Bản án về tội giết người số 336/2021/HS-PT

TÒA ÁN NHÂN DÂN CẤP CAO TẠI ĐÀ NẴNG

BẢN ÁN 336/2021/HS-PT NGÀY 23/09/2021 VỀ TỘI GIẾT NGƯỜI

Ngày 23 tháng 9 năm 2021, tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Quảng Nam, Tòa án nhân dân cấp cao tại Đà Nẵng xét xử phúc thẩm vụ án hình sự thụ lý số 199/2021/TLPT-HS ngày 08 tháng 02 năm 2021 đối với bị cáo Trần Văn C về tội “Giết người”.

Do có kháng cáo của bị cáo đối với Bản án hình sự sơ thẩm số 01/2021/HS-ST ngày 06/01/2021 của Tòa án nhân dân tỉnh Quảng Nam.

- Bị cáo có kháng cáo:

Trần Văn C, sinh năm 1980, tại huyện Q1, tỉnh Quảng Nam; nơi đăng ký HKTT và chỗ ở hiện nay: thôn P, xã Q, huyện Q1, tỉnh Quảng Nam; nghề nghiệp: Thợ S nước; trình độ văn hóa: Lớp 9/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Trần Văn Đ, sinh năm 1928 và bà Đoàn Thị P, sinh năm 1936; bị cáo chưa có vợ con; tiền án, tiền sự: Không.

Bị cáo bị bắt tạm giữ ngày 06/11/2019, chuyển tạm giam ngày 15/11/2019; hiện đang bị tạm giam tại Trại tạm giam Công an tỉnh Quảng Nam; có mặt tại phiên tòa.

- Người bào chữa cho bị cáo Trần Văn C: Ông Ngô Thành TI - Luật sư, thuộc Đoàn Luật sư tỉnh Quảng Nam, bào chữa theo yêu cầu của cơ quan tiến hành tố tụng, có mặt tại phiên tòa.

- Bị hại: Ông Đinh Hữu A, sinh năm 1967; nơi cư trú: thôn P, xã Q, huyện Q1, tỉnh Quảng Nam (đã chết).

- Người đại diện hợp pháp của bị hại Đinh Hữu A:

Bà Đinh Thị Kim D1, sinh năm 1966 (vợ của bị hại); vắng mặt.

Trú tại: thôn P, xã Q, huyện Q1, tỉnh Quảng Nam.

- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: Bà Đoàn Thị P1, sinh năm 1936; nơi cư trú: thôn P, xã Q, huyện Q1, tỉnh Quảng Nam, vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Vào lúc 10 giờ 15 phút ngày 24/10/2019, trong lúc đang ngồi uống nước tại quán nước trước Ủy ban nhân dân xã Q, huyện Q1, tỉnh Quảng Nam thì Trần Văn C nhận được tin mẹ ruột của mình là bà Đoàn Thị P1 (sinh năm: 1936; trú tại: Thôn P, xã Q, Q1, Quảng Nam) bị người khác đánh, C liền chạy về nhà thì thấy bà P1 đang nằm trên mép đường trước nhà mình, còn ông A đang đứng cách bà P1 khoảng 10 mét. Lúc này, bà P1 nói với C là bị ông Đinh Hữu A đánh. Nghe bà P1 nói xong, C liền chạy vào trong nhà lấy 01 con dao (dài khoảng 60cm) đuổi chém ông A thì ông A bỏ chạy vào nhà mẹ ruột của ông A (nằm bên trái nhà C) để trốn. Sau đó, anh Huỳnh Văn T2 là Công an viên xã Q, huyện Q1 đến can ngăn nên c dừng lại, không đuổi đánh ông A nữa và đưa bà P1 đi cấp cứu tại Trung tâm Y tế huyện Q1, tỉnh Quảng Nam.

Trưa ngày 29/10/2019, Trần Văn C đi đám cưới của một người bạn trú cùng thôn P, xã Q, huyện Q1, tỉnh Quảng Nam; đến khoảng 13 giờ cùng ngày thì về nhà ngủ. Sau khi ngủ dậy, C đến Trung tâm Y tế huyện Q1, tỉnh Quảng Nam để thăm mẹ đang điều trị tại đây. Khoảng 19 giờ cùng ngày, C về nhà ăn tối thì nhìn thấy ông Đinh Hữu A đang ở bên nhà của mẹ ruột ông A nên C nhớ lại chuyện ông A đã đánh mẹ mình, C tức giận và muốn đánh ông A để trả thù. Để thực hiện ý định đánh ông A, C lấy một đoạn tre khô đặc (loại thường dùng làm cán rựa) dài khoảng 60cm cầm trên tay phải của mình ra đứng trước sân nhà chờ ông A đi ra thì chặn đánh ông A. Chờ một lúc không thấy ông A đi ra nên C vứt bỏ đoạn tre tại đống cát trước nhà rồi đi vào nhà để uống nước.

