TÒA ÁN NHÂN DÂN CẤP CAO TẠI THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
BẢN ÁN 314/2022/HS-PT NGÀY 16/05/2022 VỀ TỘI GIẾT NGƯỜI
Ngày 16 tháng 5 năm 2022, tại trụ sở Tòa án nhân dân cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh xét xử phúc thẩm công khai vụ án hình sự phúc thẩm thụ lý số 51/2022/TLPT-HS ngày 25 tháng 01 năm 2022 đối với bị cáo Nguyễn Ngọc Ch, Đặng Thị Thanh H do có kháng cáo của các bị cáo, đại diện hợp pháp của người bị hại đối với Bản án hình sự sơ thẩm số: 282/2021/HS-ST ngày 14 tháng 12 năm 2021 của Tòa án nhân dân TP Hồ Chí Minh.
Bị cáo có kháng cáo:
1. Nguyễn Ngọc Ch; giới tính: Nam; sinh năm 1989, tại : Thành phố Hồ chí Minh; nơi đăng ký hộ khẩu thường trú: 19/14/10 đường số 49, khu phố 6, phường Hiệp Bình Chánh, thành phố Thủ Đức, Thành phố Hồ Chí Minh; quốc tịch: Việt Nam; dân tộc: Kinh; tôn giáo: Phật giáo; trình độ học vấn: 11/12; nghề nghiệp: Không; con ông Nguyễn Ngọc B (đã chết ngày 22/10/2021) và bà Trần Thị Thanh Th, sinh năm: 1971; Bị cáo là con duy nhất trong gia đình, bị cáo có vợ là Đặng Thị Thanh H, sinh năm 1992 (là bị cáo trong cùng vụ án) và có 01 con sinh năm 2018. Tiền án, tiền sự: Không;
Bị cáo bị tạm giam từ ngày 16/7/2020 tại Trại tạm giam Chí Hòa, Công an Thành phố Hồ Chí Minh. (Có mặt tại phiên tòa) - Người bào chữa cho bị cáo (do Tòa án chỉ định): Ông Vũ Quốc T, ông Nguyễn Quốc B thuộc Đoàn Luật sư Thành phố Hồ Chí Minh, (có mặt) - Người bào chữa cho bị cáo (gia đình bị cáo mời): Ông Nguyễn Thanh T, luật sư thuộc Công ty Luật TNHH T, Đoàn luật sư Thành phố Hồ Chí Minh. (có mặt)
2. Đặng Thị Thanh H; giới tính: Nữ, sinh năm 1992, tại : tỉnh Bình . Thuận thường trú: 129 Lý Thường Kiệt, thị trấn Phan Rí Cửa, huyện Tuy Phong, tỉnh Bình Thuận; quốc tịch: Việt Nam; dân tộc: Kinh; tôn giáo: Phật giáo; trình độ học vấn: 9/12; nghề nghiệp: Không; con ông Đặng Văn Ch1, sinh năm: 1969 và bà Dương Thị H, sinh năm: 1968; gia đình bị can có 05 anh chị em, bị can là con thứ tư trong gia đình; bị can có chồng là Nguyễn Ngọc Ch, sinh năm 1989 (là bị cáo trong cùng vụ án) và có 01 con sinh năm 2018. Tiền án, tiền sự: Không;
Bị cáo bị bắt tạm giữ từ ngày 16/7/2020 đến ngày 24/7/2020 được áp dụng biện pháp ngăn chặn cấm đi khỏi nơi cư trú. Bị cáo tại ngoại. (có mặt)
- Người bào chữa cho bị cáo (do Tòa án chỉ định): Ông Vũ Quốc T, ông Nguyễn Quốc B thuộc Đoàn Luật sư Thành phố Hồ Chí Minh, (có mặt)
- Người bào chữa cho bị cáo (gia đình bị cáo mời): Ông Nguyễn Thanh T, luật sư thuộc Công ty Luật TNHH T, Đoàn luật sư Thành phố Hồ Chí Minh. (có mặt)
- Bị hại: Bà Hà Thị Th, sinh năm: 1938 (đã chết), Đại diện hợp pháp của bà Th có kháng cáo: Ông Trần Ngọc V, sinh năm 1958 | Hộ khẩu thường trú: 232A Điện Biên Phủ, phường 17, Quận Bình Thạnh, Thành phố Hồ Chí Minh; (có mặt).
