhất 01cm, trục dọc miệng vết thương tạo với trục dọc cơ thể một góc 40 độ, rãnh vết thương xuyên vào lồng ngực, có chiều hướng từ trên xuống dưới, từ trái qua phải, từ sau ra trước. Ký hiệu “V2”;

- Vùng mu bàn chân, ngón chân bên trái có nhiều vết thâm tím, xây xát, bong tróc da cơ và một phần mặt trên xương các đốt ngón chân, nằm trên diện (10 x 9) cm;

- Vùng mặt trong ngón cái bàn chân phải có vết thâm tím, xây xát da cơ, kích thước (1,5 x 0,5) cm;

- Tiến hành giải phẩu tử thi, kiểm tra thấy: Vết thương “V1” gây rách đứt mặt sau phổi phải, kích thước (0,5 x 0,3) cm; Vết thương “V2” gây thủng phổi trái; rách đứt cơ tim mặt sau tâm thất trái, rãnh vết thương xuyên vào buồng tim.

- Nguyên nhân tử vong của Hồ Nguyễn Quốc D là do thủng phổi, thủng tim gây mất máu, suy hô hấp, trụy tim mạch.

Tại Kết luận giám định số 1263/KL-KTHS ngày 19-9-2022 của Phân viện Khoa học hình sự tại thành phố Đà Nẵng, xác định: Trên con dao (loại dao Thái Lan, dài 21,5cm, cán bằng nhựa màu vàng có chữ “Kiwi”, lưỡi dao bằng kim loại màu trắng sáng, mũi nhọn, trên lưỡi dao có chữ “Kiwi-Brand” và “Made in Thailand”) có máu của Hồ Nguyễn Quốc D. Tại Bản án hình sự sơ thẩm số 07/2023/HS-ST-CTN ngày 31/5/2023, Tòa án nhân dân thành phố Đà Nẵng quyết định: tuyên bố các bị cáo Trần Công H, Nguyễn Ngọc K phạm tội “Giết người”.

1. Căn cứ vào điểm n khoản 1 Điều 123; điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 91; Điều 101 của Bộ luật Hình sự;

Xử phạt bị cáo Trần Công H 16 (mười sáu) năm tù. Thời gian chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 25/8/2022.

2. Căn cứ vào điểm n khoản 1 Điều 123; điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 38 của Bộ luật Hình sự Xử phạt bị cáo Nguyễn Ngọc K 13 (mười ba) năm tù. Thời gian chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 25/8/2022.

Ngoài ra, bản án sơ thẩm còn quyết định về xử lý vật chứng, án phí, quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.

Ngày 05/6/2023, bị cáo Trần Công H và Nguyễn Ngọc K kháng cáo cùng nội dung xin giảm nhẹ hình phạt.

Ngày 06/6/2023, người đại diện hợp pháp của bị cáo Trần Công H là bà Trần Thị Hồng N (mẹ của bị cáo) kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo H. Tại phiên tòa phúc thẩm, đại diện Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Đà Nẵng đề nghị Hội đồng xét xử căn cứ điểm a khoản 1 Điều 355, Điều 356 của Bộ luật tố tụng Hình sự, không chấp nhận kháng cáo của các bị cáo Trần Công H, Nguyễn Ngọc K, kháng cáo của đại diện hợp pháp cho bị cáo Trần Công H; giữ nguyên hình phạt của bản án sơ thẩm đối với các bị cáo.

Người bào chữa cho bị cáo Trần Công H và Nguyễn Ngọc K thống nhất tội danh của các bị cáo như bản án sơ thẩm đã nhận định. Đối với Trần Công H, bị cáo là người chưa thành niên, nhận thức pháp luật còn hạn chế; Nguyễn Ngọc K vì cả nể bạn bè mà giúp sức cho H, vai trò của K không đáng kể, các bị cáo không bàn bạc với nhau; mức án mà Tòa án cấp sơ thẩm áp dụng đối với các bị cáo là quá nghiêm khắc; các bị cáo có nhiều tình tiết giảm nhẹ. Tại phiên toà phúc thẩm, bị cáo H đã tác động gia đình hỗ trợ thêm cho gia đình người bị hại Hồ Nguyễn Quốc D 30.000.000đ ngoài số tiền đã bồi thường, gia đình người bị hại có đơn xin giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo; bị cáo Nguyễn Ngọc K cung cấp tài liệu thể hiện ông nội bị cáo là người có công với cách mạng. Đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng Điều 54 Bộ luật Hình sự để giảm một phần hình phạt cho các bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

[1]. Ngày 05/6/2023 và ngày 06/6/2023, các bị cáo Trần Công H, Nguyễn Ngọc K và người đại diện hợp pháp của bị cáo Trần Công H là bà Trần Thị Hồng N (mẹ của bị cáo) kháng cáo cùng nội dung xin giảm nhẹ hình phạt. Các bị cáo và bà N là chủ thể có quyền kháng cáo, Đơn kháng cáo của những người kháng cáo trong thời hạn theo quy định tại các Điều 331, 333 của Bộ luật Tố tụng hình sự, do đó Hội đồng xét xử quyết định đưa vụ án ra xét xử phúc thẩm. Tại phiên toà, những người kháng cáo giữ nguyên nội dung kháng cáo.

