TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
BẢN ÁN 320/2020/HSST NGÀY 14/08/2020 VỀ TỘI GIẾT NGƯỜI
Ngày 14 tháng 8 năm 2020 tại trụ sở Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số 384/2020/TLST-HS ngày 06 tháng 7 năm 2020 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 3843/2020/QĐXXST-HS ngày 30 tháng 7 năm 2020 đối với bị cáo:
Đoàn Thị Bé Q, sinh năm 2000 tại An Giang; Giới tính: nữ; Nơi đăng ký thường trú: ấp Kiến Thuận 2, xã Kiến Thành, huyện C, tỉnh An Giang; Chỗ ở: 1041/62/119/19A5 Trần Xuân Soạn, phường Tân Hưng, Quận 7, Thành phố Hồ Chí Minh dân tộc: kinh; quốc tịch: Việt Nam; tôn giáo: không; nghề nghiệp: làm thuê; trình độ học vấn: không đi học; Cha: Đoàn Văn H, mẹ: Lê Ngọc S; chưa có chồng con; tiền án, tiền sự: không Bị cáo bị bắt, tạm giam từ: 21/10/2019 (có mặt)
Người bào chữa cho bị cáo:
Ông Lê Minh Q và bà Lê Thị Công D, là luật sư Văn phòng luật sư Quang L, thuộc Đoàn luật sư Thành phố Hồ Chí Minh bào chữa cho bị cáo Đoàn Thị Bé Q (Có mặt)
Bị hại:
Ông Diệp Thanh S, sinh năm 1994 (đã chết) Hộ khẩu thường trú: ấp Tâm Thọ, xã Đại Tâm, huyện M, tỉnh Sóc Trăng Đại diện hợp pháp của bị hại gồm:
1/ Ông Diệp Đ, sinh năm 1968 (cha) Thường trú: xã Đại Tâm, huyện M, tỉnh Sóc Trăng (vắng mặt) 2/ Bà Lý Thị L, sinh năm 1972 (mẹ) Thường trú: xã Đại Tâm, huyện Mỹ X, tỉnh Sóc Trăng (vắng mặt)
NỘI DUNG VỤ ÁN
Các bị cáo bị Viện kiểm sát nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh truy tố về hành vi phạm tội như sau:
Đoàn Thị Bé Q và anh Diệp Thanh S sống chung với nhau (không có đăng ký kết hôn) tại nhà trọ địa chỉ số 1041/62/119/19A5 Trần Xuân Soạn, khu phố 5, phường Tân Hưng, Quận 7, Thành phố Hồ Chí Minh. Khoảng 02 giờ ngày 20/10/2019, anh Diệp Thanh S sau khi uống rượu về phòng trọ thì giữa anh Diệp Thanh S và Đoàn Thị Bé Q cãi nhau, Đoàn Thị Bé Q dùng tay phải tát vào mặt của anh Diệp Thanh S một cái; anh Diệp Thanh S dùng tô nhựa đựng cơm đang cầm trên tay đánh vào đầu của Đoàn Thị Bé Q; Đoàn Thị Bé Q chạy đến chỗ để dao, kéo lấy 01 con dao cán màu đen, dài khoảng 29 cm, đứng đối diện đâm một nhát trúng vào vùng cổ bên trái của anh Diệp Thanh S làm máu chảy phun ra nền nhà. Anh Diệp Thanh S lấy 01 cái mền lau vết thương, rồi đi ra khỏi phòng trọ.
Đến 05 giờ ngày 20/10/2019, thì những người ở cùng dãy trọ phát hiện anh Diệp Thanh S đã chết ở bãi đất trống trước dãy phòng trọ nên báo Công an phường Tân Hưng, Quận 7.
Qua truy xét, đến ngày 21/10/2019, Đoàn Thị Bé Q bị Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an Quận 7 ra lệnh bắt người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp.
