Bản án về tội giết người số 32/2024/HS-PT

TÒA ÁN NHÂN DÂN CẤP CAO TẠI THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

BẢN ÁN 32/2024/HS-PT NGÀY 18/01/2024 VỀ TỘI GIẾT NGƯỜI

Ngày 18 tháng 01 năm 2024 tại trụ sở, Tòa án nhân dân cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh xét xử phúc thẩm công khai vụ án hình sự phúc thẩm thụ lý số 428/2023/TLPT-HS ngày 12 tháng 6 năm 2023 đối với bị cáo Nguyễn Tấn P do có kháng cáo của bị cáo đối với Bản án hình sự sơ thẩm số: 42/2023/HS-ST ngày 04 tháng 5 năm 2023 của Tòa án nhân dân tỉnh Bình Dương.

- Bị cáo có kháng cáo:

Nguyễn Tấn P (tên gọi khác X) sinh năm 1983 tại tỉnh Bình Dương; Nơi cư trú: Ấp T, xã T, thị xã T, tỉnh Bình Dương; Nghề nghiệp: Không; Trình độ học vấn: 8/12; Giới tính: Nam; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không; Con ông Nguyễn Văn T (đã chết) và bà Nguyễn Thị D; Bị cáo chưa có vợ con; Tiền án, tiền sự: Không; Nhân thân: Không; Bị cáo bị bắt tạm giam từ ngày 21/6/2021 (có mặt).

Người bào chữa cho bị cáo Nguyễn Tấn P theo yêu cầu:

1/Luật sư Trần Minh H - Đoàn Luật sư Thành phố H (vắng mặt);

2/Luật sư Nguyễn Mộng Đ – Đoàn Luật sư Thành phố H (có mặt).

(Ngoài ra, trong vụ án còn có 02 bị cáo và những người tham gia tố tụng khác không có kháng cáo, kháng nghị, không liên quan đến kháng cáo nên Tòa án không triệu tập)

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Trong khoảng thời gian từ tháng 02/2020 đến tháng 05/2020, Nguyễn Tấn P (tên thường gọi là X) mua ghe không số hiệu của một người (không rõ nhân thân lai lịch ở Thành phố Hồ Chí Minh) neo đậu tại khu vực gần bến đò Trạm thuộc phường B, thành phố B, tỉnh Đồng Nai. P yêu cầu anh Lê Hồng D1 đo kích thước của 02 vỏ thùng đạn hình chữ nhật (kích thước 20 x 30cm) rồi khoan cắt ván gỗ ở phần đáy của khoang mũi và khoang lái ghe bằng kích thước với thùng vỏ đạn. Sau khi D1 khoan cắt 02 lỗ xong, P lấy 02 vỏ thùng đạn gắn vào tạo thành 02 lỗ lù trên ghe, tại mỗi chốt khóa nắp thùng đạn (lỗ lù) được liên kết một sợi dây thừng dài khoảng 02 m kéo gắn lên sàn ghe. Mục đích P sử dụng ghe này để hút cát trái phép, khi bị lực lượng chức năng kiểm tra thì người trên ghe chỉ giật mạnh dây thừng liên kết với chốt thùng đạn làm chốt bật mở để nước sông tràn vào ghe, nhằm làm cho ghe chìm xuống sông tránh bị thu giữ và xử lý hành vi hút cát trái phép. Sau khi sửa chữa ghe hút cát cho P xong, D1 giao ghe cho P sử dụng và P tiếp tục neo ghe tại khu vực bến đò Trạm để tìm thuê người đi hút cát trái phép.