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội D vụ án được tóm tắt như sau:
Chiều ngày 15/7/2020, vợ chồng Nguyễn Ngọc Ch và Đặng Thị Thanh H chở con là cháu Nguyễn Hoàng Trường An (sinh ngày 14/9/2018) đi chơi, đến khoảng 22 giờ cùng ngày thì đến nhà bà nội Ch là bà Hà Thị Th (sinh năm 1938) tại địa chỉ số 232A Điện Biên Phủ, phường 17, quận Bình Thạnh để xin ngủ nhờ, tại nhà bà Th có bà Nguyễn Thị Ngọc D (con ruột bà Th) sinh sống. Tại đây, Ch lấy 02 cái áo mưa mang theo trải xuống nền phòng khách để ngủ, do cháu An khóc nhiều không ngủ nên bà Th từ trong phòng đi ra bế, dỗ cháu An và nói “ta là bạch hổ đây” nhưng cháu An vẫn khóc nên bà D bế xuống nhà sau ru ngủ. Lúc này, Ch và H cho rằng bà Th bị ma quỷ nhập và ếm bùa vào người nên đã thắp 05 cây nhang quơ quanh đầu bà Th rồi đưa nhang cho H thực hiện theo, thấy bà Th la hét, chửi bới nên Ch cùng H lấy 01 chiếc áo mưa mặc vào người bà Th và trùm phần mũ áo mưa lên đầu bà Th, Ch lấy thêm giẻ lau nhà trùm kín đầu rồi dùng dây thun buộc tóc buộc hai đầu giẻ lau lại, bà Th vùng vẫy nên Ch đè nằm xuống đất dùng tay, chân giữ chặt còn H dùng tay đè giữ chân, thấy bà Th nằm yên, Ch đỡ bà Th ngồi dậy, lấy 02 cây chổi, đưa cho H 01 cây rồi cả hai dùng chổi đánh vào tay, chân, vai và vùng đầu của bà Th nhiều cái. Sau đó, Ch tiếp tục đè bà Th nằm xuống đất dùng tay, chân giữ chặt còn H dùng chân nhang (đã cháy hết) chọc vào hậu môn bà Th, sau đó Ch cũng dùng ngón tay chọc vào hậu môn bà Th. Đến khoảng 14 giờ 20 phút ngày 16/7/2020, thấy bà Th không cử động, máu ở vùng hậu môn chảy ra nhiều nên Ch buông bà Th ra rồi mở cửa nhà đến cửa hàng Family Mart địa chỉ 234 Điện Biên Phủ, phường 17, quận Bình Thạnh nhờ nhân viên cửa hàng là anh Trương Thành Đạt gọi xe cấp cứu, anh Đạt đi sang thì thấy bà Th có dấu hiệu đã chết nên đến Công an Phường 17, quận Bình Thạnh trình báo.
Nhận được tin báo Cơ quan Cảnh sát điều tra, Công an quận Bình Thạnh đã phối hợp với Công an Thành phố Hồ Chí Minh tiến hành khám nghiệm hiện trường và thu giữ các vật chứng liên quan đồng thời bắt giữ Nguyễn Ngọc Ch và Đặng Thị Thanh H.
Tại bản án hình sự sơ thẩm số 282/2021/HSST ngày 14-12-2021 của Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh quyết định:
1.1/ Căn cứ điểm đ khoản 1 Điều 123; điểm i khoản 1 Điều 52; các điểm b, s khoản 1 và khoản 2 Điều 51; Điều 38; Điều 50; Điều 58 của Bộ luật hình sự năm 2015, được sửa đổi bổ sung năm 2017, Xử phạt bị cáo Nguyễn Ngọc Ch: 16 (mười sáu) năm tù, về tội “Giết người”. Thời hạn chấp hành hình phạt tù được tính từ ngày 16/7/2020.
1.2/ Căn cứ điểm đ khoản 1 Điều 123; điểm i khoản 1 Điều 52; các điểm b, s khoản 1 và khoản 2 Điều 51; Điều 38; Điều 50; Điều 54 và Điều 58 của Bộ luật hình sự năm 2015, được sửa đổi bổ sung năm 2017;
Xử phạt bị cáo Đặng Thị Thanh H: 10 (mười) năm tù, về tội “Giết người”. Thời hạn chấp hành hình phạt tù được tính từ ngày bắt chấp hành án và được trừ thời giam tạm giam, tạm giữ trước đó từ ngày 16/7/2020 đến ngày 24/7/2020.
Ngoài ra, Tòa án cấp sơ thẩm còn quyết định về xử lý vật chứng, tịch thu tiêu hủy và quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.
Ngày 15-12-2021, bị cáo Nguyễn Ngọc Ch có đơn kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt.
Ngày 17-12-2021, bị cáo Đặng Thị Thanh H kháng cáo yêu cầu thay đổi tội danh từ tội “Giết người” sang tội “Cố ý gây tổn hại sức khỏe cho người khác” quy định tại Điều 134 Bộ luật hình sự.