Sau đó, C đi ra trước hiên nhà thì nhìn thấy dưới phi sắt đựng lúa có một con dao (loại dao thái chuối), C lấy con dao cầm trên tay trái, tiếp tục đi ra trước sân nhà thì nhìn thấy ông A đang điều khiển xe máy đi từ trong nhà mẹ của ông A ra hướng cổng ngõ. C liền chạy ra đống cát trước nhà nhặt lại đoạn tre mà C vừa vứt bỏ trước đó cầm trên tay phải, còn tay trái vẫn cầm con dao rồi chạy ra đường nhằm chặn đầu xe của ông A. Lúc này, ông A đang điều khiển xe máy ở lề đường bên phải (đầu không đội mũ bảo hiểm), nhìn thấy C nên ông A chạy xe máy chuyển sang lề đường bên trái (Đường ĐT611, theo hướng từ ngã ba HA đi xã Q) để né tránh. Thấy vậy, C liền chạy băng qua đường đuổi theo ông A. Khi C chạy đến sát lề bên trái thì tiếp cận được ông A, C đưa tay phải cầm đoạn tre lên đánh vào vùng đầu ông A, ông A loạng choạng tay lái rồi té ngã xuống đường thì đoạn cây tre cũng tụt khỏi tay C văng vào bụi cây bên đường.

Thấy ông A bị ngã và nằm im, C cầm con dao đưa vào cổ ông A và nói “Ông A, mẹ tôi cũng như mẹ ông, tại sao ông đánh mẹ tôi, tôi ghét ông, tôi giết ông”. Lúc này, có 02 em nhỏ là Trần Nguyễn Xuân H1 (sinh năm 2004) và Phan Thị M (sinh năm 2004) đi học bằng xe máy về ngang qua đoạn đường này. Qua ánh đèn xe máy thì các em nhìn thấy rõ C cầm dao dí vào cổ ông A đang nằm trên đường, em H1 và M lo sợ nên chạy xe máy đi ngang qua luôn. Thấy ông A không có phản ứng gì và C lo sợ có người nhìn thấy nên C đem con dao vào nhà cất giấu. Cất dao xong, C đi ra đứng ở lề đường bên phải để nhìn sang nơi ông A nằm. Lúc này, có hai anh Phan Thanh S (sinh năm 1979) và anh Đinh Hữu H2 (sinh năm 1989) cùng trú tại thôn P3, xã Q, huyện Q1, Quảng Nam đi ngang qua thấy có người đàn ông nằm dưới đường nên dừng lại xem và hỏi C “Ai nằm rứa” thì C trả lời “Anh A con bà hai Hương uống rượu say té”; nghe vậy, anh S, anh H2 bảo C chạy đi gọi người nhà ông A rồi hai anh lái xe bỏ đi, vì nghĩ ông A say rượu ngã không bị thương tích gì. Sau đó, ông A được mọi người đưa đến Trung tâm Y tế huyện Q1 sơ cứu rồi chuyển ra Bệnh viện Đa khoa Đà Nẵng cấp cứu điều trị, đến ngày 02/11/2019 thì tử vong.

Đối với Trần Văn C, sau khi ông A được mọi người đưa đi cấp cứu thì C đi ra đoạn đường trên tìm lại đoạn tre mà C đã dùng để đánh ông A và đem vào nhà cất giấu. Đến ngày 31/10/2019, C lấy đoạn tre trên ra chẻ nhỏ, bỏ vào bếp đốt cháy hết nhằm phi tang vật chứng.

* Tại Bản kết luận giám định pháp y tử thi số 248/GĐPY-PC09 ngày 08/11/2019 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Quảng Nam đã xác định nguyên nhân tử vong của ông Đinh Hữu A như sau:

1. Khám ngoài

Đầu:

+ Vùng đỉnh phải có vết rách da đã khâu chỉ kích thước (1,5 x 0,4) cm, bầm tụ máu nhẹ xung quanh (vết số 01);

+ Vùng đỉnh - thái dương phải, cách vết số 01 về bên phải 3,2cm có vết bầm tụ máu và xây xát da trên diện (5 x 3,5) cm (vết số 02);

+ Vùng đỉnh - chẩm phải, cách vết số 01 về phía sau 06cm có nhiều vết bầm tụ máu rải rác trên diện (3 x 2) cm (vết số 03);

+ Vùng chẩm phải, cách vết số 03 về phía sau 1,5cm có nhiều vết xây xát da đã đóng vảy trên diện (5,5 x 3) cm (vết số 04);

+ Cạnh vết số 04 về phía dưới bên phải có vết bầm tụ máu kích thước (4,2 x 1,5) cm (vết số 05);

+ Trán trái có vết bầm tụ máu kích thước (2 x 1,5) cm (vết số 06).