Đến tháng 7/2020, P biết Đinh Hoàng Anh T1 (thường gọi Tý mập) có thời gian đi hút cát nên gọi điện và gặp T1 bàn bạc về việc giao ghe hút cát cho T1 để T1 tự thuê người đi hút cát trái phép, còn tiền công và tiền xăng dầu, tiền sửa chữa ghe do P chi trả. T1 đồng ý, T1 điện thoại cho Phan Minh H1 (tên thường gọi là Ba K) và Lê Dũng K1 rồi nói K1 tìm người giữ ống hút cát. K1 điện thoại cho Hồ Thành D2 (tên thường gọi là Q) thì D2 đồng ý. Sau khi D2, H1, K1 đồng ý đi hút cát trái phép, T1 gặp bàn bạc và P đồng ý trả tiền công như sau: Khoa là người lặn dưới sông ôm đầu ống hút cát sẽ được trả 400.000 đồng (bốn trăm nghìn đồng)/ghe, D2 là người kéo dây buộc đầu ống cho thợ lặn sẽ được trả 250.000 đồng (hai trăm năm mươi nghìn đồng)/ghe, H1 là người phụ việc trên ghe sẽ được trả 150.000 đồng (một trăm năm mươi nghìn đồng)/ghe, T1 là người điều khiển ghe được trả 250.000 đồng (hai trăm năm mươi nghìn đồng)/ghe.

Sáng ngày 04/8/2020, P gọi điện thoại cho T1 và yêu cầu hôm nay sử dụng ghe của P để đi hút cát. T1 điện thoại báo cho H1, K1 và yêu cầu K1 báo cho D2 biết để tối tập trung tại khu vực bến đò Trạm đi hút cát trên sông Đ. Đến khoảng 21 giờ cùng ngày, T1, H1, K1 và D2 có mặt tại nơi neo ghe hút cát gần bến đò Trạm đợi P. Đến khoảng 23 giờ cùng ngày, P đến và nói với T1 “có gì thì giật lỗ lù”. Nghe P nói, T1 hiểu ý là khi hút cát mà có lực lượng chức năng đến kiểm tra thì giật dây buộc nắp lỗ lù trên ghe để nước tràn vào ghe qua lỗ lù làm ghe chìm xuống sông, không cho lực lượng chức năng xử lý hành vi hút cát trái phép và thu giữ ghe. Sau khi lên ghe cả nhóm chuẩn bị đi hút cát thì P yêu cầu tất cả ra về, hôm nay không đi, khi nào đi sẽ báo sau.

Đến khoảng 15 giờ 00 phút ngày 05/8/2020, P tiếp tục gọi điện thoại yêu cầu T1 đi hút cát, T1 thông báo lại với cả nhóm biết. Khoảng 21 giờ cùng ngày, T1, K1, H1 và D2 có mặt tại nơi neo ghe hút cát và đợi đến khoảng 23 giờ 00 phút để đi hút cát. Do đã từng làm công việc này nên tất cả biết việc làm của mình trên ghe hút cát. Do vậy ai làm việc của người đó, cụ thể như sau: T1 thì ngồi trên khoang hầm máy ghe ôm ống hút cát lên để điều chỉnh cát chảy vào khoang chứa; K1 chuẩn bị ống hơi, cầm đầu ống hút cát lặn xuống sông hút cát; H1 phụ trách công việc tăng cảo máy bơm hơi, phụ D2 ráp ống nhựa hút cát và làm những việc khác trên ghe; D2 ngoài việc ráp ống nhựa hút cát thì còn là người đứng ở trên khoang mũi kéo dây thừng được buộc vào đầu ống hút cát dưới sông để báo hiệu cho K1 đang lặn dưới sông biết khi có lực lượng chức năng đến kiểm tra để K1 trốn. T1 điều khiển ghe chở tất cả đi hút cát, khi cát đầy tại khoang chứa, T1 điều khiển ghe chở cát quay về khu vực gần bến đò Trạm để bơm cát qua Sà lan số hiệu ĐN - 1112 do P đã chỉ cho T1 biết trước đó. Sau khi bơm hết cát từ ghe hút cát sang S thì T1 điều khiển ghe chở D2, K1 và H1 đi hút cát tiếp. Sau khi hút cát 05 đêm được khoảng 18 ghe thì P đã trả tiền công 02 đêm đầu cho từng người hút cát như đã thỏa thuận trước đó.