[2]. Căn cứ vào các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án đã được xem xét tại phiên toà, kết quả tranh tụng tại phiên tòa, lời bào chữa của người bào chữa cho các bị cáo, quan điểm đề nghị của đại diện Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Đà Nẵng, Hội đồng xét xử có đủ căn cứ kết luận:

[2.1]. Về tội danh:

Khi Nguyễn Ngọc K được Trần Công H rủ đi đánh Hồ Nguyễn Quốc D để trả thù chỉ vì mâu thuẫn trong quá trình học nghề với anh D từ đầu năm 2022 thì K đồng ý. Vào khoảng 18 giờ ngày 25/8/2022, K điều khiển xe môtô biển kiểm soát 43K1-56226 chở H đến trước xưởng làm nến của bà Trần Thị Hồng N, tại địa chỉ I đường N, phường H, quận L, thành phố Đà Nẵng để tìm gặp đánh D. Tại đây, H sử dụng dao Thái Lan được H mua trên đường đi trước đó đâm 02 nhát theo hướng từ trên xuống dưới, từ trái qua phải vào vùng lưng làm anh D bị thủng phổi, thủng tim gây mất máu, suy hô hấp, trụy tim mạch. Hậu quả anh Hồ Nguyễn Quốc D chết trên đường đi cấp cứu.

Với hành vi trên, Tòa án nhân dân thành phố Đà Nẵng đã kết tội Trần Công H, Nguyễn Ngọc K “Giết người” theo điểm n khoản 1 Điều 123 Bộ luật Hình sự là có cơ sở, đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.

[2.2]. Xét tính chất, mức độ hành vi phạm tội và kháng cáo của các bị cáo, kháng cáo của người đại diện hợp pháp của bị cáo, thấy rằng:

Hành vi phạm tội của các bị cáo là đặc biệt nghiêm trọng, đã xâm phạm đến sức khoẻ, tính mạng của người khác được pháp luật bảo vệ, gây ảnh hưởng xấu đến trật tự trị an tại địa phương. Mặc dù cùng thực hiện tội phạm nhưng với tính chất mức độ khác nhau nên HĐXX cần xem xét, phân hóa vai trò của mỗi bị cáo để cụ thể hóa mức hình phạt cho phù hợp.

[2.2.1]. Đối với bị cáo Trần Công H: chỉ vì mâu thuẫn nhỏ nhặt đã xảy ra từ lâu, H nhiều lần gọi điện thoại hẹn gặp D để giải quyết; mặc dù D đã từ chối không gặp nhưng H vẫn bực tức và chủ động tìm D để đánh trả thù. Bị cáo nhận thức được hành vi dùng dao Thái Lan là hung khí nguy hiểm đâm vào lưng của anh Hồ Nguyễn Quốc D có thể dẫn đến chết người nhưng bị cáo vẫn thực hiện, hậu quả anh D bị tử vong bởi hai nhát đâm của bị cáo. Hành vi của bị cáo thể hiện tính chất côn đồ, hung hãn, coi thường pháp luật, coi thường mạng sống của người khác.

Trong vụ án này, H là người khởi xướng và cũng là người thực hành tích cực, chuẩn bị hung khí là dao Thái Lan dài 21,5cm. Tại thời điểm thực hiện phạm tội, bị cáo H 16 tuổi 08 tháng 29 ngày nên Tòa án cấp sơ thẩm áp dụng nguyên tắc xử lý đối với người dưới 18 tuổi phạm tội là có cơ sở, đúng quy định pháp luật.

[2.2.2]. Đối với bị cáo Nguyễn Ngọc K: bị cáo không hề quen biết Hồ Nguyễn Quốc D, người mẫu thuẫn với D là bị cáo H chứ không phải K nhưng khi được H rủ đi đánh D, bị cáo không những không ra sức can ngăn mà lại đồng ý ngay và còn đề xuất dùng cây gỗ để đánh bị hại.

Bị cáo là người giúp sức tích cực. Sau khi đồng ý đi đánh anh D với H, K điều khiển xe mô tô chở H từ xã H, huyện H, thành phố Đà Nẵng đến số nhà I đường N, phường H, quận L, thành phố Đà Nẵng để bị cáo H dùng dao đâm chết anh D, sau đó bị cáo chở H về nhà (tại xã H, huyện H). Bị cáo là người đã thành niên, bị cáo càng nhận thức được hành vi dùng dao đâm vào lưng của bị hại là nguy hiểm, thấy trước hậu quả chết người nhưng bị cáo vẫn để mặc cho hậu quả xảy ra. Vì vậy, Tòa án cấp sơ thẩm xem xét vai trò đồng phạm của bị cáo là có cơ sở, đúng pháp luật.