2. Khám trong

- Đầu:

+ Tương ứng vết số 01: Tụ máu dưới da kích thước (4,25 x 2,5) cm, không thủng da đầu;

+ Tương ứng vết số 02: Dập rách mô dưới da kích thước (2 x 1,8) cm; dập rách mạc và cơ thái dương phải kích thước (4 x 3,2) cm;

+ Vỡ lún xương đỉnh phải trên diện (5 x 3) cm, dạng hình bầu dục; xung quanh có 05 vết vỡ nứt xương phụ, trong đó có 01 vết nứt xuyên qua thái dương phải đến xương nền sọ giữa và nền sọ trước bên phải;

+ Vỡ nền sọ trước bên trái;

+ Dập não, xuất huyết thùy đỉnh phải;

+ Tương ứng các vết số 03, 04, 05: Tụ máu dưới da đầu;

+ Tương ứng vết số 06: Tụ máu dưới da trán trái ít;

+ Khuyết sọ đỉnh - thái dương trái (đã phẫu thuật);

+ Dập não xuất huyết trán - thái dương trái (đã phẫu thuật);

+ Xuất huyết dưới nhện lan tỏa;

+ Phù não nặng, tụt kẹt hạnh nhân tiểu não;

+ Tràn máu các não thất.

- Dấu hiệu chính qua giám định

+ Chấn thương sọ não kín: Vỡ lún xương sọ vùng đỉnh phải, vỡ nền sọ giữa và nền sọ trước bên phải, vỡ nền sọ trước bên trái, dập não xuất huyết, phù não, chèn ép não, tụt kẹt hạnh nhân tiểu não;

+ Khuyết sọ vùng đỉnh - thái dương trái, sau mổ sọ lấy máu tụ, giải ép;

+ Do yếu tố ngoại lực tác động.

- Nguyên nhân chết: Ông Đinh Hữu A chết do phù não, dập não xuất huyết, chèn ép não, tụt kẹt hạnh nhân tiểu não gây suy hô hấp - tuần hoàn cấp, hậu quả của chấn thương sọ não kín.

* Tại Công văn số 226/PC09 ngày 15/11/2019 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Quảng Nam trả lời về cơ chế hình thành vết thương, vật gây thương tích đối với bị hại Đinh Hữu A đã xác định:

1. Cơ chế hình thành vết thương.

- Các vết thương gây tổn thương sọ não dẫn đến cái chết của ông Đinh Hữu A (sinh năm 1967): vết số 02 (đỉnh - thái dương phải) và vết số 04 (chẩm phải), đã được mô tả trong Bản kết luận giám định pháp y tử thi số 248/GĐPY- PC09 ngày 08/11/2019 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Quảng Nam.

- Cơ chế hình thành:

+ Vết số 02: Do vật tày có diện giới hạn, với lực tác động mạnh vào vùng đỉnh - thái dương phải theo hướng từ phải sang trái, chếch từ trên xuống dưới và từ sau ra trước gây vỡ lún xương đỉnh phải trên diện (5 x 3) cm và dập não xuất huyết thùy đỉnh phải;

+ Vết số 04: Đầu (chẩm phải) di động va chạm giảm tốc đột ngột với vật tày diện rộng không giới hạn gây tổn thương đối bên dập não xuất huyết vùng trán hai bên, máu tụ dưới màng cứng trán và thái dương trái.

2. Vật gây thương tích

- Vật gây ra vết số 02: Vật tày cứng có diện giới hạn, có bề mặt tiếp xúc với da đầu dạng tròn hoặc gần tròn, độ rộng tiếp xúc khoảng 03cm, bề mặt tương đối thô ráp (vật này tương ứng với hung khí mà Trần Văn C khai nhận ban đầu là đoạn tre khô);

- Vật gây ra vết số 04: Vật tày diện rộng không giới hạn, bề mặt thô ráp (vật này tương ứng với bề mặt đường nhựa khi ông A bị đánh ngã xuống đường - BL: 32).