Cũng như những đêm hút cát trước, khoảng 00 giờ 00 phút ngày 10/8/2020, Đinh Hoàng Anh T1 và Hồ Thành D2 cùng với Phan Minh H1, Lê Dũng K1 xuống ghe để T1 điều khiển chở đến đoạn sông thuộc ấp T, xã T, thị xã T, tỉnh Bình Dương để hút cát trái phép. Cùng thời gian này, Tổ tuần tra Công an xã Thạnh Hội gồm anh Lê Thanh H2, Phó trưởng C, anh Đỗ Ngọc Đông N, anh Nguyễn Mai T2 và anh Lê Phúc H3 đều là lực lượng dân quân thường trực của xã T đi trên xuồng máy kiểm tra xử lý việc hút cát trái phép tại khu vực đoạn sông thuộc ấp T, xã T, thị xã T, tỉnh Bình Dương.

Khi T1 điều khiển ghe đến khu vực đoạn sông thuộc ấp T, xã T, T1 dừng lại, H1 và D2 buộc dây neo ghe, K1 ôm đầu ống hút cát lặn xuống sông để hút cát. Khi hút được khoảng 35 phút, khoang chứa cát gần đầy, T1 đang ngồi trên nóc khoang hầm máy của ghe, H1 đang đứng sau lưng của T1, D2 ngồi trên khoang mũi ghe. D2 phát hiện thấy có 01 chiếc xuồng máy cách phần đuôi ghe hút cát khoảng 08m của lực lượng chức năng chạy đến, D2 chỉ tay về hướng xuồng máy báo cho T1 biết việc hút cát trái phép bị phát hiện, đồng thời D2 dùng hai tay nắm dây thừng kéo lên một đoạn khoảng 1,5 m để báo hiệu cho K1 đang lặn hút cát dưới sông biết để trốn, còn T1 xoay đầu để nhìn theo hướng của D2 chỉ thì ngay lúc này anh H2 nổ súng trấn áp. T1 biết việc hút cát bị Công an phát hiện nên T1 hô to “anh Q giật lù, anh Q giật lù”, nghe T1 kêu, D2 buông dây thừng ra và dùng tay phải nắm dây buộc nắp lỗ lù ở khoang mũi ghe giật mạnh làm nắp lỗ lù bung lên và nước tràn vào trong ghe. Sau đó, T1, H1 và D2 nhảy khỏi ghe vào bờ bỏ trốn, còn K1 đang lặn dưới sông thì nhận biết tín hiệu của D2 báo nên ngoi lên nhìn và thấy lực lựợng Công an đang truy hô nên K1 bơi vào bỏ trốn.

Khi tổ tuần tra phát hiện có ghe hút cát trái phép, anh H2 nổ súng trấn áp và cho xuồng máy chạy đến áp sát mạn ghe hút cát, anh T2 và anh H3 vừa trèo qua ghe cát thì lập tức ghe hút cát chìm xuống sông tạo nên vùng nước xoáy mạnh xung quanh vị trí ghe cát chìm làm xuồng máy của tổ tuần tra lật ngang qua phải, xuồng máy và các anh H2, N, T2 và Hậu bị nước xoáy cuốn nhấn chìm, các anh N, anh T2 và anh H3 bơi được vào bờ, còn anh H2 bị đuối nước dẫn đến tử vong.

Tại Bản kết luận giám định pháp y tử thi số 625/GĐPY ngày 14/8/2020 của Phòng K2 Công an tỉnh B kết luận:

1. Dấu hiệu chính qua giám định:

- Mũi miệng trào dịch màu hồng;

- Không bầm tụ máu dưới da, cơ vùng cổ;

- Khí quản, thực quản, sụn giáp không dập gãy;

- Lòng khí quản chứa nhiều dịch, bọt màu hồng cánh sen lẫn dị vật lợn cợn màu xám;

- Lòng thực quản có dịch lẫn dị vật lợn cợn màu xám;

- Đốt sống đoạn cổ không dập gãy, tụ máu.