Ngày 20-12-2021, Đại diện hợp pháp của bị hại ông Trần Ngọc V kháng cáo yêu cầu hủy bản án hình sự sơ thẩm xét xử bị cáo tội “Giết người” và “Cướp tài sản” đồng thời tăng hình phạt bị cáo từ 20 năm trở lên.
Vị đại diện Viện kiểm sát nhân dân cấp cao đề nghị không chấp nhận kháng cáo của bị cáo, đại diện hợp pháp của bị hại và giữ nguyên bán án hình sự sơ thẩm số 282/2021/HS-ST ngày 14/12/2021 của Tòa án nhân dân thành phố Hồ Chí Minh.
Căn cứ vào các chứng cứ và tài liệu đã được thẩm tra tại phiên tòa phúc thẩm. Căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa, trên cơ sở xem xét đầy đủ, toàn diện tài liệu, chứng cứ, ý kiến của kiểm sát viên, bị cáo và người tham gia tố tụng.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Về hình thức đơn kháng cáo của bị cáo và đại diện hợp pháp của bị hại trong hạn luật định nên chấp nhận xem xét giải quyết theo trình tự phúc thẩm.
1. Bị cáo Nguyễn Ngọc Ch bị Tòa án cấp sơ thẩm xử phạt 16 (mười sáu) năm tù và bị cáo Đặng Thị Thanh H bị tòa án cấp sơ thẩm xử phạt 10 (mười) năm tù về tội “Giết người” theo điểm đ khoản 1 Điều 123 Bộ luật hình sự 2015.
Bị cáo Nguyễn Ngọc Ch kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt, bị cáo Đặng Thị Thanh H kháng cáo yêu cầu thay đổi tội danh từ tội “Giết người” sang tội “Cố ý gây tổn hại sức khỏe cho người khác” quy định tại Điều 134 Bộ luật hình sự.
2. Đại diện hợp pháp của bị hại ông Trần Ngọc V kháng cáo yêu cầu hủy bản án hình sự sơ thẩm xét xử bị cáo tội “Giết người” và “Cướp tài sản” đồng thời tăng hình phạt bị cáo từ 20 năm trở lên.
[1] Nội D: Khoảng 22 giờ, ngày 15/7/2020 cho đến rạng sang ngày 16/7/2020, tại địa chỉ số 232A Điện Biên Phủ, phường 17, quận Bình Thạnh, thành phố Hồ Chí Minh, Nguyễn Ngọc Ch cùng vợ Nguyễn Thị Thanh H do mê tín dị đoan, nghĩ rằng bà Hà Thị Th (là bà nội ruột của bị cáo Ch) bị yểm bùa, bị ma quỷ nhập làm cho cháu An (con của Ch) khóc nên đã sử dụng áo mưa trùm kín người bà Th, rồi dùng giẻ lau nhà trùm kín đầu, dùng chổi đánh vào tay, chân, đầu và dùng chân nhang, tay móc vào hậu môn của bà Hà Thị Th mà các bị cáo khai là để trừ tà, trục xuất bùa ra khỏi người bà Th. Các bị cáo thực hiện hành vi trong khoảng thời gian từ 4 đến 5 giờ đồng hồ, đến khi bà Th năm bất động thì các bị cáo mới dừng lại. Hậu quả làm bà Th tử vong. Hành vi của các bị cáo đã phạm vào tội “Giết người”, tội danh và hình phạt được quy định tại khoản 1 Điều 123 Bộ luật hình sự mà cấp sơ thẩm đã xét xử là có căn cứ.
[2] Nhận định của Hội đồng xét xử: Hành vi của bị cáo Ch và bị cáo H là đặc biệt nguy hiểm cho xã hội và thuộc trường hợp đặc biệt nghiêm trọng, trực tiếp xâm phạm tính mạng con người, cụ thể bị hại là bà Hà Thị Th là bà nội của bị cáo Ch, là khách thể đặc biệt được pháp luật bảo vệ, gây nên dư luận xấu trong xã hội, ảnh hưởng đến trật tự trị an toàn xã hội, thể hiện ý thức coi thường và bất chấp pháp luật. Khi phạm tội bị cáo có đủ độ tuổi và nâng lực trách nhiệm hình sự, thực hiện với lỗi cố ý, nên hành vi phạm tội của bị cáo được xác định là “Giết ông, bà, cha, mẹ, người nuôi dưỡng, thầy giáo, cô giáo của mình”. Do đó, cấp sơ thẩm đã áp dụng điểm đ khoản 1 Điều 123 Bộ luật hình sự trong trường hợp này là phù hợp.