[2.2.3]. Tại cấp sơ thẩm, các bị cáo Trần Công H và Nguyễn Ngọc K đều thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải; gia đình các bị cáo đã bồi thường cho bị hại; bị hại xin giảm nhẹ hình phạt cho 02 bị cáo; sau khi phạm tội, các bị cáo ra đầu thú với Cơ quan Công an; gia đình bị cáo H có công với cách mạng nên đã được Hội đồng xét xử xem xét áp dụng các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại các điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự khi lượng hình đối với các bị cáo. Do đó, mức án 16 năm tù đối với bị cáo Trần Công H và 13 năm tù đối với bị cáo Nguyễn Ngọc K mà Tòa án cấp sơ thẩm đã tuyên phạt là đã xem xét toàn diện vụ án, phù hợp với tính chất, mức độ hành vi phạm tội của các bị cáo, thể hiện sự phân hóa vai trò tội phạm, đảm bảo nguyên tắc xử lý đối với người chưa thành niên phạm tội cũng như công tác giáo dục, răn đe và phòng ngừa chung.

[2.2.4]. Sau khi xét xử sơ thẩm, bị cáo Trần Công H tác động để gia đình bị cáo tiếp tục hỗ trợ thêm cho gia đình người bị hại Hồ Nguyễn Quốc D số tiền 30.000.000đ, và được bố mẹ của người bị hại là ông Hồ E và bà Nguyễn Thị Mỹ D1 viết Đơn, có xác nhận của chính quyền địa phương xin giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo Trần Công H. Bị cáo H có hoàn cảnh gia đình khó khăn, bố mẹ hiện đã ly hôn, bị cáo một mình lao động nuôi sống bản thân. Gia đình bị cáo Nguyễn Ngọc K cung cấp tài liệu có xác nhận của Ủy ban nhân dân xã H thể hiện ông nội bị cáo, ông Đinh Văn T1 là người có công với đất nước, được Nhà nước tặng thưởng Huân chương Chiến sỹ vẻ vang hạng Nhất và hạng Ba. Đây là các tình tiết giảm nhẹ quy định tại khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự mà Hội đồng xét xử áp dụng, giảm cho các bị cáo một phần hình phạt để các bị cáo thấy được chính sách khoan hồng, nhân đạo của pháp luật, tạo điều kiện cho các bị cáo sớm hoà nhập cộng đồng, trở thành công dân có ích cho xã hội.

Từ các nhận định trên, Hội đồng xét xử chấp nhận kháng cáo của các bị cáo Trần Công H, Nguyễn Ngọc K và kháng cáo của người đại diện hợp pháp của bị cáo Trần Công H là bà Trần Thị Hồng N; sửa Bản án hình sự sơ thẩm số 07/2023/HS-ST-CTN ngày 31/5/2023 của Tòa án nhân dân thành phố Đà Nẵng về phần hình phạt đối với các bị cáo.

[3]. Về án phí hình sự phúc thẩm: do kháng cáo được chấp nhận nên các bị cáo không phải chịu án phí phúc thẩm.

[4]. Các phần quyết định của bản án sơ thẩm về xử lý vật chứng, án phí sơ thẩm không có kháng cáo, không bị kháng nghị, Hội đồng xét xử không xem xét.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ điểm b khoản 1 Điều 355; điểm c khoản 1 Điều 357 của Bộ luật Tố tụng hình sự;

1. Chấp nhận kháng cáo của các bị cáo Trần Công H, Nguyễn Ngọc K và kháng cáo của người đại diện hợp pháp của bị cáo Trần Công H là bà Trần Thị Hồng N; sửa Bản án hình sự sơ thẩm số 07/2023/HS-ST-CTN ngày 31/5/2023 của Tòa án nhân dân thành phố Đà Nẵng về phần hình phạt đối với các bị cáo.

1.1. Áp dụng điểm n khoản 1 Điều 123; điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 91; Điều 101 của Bộ luật Hình sự;

Xử phạt bị cáo Trần Công H 15 (mười lăm) năm tù về tội “Giết người”.

Thời gian chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 25/8/2022.

1.2. Áp dụng điểm n khoản 1 Điều 123; điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 38 của Bộ luật Hình sự;

Xử phạt bị cáo Nguyễn Ngọc K 12 (mười hai) năm 06 (sáu) tháng tù về tội “Giết người”. Thời gian chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 25/8/2022.

2. Án phí hình sự phúc thẩm: các bị cáo Trần Công H, Nguyễn Ngọc K không phải chịu án phí hình sự phúc thẩm.

3. Các phần quyết định của bản án sơ thẩm về xử lý vật chứng, án phí sơ thẩm không có kháng cáo, không bị kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

200
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội giết người số 340/2023/HS-PT

Số hiệu:340/2023/HS-PT
Cấp xét xử:Phúc thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân cấp cao
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 28/08/2023
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về