2. Nguyên nhân chết của anh Lê Thanh H2 là do ngạt nước.

Tại Bản kết luận số 4614/C09B, ngày 16/9/2020 của V Bộ C1 kết luận như sau:

- Nguyên nhân ghe hút cát bị chìm là do nước tràn vào từ lỗ lù (lỗ dùng để bít, đậy đáy ghe).

- Những lỗ lù thiết kế trên ghe có tác dụng dùng để đóng/mở cho nước ra vào ghe.

- Đối với lỗ lù ở khoang mũi và khoang lái khi khóa gài lại thì sẽ không tự bung ra.

- Khi người ở vị trí cách vách mũi ghe 1,2m, cách vách lái 2m dùng 01 tay vẫn thực hiện được động tác kéo dây để bật khóa nắp lỗ lù dẫn đến nước tràn vào gây chìm ghe.

Ngày 09/6/2022, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an tỉnh B có văn bản số 1307/VP-CQCSĐT đề nghị Phân viện kỹ thuật hình sự tại Thành phố Hồ Chí Minh giải thích rõ thêm vấn đề không đủ cơ sở chứng minh ghe hút cát chìm có kéo theo xuồng máy hay không.

Văn bản số 455/CV-C09B ngày 15/6/2022 của Phân viện khoa học hình sự tại Thành phố Hồ Chí Minh trả lời như sau: Qua hồ sơ tài liệu do Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an tỉnh B cung cấp thì không đủ cơ sở kết luận khi ghe hút cát chìm có kéo theo xuồng máy hay không.

Đối với Phan Minh H1 và Lê Dũng K1 biết việc khai thác cát cùng với Nguyễn Tấn P, Đinh Hoàng Anh T1 và Hồ Thành D2 là trái phép nhưng chưa đến mức xử lý hình sự nên Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an tỉnh B ra quyết định xử phạt vi phạm hành chính theo quy định.

Đối với Sà lan có số hiệu ĐN - 1112 Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an tỉnh B tiếp tục xác minh, điều tra và xử lý theo quy định.

Tại bản án hình sự sơ thẩm số 42/2023/HS-ST ngày 04 tháng 5 năm 2023 Tòa án nhân dân tỉnh Bình Dương đã quyết định:

Tuyên bố bị cáo Nguyễn Tấn P (X) phạm tội “Giết người”.

Áp dụng điểm d khoản 1 Điều 123, Điều 58 của Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017), xử phạt bị cáo Nguyễn Tấn P 14 (mười bốn) năm tù, thời hạn tù tính từ ngày 21/6/2021.

Ngoài ra, bản án sơ thẩm còn tuyên về tội danh và hình phạt đối với 02 bị cáo Đinh Hoàng Anh T1 (T), Hồ Thành D2 (Q); Trách nhiệm dân sự; Xử lý vật chứng, án phí và quyền kháng cáo theo quy định pháp luật.

Sau khi xét xử sơ thẩm, ngày 18/5/2023 bị cáo Nguyễn Tấn P có đơn kháng cáo với nội dung: Kháng cáo một phần Bản án hình sự sơ thẩm số 42/2023/HS-ST ngày 04/5/2023 về phần hình phạt theo hướng đề nghị được giảm nhẹ hình phạt.

Tại phiên tòa phúc thẩm, bị cáo Nguyễn Tấn P vẫn giữ kháng cáo, đề nghị Hội đồng xét xử xem xét lại tội danh mà Tòa án cấp sơ thẩm đã tuyên xử đối với bị cáo.

Trong phần tranh luận:

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh tham gia phiên tòa phát biểu quan điểm giải quyết vụ án:

Quá trình điều tra truy tố xét xử bị cáo không thừa nhận hành vi phạm tội, bản thân các bị cáo nhận thức được việc khai thác cát trái phép là vi phạm pháp luật nhưng vẫn thực hiện. Trong vụ án này bị cáo P là người thuê các bị cáo còn lại khai thác cát, thuê người làm 2 lỗ lù trên ghe,.. nhưng bị cáo P không có mặt tại lúc diễn ra sự việc, không bàn bạc với các bị cáo khác, không biết trước được sự việc khi nào giật lỗ lù.