Xét kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt của bị cáo Ch, Hội đồng xét xử xét thấy: Khi lượng hình, cấp sơ thẩm không chỉ áp dụng tình tiết tăng nặng mà còn áp dụng tình tiết giảm nhẹ cho bị cáo như: phạm tội lần đầu, chưa có tiền án, tiền sự, thành khẩn khai báo và đã tác động gia đình bồi thường một phần thiệt hại. Từ những tình tiết trên, cấp sơ thẩm đã tuyệt phạt bị cáo Ch 16 năm tù là tương xứng với tính chất, hành vi phạm tội của bị cáo, cho nên cấp phúc thẩm, không có căn cứ để xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo. Không chấp nhận kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt của bị cáo Ch.
Xét kháng cáo xin thay đổi tội danh đối với bị cáo H. Hội đồng xét xử xét thấy: Hành vi của bị cáo H thực hiện với vai trò đồng phạm với bị cáo Ch, thực hiện hành vi tước đoạt mạng sống của bà Th. Do đó đã phạm vào tội “Giết người” chứ không phải tội “Cố ý gây thuơng tích”, cho nên cấp phúc thẩm không chấp nhận kháng cáo yêu cầu thay đổi tội danh của bị cáo.
Xét kháng cáo của đại diện hợp pháp bị hại kháng cáo yêu cầu xét xử bị cáo tội “Giết người” và “Cướp tài sản”. Hội đồng xét xử phúc thẩm nhận thấy trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử của cấp sơ thẩm không có căn cứ để chứng minh các bị cáo có hành vi cướp tài sản, cho nên việc kháng cáo của đại diện hợp pháp của bị hại không được Hội đồng xét xử chấp nhận.
Tóm lại: Tòa án cấp sơ thẩm đã xử phạt các bị cáo về tội danh và hình phạt là thỏa đáng do đó không có căn cứ chấp nhận kháng cáo của đại diện hợp pháp của bị hại và bị cáo Ch, bị cáo H.
Tại phiên tòa ngày hôm nay vị đại diện Viện kiểm sát cấp cao đề nghị giữ nguyên bản án hình sự sơ thẩm số 282/2021/HS-ST ngày 14/12/2021 của Tòa án nhân dân Thành phố hồ Chí Minh phù hợp với nhận định trên của Hội đồng xét xử nên được chấp nhận.
Do kháng cáo của của các bị cáo không được chấp nhận nên phải chịu tiền án phí hình sự phúc thẩm.
Đại diện hợp pháp của bị hại kháng cáo không được chấp nhận nhưng không phải chịu tiền án phí hình sự phúc thẩm.
Vì các lẽ trên;
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ điểm a khoản 1 Điều 355, Điều 356 của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015;
1. Không chấp nhận kháng cáo của đại diện hợp pháp của bị hại ông Trần Ngọc V;
Không chấp nhận kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt của bị cáo Nguyễn Ngọc Ch;
Không chấp nhận kháng cáo thay đổi tội danh của bị cáo Đặng Thị Thanh H; Giữ nguyên bản án hình sự sơ thẩm số 282/2021/HS-ST ngày 14/12/2021 của Tòa án nhân dân thành phố Hồ Chí Minh.
Tuyên bố bị cáo Nguyễn Ngọc Ch, bị cáo Đặng Thị Thanh H phạm tội “Giết người” Áp dụng điểm đ khoản 1 Điều 123; điểm I khoản 1 Điều 52, các điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 38, Điều 50, Điều 58 Bộ luật hình sự 2015;
Xử phạt bị cáo Nguyễn Ngọc Ch16 (mười sáu) năm tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 16/7/2020.
Áp dụng điểm đ khoản 1 Điều 123; điểm I khoản 1 Điều 52, các điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 38, Điều 50, Điều, Điều 54, Điều 58 Bộ luật hình sự 2015;
Xử phạt bị cáo Đặng Thị Thanh H 10 (mười) năm tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù được tính từ ngày bắt chấp hành án và được trừ thời gian tạm giam, tạm giữ trước đó từ ngày 16/7/2020 đến ngày 24/7/2020.
Tiếp tục tạm giam bị cáo Ch để đảm B thi hành án.
2. Về án phí hình sự phúc thẩm: Bị cáo Ch, bị cáo H mỗi phải chịu 200.000 đồng.
Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết hạn kháng cáo, kháng nghị.
Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.
Bản án về tội giết người số 314/2022/HS-PT
Số hiệu: | 314/2022/HS-PT |
Cấp xét xử: | Phúc thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân cấp cao |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 16/05/2022 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về