Tại Cơ quan điều tra, Đoàn Thị Bé Q đã thừa nhận hành vi phạm tội như đã nêu trên và khai: do bực tức anh Sang đi uống rượu về khuya và còn đánh Đoàn Thị Bé Q, nên Đoàn Thị Bé Q dùng dao đâm vào cổ anh Diệp Thanh S làm máu chảy phun ra nền nhà. Anh Diệp Thanh S lấy 01 cái mền lau vết thương, rồi đi ra khỏi phòng trọ, Đoàn Thị Bé Q mang dao đi rửa và lau dọn phòng. Sau đó, Đoàn Thị Bé Q đi ra ngoài thì thấy anh Diệp Thanh S đã chết, nên Đoàn Thị Bé Q lấy xe máy đi đến nhà của bà Lê Kim L (dì của Quyền) tại quận Tân Phú. Tại đây, Đoàn Thị Bé Q nói cho ông Hùng, bà L biết hai vợ chồng cãi nhau nên Đoàn Thị Bé Q bỏ đi (bút lục 118-127).
Tại Bản Kết luận giám định pháp y về tử thi số 1702-19/KLGĐ-PY ngày 20/11/2019 của Phòng kỹ Ihuật hình sự Công an Thành phố Hồ Chí Minh kết luận:
Nguyên nhân chết: Diệp Thanh S chết do mất máu không hồi phục do vết thương đâm đứt tĩnh mạch cảnh trước và thủng phối trái.
- Trong máu tìm thấy cồn, nồng độ 183mg/100ml.
- Trong máu không tìm thấy ma túy - Trong máu, nước tiểu, chất chứa trong dạ dày và gan tìm thấy Diazepam. Nồng độ Diazepam trong máu: 0,003 mg/L.
- Máu của Diệp Thanh S thuộc nhóm máu O (bút lục 86-87).
Tại Bản kết luận giám định pháp y tử thi bổ sung số 0392-20/KLGBS-PY ngày 17/3/2020 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an Thành phố Hồ Chí Minh kết luận:
“… Thương tích ở vùng cổ của nạn nhân do vật sắc nhọn gây ra theo cơ chế đâm. Vết thương có chiều hướng hướng từ sau ra trước, từ trên xuống dưới, từ trái sang phải. Đây là vết thương gây ra cái chết của nạn nhân.
Căn cứ vào cơ chế hình thành dấu vết thương tích trên cơ thể nạn nhân và các mô tả về hung khí và tư thế gây án thì: Con dao được mô tả trong kết luận giám định sinh vật số 369/KLGĐ-SV của Phòng kỹ thuật hình sự Công an Thành phố Hồ Chí Minh và tư thế đâm Diệp Thanh S của Đoàn Thị Bé Q theo lời khai có thể gây nên vết thương vùng cổ của nạn nhân” (bút lục 92).
Về trách nhiệm dân sự:
Bà Lê Ngọc D (mẹ của bị can Đoàn Thị Bé Q) đã bồi thường cho gia đình Diệp Thanh S 8.000.000 đồng. Ông Diệp Đ là cha cho nạn nhân Diệp Thanh S (đại diện theo pháp luật) yêu cầu bị cáo Quyền bồi thường chi phí tiền mai táng 50.000.000 đồng nhưng Đoàn Thị Bé Q chưa bồi thường (bút lục 105-106).
Tại phiên tòa, bị cáo đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình, đồng ý bồi thường theo yêu cầu của đại diện hợp pháp bị hại và đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ trách nhiệm hình sự.
Đại diện Viện kiểm sát nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh giữ nguyên quan điểm truy tố bị cáo như bản cáo trạng đã nêu. Sau khi tóm tắt nội dung, phân tích tính chất của vụ án, nêu lên những tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ đã đề nghị Hội đồng xét xử:
Xử phạt bị cáo Đoàn Thị Bé Q mức hình phạt từ 18 đến 20 năm tù về tội “Giết người” theo điểm n khoản 1 Điều 123 Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017;
Đề nghị Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh xử lý vật chứng theo quy định pháp luật.