Khoảng cách giữa ghe của bị cáo và ghe của bị hại là 7-8m nên đội tuần tra tiếp cận được ghe các bị cáo, tạo ra vùng xoáy làm ghe của tổ tuần tra bị lật và bị hạị H2 tử vong do đuối nước. Xét, việc ghe tổ tuần tra bị lật còn do nguyên nhân các thành viên tổ tuần tra bám vào ghe, mặt khác việc tuần tra không thực hiện đúng quy định về bảo hộ khi thực hiện nhiệm vụ, kết luận điều tra bổ sung xác định không đủ cơ sở chứng minh ghe hút cát chìm kéo theo xuồng máy, thực tế ghe các bị cáo có độ dài 12m, có độ sâu 8m, khi chìm có 1 đầu cắm xuống đáy sông, nên chưa đủ cơ sở xác định đủ xoáy nước để gây chìm ghe, cơ quan điều tra chưa thực nghiệm hiện trường, bị hại tử vong là nằm ngoài ý chí của các bị cáo, thời điểm xảy ra vụ án thì bị cáo P không có mặt tại hiện trường.

Hành vi của các bị cáo là nguy hiểm cho xã hội đủ yếu tố cấu thành tội phạm theo quy định của Bộ luật hình sự, nhưng tội danh “Giết người” mà Tòa án cấp sơ thẩm xử các bị cáo là chưa đảm bảo, ngoài ra hành vi lái ghe chưa có giấy phép của Đỗ Ngọc Đông N cũng chưa được làm rõ. Những sai sót này Tòa án cấp phúc thẩm không khắc phục được, nên đề nghị hủy bản án sơ thẩm, chuyển hồ sơ vụ án cho cơ quan tiến hành tố tụng cấp sơ thẩm điều tra xét xử lại vụ án.

Người bào chữa cho bị cáo (luật sư Nguyễn Mộng Đ) phát biểu: Đồng tình quan điểm của đại diện Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh nêu tại phiên tòa.

Bị cáo không ý thức được việc giật lỗ lù gây hậu quả chết người thể hiện lời khai của các bị cáo khác. Tội “Giết người” do lỗi cố ý là việc bị cáo nhận thức hậu quả và bỏ mặc hành vi, nhưng các bị cáo không có ý thức giết người. Mục đích bị cáo thuê người làm lỗ lù trên ghe là chỉ để bảo quản phương tiện. Mặt khác kết luận của cơ quan chuyên môn là Phân viện khoa học hình sự xác định không đủ cơ sở xác định việc giật lỗ lù có thể gây chìm ghe hay không. Thực tế cơ quan điều tra chỉ khám nghiệm phương tiện, không khám nghiệm hiện trường. Phương tiện mà tổ tuần tra sử dụng là phương tiện cá nhân, không đảm bảo an toàn Đề nghị Hội đồng xét xử hủy bản án sơ thẩm, trả hồ sơ để điều tra về tội danh khác không phải là tội phạm “Giết người” đối với bị cáo.

Người bào chữa cho bị cáo (luật sư Trần Minh H nêu tại phiên tòa phúc thẩm ngày 07/11/2023) phát biểu: Trong vụ án này mặc dù có 2 bị cáo Đinh Hoàng Anh T1 và Hồ Thành D2 không kháng cáo, nhưng các bị cáo đều kêu oan từ đầu. Người bào chữa đồng ý với quan điểm của đại diện Viện kiểm sát về việc trả hồ sơ điều tra bổ sung. Vì cần phải làm rõ bị hại rơi xuống nước trước hay sau khi giật lỗ lù, làm rõ xuồng máy của bị hại bị lật trước hay sau ghe các bị cáo; Kết luận giám định của Phân viện khoa học hình sự là chứng cứ quan trọng, đã ghi rất rõ không đủ cơ sở chứng minh ghe hút cát làm chìm xuồng máy, nội dung kết luận điều tra mâu thuẫn với kết luận giám định. Cơ quan tiến hành tố tụng sơ thẩm xét xử bị cáo tội “Giết người” nhưng không làm rõ mục đích giật lỗ lù để làm gì. Các bị cáo đều khai sau khi bơi qua sông thì 30 phút sau mới nghe tiếng ghe chìm, tại cấp sơ thẩm người bào chữa đã yêu cầu thực nghiệm điều tra nhưng cơ quan điều tra trả lời việc thực nghiệm điều tra không được do nguy hiểm là không đúng, vì có thể thực hiện thực nghiệm điều tra bằng nhiều hình thức.