* Ngày 03/2/2020, Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Quảng Nam nhận được Công văn số 140/CV-PC02(Đ4) ngày 03/02/2020 của Cơ quan CSĐT (PC02) Công an tỉnh Quảng Nam về việc yêu cầu giải thích chuyên môn, trong đó bị can Trần Văn C khai nhận cái chết của ông Đinh Hữu A (sinh năm: 1967, trú tại thôn P, xã Q, huyện Q1, tỉnh Quảng Nam) là do C dùng đoạn cây gỗ (cây rui thường dùng để lợp ngoái; có chiều dài khoản 50-60 cm) đứng từ xa (cách nạn nhân khoản 02 m) ném (vụt) trúng vào đầu khi ông A đang điều khiển xe máy (ông A không độ mũ bảo hiểm) làm ông A ngã xuống đường tử vong.

* Ngày 16/11/2019, Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Quảng Nam có Văn bản số 226/PC09 giải thích chuyên môn đối với nội dung trên như sau:

- Vật gây thương tích Vết số 02: Vật tày cứng có diện giới hạn, có bề mặt tiếp xúc với da đầu dạng tròn hoặc gần tròn, độ rộng tiếp xúc khoảng 03 cm, bề mặt tương đối thô ráp.

- Cơ chế hình thành Vết số 02: Do vật tày có diện giới hạn, với lực tác động mạnh vào vùng đỉnh - thái dương phải theo hướng từ phải sang trái, chếch từ trên xuống dưới và từ sau ra trước gây vỡ lún xương đỉnh phải trên diện (5x3 )cm và dập não xuất huyết thùy đỉnh phải.

- Cây rui (nếu có dạng hình hộp 04 cạnh) không phù hợp với vật gây thương tích vết số 02. Động tác ném vật tày rất khó để tạo nên vết số 02.

* Đối với bà Đoàn Thị P1: Khi Công an xã Q, huyện Q1 tiếp nhận, lấy lời khai về sự việc xảy ra giữa bà P1 với ông Đinh Hữu A đánh thì chỉ có bà P1 khai là bị ông A đánh. Còn các nhân chứng khác có mặt tại hiện trường đều khai là có nhìn thấy ông A cầm xe đạp của bà P1 vứt xuống mương nước gần đường nhựa, vì ông A nhìn thấy bà P1 có hành vi vứt xác con gà đã chết (thối) vào nhà mẹ ông A, chứ ông A không đánh bà P1. Công an viên xã Q đến hiện trường để giải quyết, lập Biên bản sự việc và kiểm tra dấu vết thân thể của bà Đoàn Thị P1 thì ghi nhận không bị thương tích gì.

Cơ quan CSĐT (PC02) Công an tỉnh Quảng Nam đã tiến hành thu thập hồ sơ Bệnh án của bà Đoàn Thị P1 tại Trung tâm Y tế huyện Q1, Bệnh viện Đa khoa Điện Bàn (nơi bà P1 điều trị) và ra Quyết định trưng cầu giám định thương tích số 123 ngày 22/9/2020 đối với thương tích của bà Đoàn Thị P1. Tại Bản giám định thương tích số 344/GĐTT.20 ngày 23/9/2020 của Trung tâm Pháp y tỉnh Quảng Nam đã kết luận về thương tích của bà Đoàn Thị P1 như sau: Tổn thương chủ yếu hiện tại còn thấy được ở bệnh nhân là tình trạng đau da và cơ; Không tổn thương xương; Không có dấu hiệu thần kinh khu trú. Tỷ lệ thương tích tại thời điểm hiện tại là: 0% (không phần trăm).

* Về trách nhiệm dân sự: Đại diện gia đình bị hại yêu cầu bồi thường, khắc phục hậu quả với tổng số tiền: 271.820.436 đồng, gia đình bị cáo Trần Văn C đã bồi thường được 52.000.000 đồng cho gia đình bị hại.

Bản Cáo trạng số 94/CT-VKS-P2 ngày 02 tháng 11 năm 2020 của Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Quảng Nam đã truy tố bị cáo Trần Văn C về tội “Giết người” theo quy định tại điểm n khoản 1 Điều 123 của Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017).

Tại Bản án hình sự sơ thẩm số 01/2021/HS-ST ngày 06/01/2021, Tòa án nhân dân tỉnh Quảng Nam đã quyết định:

Tuyên bố bị cáo Trần Văn C phạm tội “Giết người”.