Luật sư bào chữa: thống nhất với Viện kiểm sát nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh về tội danh và khung hình phạt, chỉ trình bày các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: bị cáo có hoàn cảnh gia đình khó khăn, bản thân bị cáo là người ít học nên khả năng nhận thức pháp luật kém; bị cáo có sự tác động gia đình bồi thường một phần thiệt hại cho gia đình bị hại số tiền 8.000.000 đồng; Hành vi của bị cáo là nhất thời do bị hai nhiều lần say rượu về đánh bị cáo. Bị cáo trong quá trình điều tra đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải về hành vi phạm tội của mình. Do đó, đề nghị Hội đồng Hội đồng xét xử áp dụng mức hình phạt thấp hơn mức hình phạt Viện kiểm sát đã đề nghị đối với bị cáo.
Đại diện viện kiểm sát giữ nguyên quan điểm luận tội.
Căn cứ vào các chứng cứ và tài liệu đã được thẩm tra tại phiên tòa; Căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa, trên cơ sở xem xét đầy đủ, toàn diện chứng cứ, ý kiến của Kiểm sát viên, bị cáo, luật sư.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1] Trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an Thành phố Hồ Chí Minh, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh, Kiểm sát viên đã thực hiện đúng thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự; quá trình điều tra và tại phiên tòa đã thực đúng quyền, nghĩa vụ theo quy định của pháp luật. Bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do vậy, các hành vi, các quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng là hợp pháp.
[2] Căn cứ lời khai của bị cáo, vật chứng thu giữ tại hiện trường, các chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án có cơ sở để xác định:
Vào khoảng 02 giờ ngày 20/10/2019 tại số nhà số 1041/62/119/19A5 Trần Xuân Soạn, Khu phố 5, phường Tân Hưng, Quận 7, Thành phố Hồ Chí Minh, do mâu thuẫn việc Diệp Thanh S uống rượu về khuya nên anh Diệp Thanh S và Đoàn Thị Bé Q cãi nhau và đánh nhau, Đoàn Thị Bé Q đã dùng dao đâm vào vùng cổ của anh Diệp Thanh S làm anh Diệp Thanh S tử vong. Hành vi của bị cáo Đoàn Thị Bé Q đã tước đoạt mạng sống của người khác một cách trái pháp luật nên đã phạm tội “Giết người” theo Điều 123 Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017.
Xét vì mâu thuẫn nhỏ nhặt trong cuộc sống, bị cáo dùng dao đâm vào cổ của anh Diệp Thanh S, tước đoạt mạng sống của anh Diệp Thanh S một cách trái pháp luật, sau khi đâm bị hại bị cáo cũng không đưa bị hại đi cấp cứu, cho thấy tính côn đồ của bị cáo. Do đó, bị cáo đã phạm tội thuộc trường hợp “Có tính chất côn đồ” nên Hội đồng xét xử áp dụng điểm n khoản 1 Điều 123 Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017 để xét xử bị cáo.
[3] Hành vi của các bị cáo là đặc biệt nguy hiểm cho xã hội, đã xâm phạm đến tính mạng của người khác một cách trái pháp luật cho thấy ý thức xem thường pháp luật, do đó cần xử lý nghiêm mới có tác dụng răn đe và phòng ngừa chung cho toàn xã hội.
Bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự.
Tình tiết giảm nhẹ: Bị cáo có thái độ thành khẩn khai báo, hối cải về hành vi phạm tội của mình; đồng thời, bị cáo đã tác động gia đình bồi thường một phần thiệt hại cho đại diện hợp pháp của bị hại nên Hội đồng xét xử áp dụng điểm s, b khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017 để giảm nhẹ một phần hình phạt đối với bị cáo.