Bị cáo P không phải là người trực tiếp chỉ đạo trong ngày diễn ra sự việc. Ngoài ra cũng cần xem xét lời khai của những người dân phòng, thể hiện trong lời khai của những người đi cùng bị hại H2. Chủ phương tiện (ghe của tổ tuần tra) đã có lời khai trước khi đưa tổ tuần tra sử dụng đã có cảnh báo về sự không đảm bảo an toàn của phương tiện, tổ tuần tra không đảm bảo quy định về an toàn khi tuần tra. Đề nghị Hội đồng xét xử hủy bản án sơ thẩm để điều tra lại vụ án.

Căn cứ vào các chứng cứ và tài liệu đã được thẩm tra tại phiên tòa, kết quả tranh luận tại phiên tòa, trên cơ sở xem xét đầy đủ, toàn diện chứng cứ, ý kiến của Kiểm sát viên, bị cáo và những người tham gia tố tụng khác,

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

[1] Đơn kháng cáo của bị cáo Nguyễn Tấn P (X) làm trong hạn luật định nên hợp lệ.

[2] Xuất phát từ lợi ích cá nhân và nhận thức được nguồn lợi khi khai thác cát trái phép trên sông Đ, Nguyễn Tấn P đã tìm mua ghe cũ, không số hiệu về thuê người khác sửa chữa lại và tự mình thiết kế lỗ thông nước ở đáy khoang mũi, khoang lái ghe để gắn 02 vỏ thùng đạn hình chữ nhật vào tạo thành 02 lỗ lù thông nước trên ghe, với mục đích giao ghe và thuê người thực hiện việc hút cát trái phép, khi bị phát hiện thì giật nắp lỗ lù để nước tràn vào trong gây chìm ghe, nhằm không để lực lượng chức năng kiểm tra xử lý hành vi vi phạm và thu giữ, tịch thu ghe hút cát trái phép.

Khoảng 00 giờ ngày 10/8/2020, Đinh Hoàng Anh T1, Hồ Thành D2, Phan Minh H1, Lê Dũng K1 nhận và xuống ghe của Nguyễn Tấn P đang neo đậu ở khu vực gần bến đò Trạm thuộc địa phận tỉnh Đồng Nai. Đinh Hoàng Anh T1 điều khiển ghe đến khu vực đoạn sông thuộc ấp T, xã T, thị xã T, tỉnh Bình Dương để hút cát. Đến nơi, Đinh Hoàng Anh T1 cho ghe dừng lại, H1, D2 buộc dây neo ghe, K1 ôm đầu ống hút cát lặn xuống sông để hút cát; khi hút được khoảng 35 phút, khoang chứa cát gần đầy, lúc này tổ tuần tra Công an xã Thạnh Hội gồm các ông Lê Thanh H2 (Phó trưởng Công an xã làm tổ trưởng), ông Đỗ Ngọc Đông N, Nguyễn Mai T2 và Lê Phúc H3 (là lực lượng dân quân thường trực của xã T) đi trên xuồng máy chạy đến gần ghe nổ súng trấn áp để kiểm tra. D2 báo cho T1 biết đồng thời D2 dùng hai tay nắm kéo dây thừng lên một đoạn khoảng 1,5m để báo hiệu cho K1 đang lặn hút cát dưới đáy sông biết để trốn; T1 vừa xoay đầu để nhìn theo hướng D2 chỉ và nghe tiếng súng nổ từ phía sau phần đuôi ghe nên hô to “anh Q giật lù, anh Q giật lù”, D2 dùng tay phải nắm dây buộc lỗ lù ở khoang mũi ghe hút cát kéo cho nắp lỗ lù bung lên làm nước tràn vào ghe, T1, H1 và D2 nhảy khỏi ghe hút cát lên bờ bỏ trốn. Sau khi ông H2 nổ súng trấn áp thì xuồng máy chạy đến áp sát mạn ghe hút cát, ông T2 và ông H3 vừa trèo qua ghe cát thì lập tức ghe hút cát chìm xuống sông, tạo nên vùng nước xoáy mạnh xung quanh vị trí ghe cát chìm, làm xuồng máy của Tổ tuần tra lật ngang qua phải; xuồng máy và các ông H2, N, T2 và Hậu bị nước xoáy cuốn chìm xuống sông; các ông N, T2 và H3 bơi được vào bờ, còn ông H2 bị đuối nước dẫn đến tử vong do ngạt nước.