Áp dụng: điểm n khoản 1 Điều 123; điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51 và điểm p khoản 1 Điều 52 của Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017)'

Xử phạt: Bị cáo Trần Văn C 19 (mười chín) năm tù; thời hạn chấp hành hình phạt tù được tính từ ngày bị bắt tạm giữ (ngày 06/11/2019).

Ngoài ra, bản án sơ thẩm còn quyết định trách nhiệm dân sự, xử lý vật chứng, án phí và quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.

Ngày 19/01/2021, bị cáo Trần Văn C kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt.

Tại phiên tòa phúc thẩm:

Bị cáo giữ nguyên nội dung kháng cáo.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Đà Nẵng phát biểu: Sau khi xét xử sơ thẩm, bị cáo không có tình tiết giảm nhẹ mới, đề nghị Hội đồng xét xử không chấp nhận kháng cáo, giữ nguyên bản án sơ thẩm.

Luật sư bào chữa cho bị cáo cho rằng bị cáo có nhiều tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm một phần hình phạt.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Tại phiên tòa phúc thẩm, bị cáo Trần Văn C khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội như nội dung của bản án sơ thẩm. Lời khai của bị cáo tại phiên toà phù hợp với lời khai trong quá trình điều tra và phù hợp với các tài liệu, chứng cứ khác đã được thu thập có trong hồ sơ vụ án. Vì vậy, đủ cơ sở kết luận: Vào chiều tối ngày 29/10/2019, sau khi đến bệnh viện thăm mẹ ruột về, nhìn thấy ông Đinh Hữu A, nhớ lại việc ông A có hành vi đánh mẹ một của mình phải nhập viện điều trị nên bị cáo bức xúc muốn trả thù. Khi nhìn thấy ông A điều khiển xe máy đi về, bị cáo nhặt một đoạn cây tre cầm tay phải và một con dao cầm tay trái để chặn đầu xe; khi xe đến gần, c cầm đoạn cây tre đánh vào vùng đầu của ông A, làm cho ông A loạng choạng tay lái rồi ngã xuống đường; sau đó được đưa đi cấp cứu và đến ngày 02/11/2019 thì ông A tử vong do chấn thương sọ não.

[2] Hành vi và hậu quả nêu trên của bị cáo Trần Văn C đã phạm vào tội “Giết người” với tình tiết định khung “Có tính chất côn đồ” quy định tại điểm n khoản 1 Điều 123 của Bộ luật Hình sự năm 2015 như bản án sơ thẩm đã qui kết là có căn cứ, đúng pháp luật.

[3] Xét kháng cáo của bị cáo, thấy rằng: Bị cáo có nhiều tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51 của Bộ luật Hình sự năm 2015 như: thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải về hành vi phạm tội; gia đình đã bồi thường cho bị hại; bị cáo có hoàn cảnh gia đình khó khăn, là lao động chính trực tiếp nuôi cha, mẹ già yếu và là người có công với đất nước. Tuy nhiên, bị cáo có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự quy định tại điểm p khoản 1 Điều 52 Bộ luật Hình sự năm 2015 là sau khi gây án đã bỏ mặc hậu quả, có hành vi nhằm che dấu tội phạm. Do đó, Tòa án cấp sơ thẩm xử phạt bị cáo 19 năm tù là tương xứng với tính chất và mức độ, hậu quả hành vi phạm tội. Sau khi xét xử sơ thẩm, bị cáo không có tình tiết giảm nhẹ mới nên không có cơ sở giảm hình phạt.

[4] Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, không bị kháng nghị có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

[5] Bị cáo phải chịu án phí hình sự phúc thẩm.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ điểm a khoản 1 Điều 355 Bộ luật Tố tụng hình sự.

Không chấp nhận kháng cáo của bị cáo Trần Văn C;

1. Giữ nguyên Bản án hình sự sơ thẩm số 01/2021/HS-ST ngày 06/01/2021 của Tòa án nhân dân tỉnh Quảng Nam.

Áp dụng điểm n khoản 1 Điều 123; điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51 và điểm p khoản 1 Điều 52 của Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017).

Xử phạt: Bị cáo Trần Văn C 19 (mười chín) năm tù về tội “Giết người”.

Thời hạn chấp hành hình phạt tù được tính từ ngày bị bắt tạm giữ (ngày 06/11/2019).

2. Án phí hình sự phúc thẩm:

Bị cáo Trần Văn C phải chịu 200.000đ.

3. Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, không bị kháng nghị có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

309
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội giết người số 336/2021/HS-PT

Số hiệu:336/2021/HS-PT
Cấp xét xử:Phúc thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân cấp cao
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 23/09/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về