[3] Về trách nhiệm dân sự:
Đại diện hợp pháp của bị hại yêu cầu bị cáo bồi thường số tiền chi phí mai táng là 50.000.000 đồng, bị cáo đồng ý bồi thường cho gia đình bị hại. Xét, đây là thỏa thuận dân sự tự nguyện nên Hội đồng xét xử ghi nhận.
[4] Về xử lý vật chứng:
- 01 áo sơ mi dài tay, sọc trắng xanh; 01 khăn màu hồng có dính vết dơ nghi máu; 01 áo sơ mi dài tay màu trắng, sọc đen có dính vết dơ nghi máu; 01cái chăn màu nâu đỏ có họa tiết trắng nâu dính vết dơ nghi máu; 01 con dao dài khoảng 29 cm, cán nhựa dài khoảng 12 cm, rộng khoảng 04 cm; 01 con dao bằng kim loại màu đen dài khoảng 33cm; 01 con dao bằng kim loại màu trắng dài khoảng 29 cm; 01 áo thu ngắn tay màu đen; 01 quần short Jean màu xanh; 01 cây kéo bằng kim loại màu đen dài khoảng 20 cm; 01 cây kéo cán xanh dài khoảng 20 cm; 01 cây kéo cán vàng dài khoảng 18 cm; 09 gạc y tế thu mẫu máu tại hiện trường; 01 thẻ ra vào công trình tên Diệp Thanh S; 01 thẻ ra vào công trình tên Đoàn Thị Bé Q là những vật chứng không có giá trị sử dụng nên tịch thu,tiêu hủy
- Các chiếc điện thoại: 01 điện thoại hiệu Nokia màu trắng đen, đã cũ (Imei:…18728); 01 điện thoại hiệu Nokia màu xanh lá cây, đã cũ (RM-1011); 01 điện thoại hiệu Nokia màu xám trắng, đã cũ (thực nhận màu xám đem, số imei:…3184/7); 01 điện thoại hiệu Itel màu đen, đã cũ (số imei:…84165), - 01 chứng minh nhân dân ghi tên Diệp Thanh S không có giá trị sử dụng nên tịch thu, tiêu hủy - 01 xe hai bánh gắn máy; nhãn hiệu: Không xác định; số loại: không xác đinh; biển số 67L 1-098.62, số khung: RNR WCH 1UMB 1132 436 (số mờ, rỉ sét) ; số máy: RNR HA 152 FMH 132436 (số mờ, rỉ sét) (không gương, bao sên, dàn nhựa rớt bể, biển số số gãy rời, xe cũ rỉ sét, máy móc bên trong không kiểm tra), Đoàn Thị Bé Q khai xe máy trên do anh Diệp Thanh S đưa tiền cho Đoàn Thị Bé Q mua. Qua xác minh xe máy biển số 67L1-098.62 do anh Trần Ngọc T đứng tên đăng ký. Vào tháng 6/2019, anh Trần Ngọc T đã bán lại cho Đoàn Thị Bé Q nhưng chưa làm thủ tục sang tên. Xét thấy chiếc xe này của Đoàn Thị Bé Q là chủ sở hữu nên trả lại cho bị cáo nhưng giao cho Cục Thi hành án dân sự Thành phố Hồ Chí Minh tiếp tục tạm giữ để đảm bảo thi hành án về phần bồi thường thiệt hại.
Ngoài ra, bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm và án phí dân sự theo quy định pháp luật.
Vì các lẽ trên;
QUYẾT ĐỊNH
1. Căn cứ khoản điểm n khoản 1 Điều 123; điểm b, s khoản 1 Điều 51, Điều 38 Bộ luật Hình sự năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017;
Xử phạt bị cáo Đoàn Thị Bé Q: 16 (mười sáu) năm tù về tội “Giết người”. Thời hạn tù tính từ ngày 21/10/2019.