Với hành vi như đã nêu trên, Tòa án cấp sơ thẩm đã tuyên bố các bị cáo Nguyễn Tấn P, Đinh Hoàng Anh T1, Hồ Thành D2 phạm tội “Giết người” theo quy định tại khoản 1 Điều 123 Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017.

[3] Xét kháng cáo của bị cáo Nguyễn Tấn P:

Quá trình điều tra giải quyết vụ án tại cấp sơ thẩm, bị cáo không thừa nhận toàn bộ hành vi phạm tội như Bản kết luận điều tra của Cơ quan cảnh sát điều tra, Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Bình Dương, tuy nhiên căn cứ vào lời khai của các bị cáo Đinh Hoàng Anh T1, Hồ Thành D2; Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án là các ông Phan Minh H1 và Lê Dũng K1; Người trực tiếp nhận làm lỗ lù trên ghe hút cát trong vụ án theo yêu cầu của Nguyễn Tấn P cùng các chứng cứ khác thu thập được có trong hồ sơ vụ án có căn cứ để xác định bị cáo P là người khởi xướng, cung cấp phương tiện và chỉ đạo cho bị cáo T1 và những người tham gia hút cát trái phép thực hiện hành vi giật lỗ lù, bất chấp hậu quả xảy ra để tránh sự tuần tra, kiểm soát của lực lượng chức năng khi bị phát hiện. Các bị cáo biết rõ việc giật nắp lỗ lù để nước trào vào gây chìm ghe nhằm gây khó khăn và cản trở công tác kiểm tra của các cơ quan chức năng trong khi thi hành công vụ. Các bị cáo phải biết việc giật lỗ lù sẽ tạo thành dòng xoáy nước rất mạnh, hút theo các vật thể ở xung quanh và có thể dẫn đến chết người, nhưng các bị cáo vẫn thực hiện dẫn đến hậu quả ông Nguyễn Thanh H4 đã bị chìm theo ghe và tử vong. Do đó, Tòa án cấp sơ thẩm xác định hành vi của các bị cáo là đủ yếu tố cấu thành tội “Giết người” theo quy định tại khoản 1 Điều 123 Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017 là có căn cứ.

Hành vi phạm tội của các bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, gây bức xúc trong nhân dân, cần phải xử lý nghiêm khắc. Khi quyết định hình phạt, Tòa án cấp sơ thẩm đã đánh giá vai trò mức độ tham gia của từng bị cáo, các tình tiết tăng nặng giảm nhẹ trách nhiệm hình sự cho các bị cáo. Đối với bị cáo P: Mặc dù thời điểm xảy ra vụ việc thì P không có mặt tại ghe hút cát, nhưng bị cáo là người khởi xướng, cung cấp phương tiện, trả và chỉ đạo bị cáo T1 giật lỗ lù khi bị lực lượng chức năng phát hiện, bị cáo P biết rõ việc giật lỗ lù trên ghe có cát sẽ tạo nên dòng xoáy có thể dẫn đến chết người khi việc giật lỗ lù có người ở trên ghe và ở vùng lân cận đây là lỗi cố ý gián tiếp dẫn đến bị hại H4 tử vong, nên bị cáo P phải chịu trách nhiệm cao hơn các bị cáo khác trong vụ án. Bị cáo phạm tội không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự, quá trình giải quyết vụ án bị cáo không thừa nhận hành vi phạm tội nên không có tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự. Từ đó, Tòa án cấp sơ thẩm đã xử phạt bị cáo mức án 14 năm tù là có căn cứ, tương xứng với tính chất mức độ hành vi phạm tội của bị cáo.

Tại phiên tòa phúc thẩm, bị cáo có kháng cáo nhưng không có tình tiết nào mới so với cấp sơ thẩm, nên Hội đồng xét xử không có cơ sở để xem xét. Những nội dung mà người bào chữa cho bị cáo nêu ra đã được Cơ quan tiến hành tố tụng cấp sơ thẩm đã nhận định làm rõ. Do đó, Hội đồng xét xử không có căn cứ để chấp nhận yêu cầu kháng cáo của bị cáo. Ngoài ra, Hội đồng xét xử phúc thẩm nhận định thêm: Đối với Lê Dũng K1 và Phan Minh H1: Khoa và H1 cùng trực tiếp tham gia hút cát với T1 và D2. K1 làm nhiệm vụ lặn dưới sông ôm đầu ống hút cát, H1 là người phụ việc trên ghe. Khi T1 biết việc hút cát bị Công an phát hiện nên T1 hô to “anh Q giật lù, anh Q giật lù”, nghe T1 kêu, D2 buông dây thừng ra và dùng tay phải nắm dây buộc nắp lỗ lù ở khoang mũi ghe giật mạnh làm nắp lỗ lù bung lên và nước tràn vào trong ghe. Sau đó, T1, H1 và D2 nhảy khỏi ghe vào bờ bỏ trốn, còn K1 đang lặn dưới sông thì nhận biết tín hiệu của D2 báo nên ngoi lên nhìn và thấy lực lựợng Công an đang truy hô nên K1 bơi vào bỏ trốn. Hành vi của K1 và H1 là có dấu hiệu đồng phạm với các bị cáo còn lại, nên kiến nghị cơ quan có thẩm quyền điều tra làm rõ hành của K1 và H1.

[4] Từ những nhận định trên, Hội đồng xét xử không chấp nhận quan điểm của đại diện Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh tham gia phiên tòa, không chấp nhận yêu cầu kháng cáo của bị cáo, giữ nguyên bản án sơ thẩm.

[5] Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

[6] Án phí hình sự phúc thẩm: Do kháng cáo không được chấp nhận nên bị cáo phải chịu.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ điểm a khoản 1 Điều 355, Điều 356 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015,

Không chấp nhận yêu cầu kháng cáo của bị cáo Nguyễn Tấn P (X); Giữ nguyên bản án hình sự sơ thẩm số 42/2023/HS-ST ngày 04/5/2023 của Tòa án nhân dân tỉnh Bình Dương;

1. Tuyên bố bị cáo Nguyễn Tấn P (X) phạm tội “Giết người”.

Áp dụng điểm d khoản 1 Điều 123, khoản 2 Điều 51, Điều 58 của Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017), xử phạt bị cáo Nguyễn Tấn P 14 (mười bốn) năm tù, thời hạn tù tính từ ngày 21/6/2021. Tiếp tục tạm giam bị cáo 45 ngày để đảm bảo thi hành án.

2. Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

3. Án phí hình sự phúc thẩm: Bị cáo Nguyễn Tấn P phải chịu 200.000 đồng.

Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

322
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội giết người số 32/2024/HS-PT

Số hiệu:32/2024/HS-PT
Cấp xét xử:Phúc thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân cấp cao
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành:18/01/2024
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về