2. Phần dân sự:
Căn cứ khoản 1 Điều 584; 591 Bộ luật Dân sự năm 2015;
Ghi nhận sự thỏa thuận của các đượng sự, buộc bị cáo phải bồi thường cho đại diện hợp pháp của bị hại là ông Diệp Đ và bà Lý Thị L số tiền: 50.000.000 (năm mươi triệu) đồng.
Kể từ ngày bản án có hiệu lực pháp luật và người được thi hành án có đơn yêu cầu thi hành án, nếu c á c bị cáo chưa thanh toán đủ số tiền bồi thường, thì hàng tháng bị cáo còn phải chịu thêm khoản tiền lãi theo quy định tại Điều 468 Bộ luật dân sự 2015 tương ứng với số tiền và thời gian chậm thi hành án.
Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7, 7a, 7b và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.
3. Xử lý vật chứng: (theo biên bản giao nhận tang tài vật số NK2020/339 ngày 01/7/2020 của Cục Thi hành án dân sự Thành phố Hồ Chí Minh)
- Căn cứ Điều 48 Bộ luật Hình sự năm 2015; Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự 2015;
* Tịch thu tiêu hủy:
- 01 áo sơ mi dài tay, sọc trắng xanh; 01 khăn màu hồng có dính vết dơ nghi máu; 01 áo sơ mi dài tay màu trắng, sọc đen có dính vết dơ nghi máu; 01cái chăn màu nâu đỏ có họa tiết trắng nâu dính vết dơ nghi máu; 01 con dao dài khoảng 29 cm, cán nhựa dài khoảng 12 cm, rộng khoảng 04 cm; 01 con dao bằng kim loại màu đen dài khoảng 33cm; 01 con dao bằng kim loại màu trắng dài khoảng 29 cm; 01 áo thu ngắn tay màu đen; 01 quần short Jean màu xanh; 01 cây kéo bằng kim loại màu đen dài khoảng 20 cm; 01 cây kéo cán xanh dài khoảng 20 cm; 01 cây kéo cán vàng dài khoảng 18 cm; 09 gạc y tế thu mẫu máu tại hiện trường; 01 thẻ ra vào công trình tên Diệp Thanh S; 01 thẻ ra vào công trình tên Đoàn Thị Bé Q là những vật chứng không có giá trị sử dụng nên tịch thu,tiêu hủy
* Trả lại cho Đoàn Thị Bé Q:
- 01 điện thoại hiệu Nokia màu trắng đen, đã cũ (Imei:…18728); 01 điện thoại hiệu Nokia màu xanh lá cây, đã cũ (RM-1011); 01 điện thoại hiệu Nokia màu xám trắng, đã cũ (thực nhận màu xám đem, số imei:…3184/7); 01 điện thoại hiệu Itel màu đen, đã cũ (số imei:…84165), - 01 xe hai bánh gắn máy; nhãn hiệu: Không xác định; số loại: không xác định; biển số 67L 1-098.62, số khung: RNR WCH 1UMB 1132 436 (số mờ, rỉ sét) ; số máy: RNR HA 152 FMH 132436 (số mờ, rỉ sét) (không gương, bao sên, dàn nhựa rớt bể, biển số số gãy rời, xe cũ rỉ sét, máy móc bên trong không kiểm tra), nhưng giao cho Cục Thi hành án dân sự Thành phố Hồ Chí Minh tiếp tục tạm giữ để đảm bảo thi hành án về phần bồi thường thiệt hại.
4. Áp dụng Luật phí và lệ phí năm 2015 và Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016;
Buộc bị cáo phải nộp 200.000 (Hai trăm ngàn) đồng án phí hình sự sơ thẩm và 2.500.000 (hai triệu năm trăm ngàn đồng) án phí dân sự sơ thẩm.
Bị cáo có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án; đại diện hợp pháp của bị hại vắng mặt có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết
Bản án về tội giết người số 320/2020/HSST
Số hiệu: | 320/2020/HSST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Hồ Chí Minh |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 14/08/2020 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về