Bản án về tội giết người số 31/2024/HS-PT

TOÀ ÁN NHÂN DÂN CẤP CAO TẠI HÀ NỘI

BẢN ÁN 31/2024/HS-PT NGÀY 12/01/2024 VỀ TỘI GIẾT NGƯỜI

Ngày 12 tháng 01 năm 2024, tại trụ sở Tòa án nhân dân cấp cao tại Hà Nội xét xử phúc thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 951/2023/TLPT-HS ngày 06 tháng 9 năm 2023 đối với bị cáo Dương Văn T do có kháng cáo của bị cáo đối với Bản án hình sự sơ thẩm số 322/2023/HS-ST ngày 31 tháng 7 năm 2023 của Tòa án nhân dân thành phố HN.

Bị cáo có kháng cáo:

Dương Văn T, sinh năm 1985; Nơi ĐKHKTT và nơi ở: Tổ 21, phường MD, quận CG, thành phố HN; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không; Trình độ học vấn: 08/12; Nghề nghiệp: Lao động tự do; Con ông Dương Văn T2 và bà Trần Thị Đ; Vợ là Trần Thị L (đã chết); Có 02 con, lớn sinh năm 2005, nhỏ sinh năm 2018; Tiền án, tiền sự: Không;

Nhân thân:

- Ngày 23/09/2003, bị Tòa án nhân dân quận ĐĐ, thành phố HN xử phạt 08 tháng tù về tội “Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản”.

- Ngày 26/07/2006, bị Tòa án nhân dân quận CG, thành phố HN xử phạt 30 tháng tù về tội “Tàng trữ trái phép chất ma tuý”.

- Tại Bản án hình sự phúc thẩm số 919/2023/HS-PT ngày 12/12/2023 của Tòa án nhân dân cấp cao tại Hà Nội xử phạt 13 năm tù về tội “Giết người”.

Bị tạm giữ, tạm giam từ ngày 11/10/2016 đến ngày 23/02/2017; Bị cáo bị bắt theo quyết định truy nã và bị tạm giữ, tạm giam từ ngày 13/02/2023; Hiện đang bị tạm giam tại Trại tạm giam số 1 - Công an thành phố HN trong vụ án “Giết người” do Tòa án nhân dân cấp cao tại Hà Nội thụ lý giải quyết. (Có mặt).

- Người đại diện hợp pháp của bị cáo Dương Văn T: Ông Dương Văn T2 (bố của bị cáo), sinh năm 1952; bà Trần Thị Đ (mẹ của bị cáo), sinh năm 1953 và chị Dương Thị Minh T3 (chị gái của bị cáo), sinh năm 1981); cùng trú tại: Số 239 phố DKT, phường MD, quận CG, thành phố HN; ông T2, bà Đ vắng mặt, chị T3 có mặt tại phiên toà.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau: Khoảng 17 giờ ngày 11/10/2016, tại phòng 1203, tòa nhà Chung cư Cảnh sát 113, đường TK, phường YH, quận CG, HN, tổ công tác của phòng Cảnh sát hình sự Công an thành phố HN phát hiện, bắt quả tang Dương Văn T (sinh năm 1985; trú tại tổ 15, nay là tổ 21, phường MD, quận CG, Hà Nội) cùng các đối tượng Đỗ Trung H (sinh năm 1981; trú tại tổ dân phố số 1, phường XT, quận BTL, HN), Lê Văn T1(sinh năm 1991; trú tại thôn PT B, xã TT, huyện VT, tỉnh VP), Phạm Ngọc A (sinh năm 1984; trú tại số 60/335, đường XĐ, phường XĐ, quận BTL, HN), Bùi Nguyên G (sinh năm 1994; trú tại khu 3, xã YN, huyện TB, tỉnh PT), Nguyễn Mạnh Đ1 (sinh năm 1993; trú tại khu 2, xã TX, huyện TB, tỉnh PT), Nguyễn Đức T4 (sinh năm 1999; trú tại thôn Bô 1, xã KYH, huyện VB, tỉnh LC) có hành vi tổ chức cho 20 đối tượng đánh bạc dưới hình thức chơi xóc đĩa được thua bằng tiền, gồm: Nguyễn Trí G1 (sinh năm 1987; trú tại xã PC, huyện CM, HN), Đỗ Trường G2 (sinh năm 1978; trú tại phường XT, quận BTL, HN), Hà Văn C (sinh năm 1982; trú tại xã DT, thành phố BG, tỉnh BG), Nguyễn Văn V (sinh năm 1987; trú tại xã PT, huyện PX, HN), Vi Văn Q (sinh năm 1994; trú tại thị trấn KB, huyện TO, HN), Đới Xuân T5 (sinh năm 1975; trú tại xã PT, huyện TO, HN), Đặng Ngọc K (sinh năm 1969; trú tại xã HV, huyện HH, tỉnh NĐ), Nguyễn Văn D (sinh năm 1980; trú tại xã VH, huyện KX, tỉnh TB), Nguyễn Văn T6 (sinh năm 1980; trú tại xã KT, huyện TO, HN), Vũ H1 (sinh năm 1985; trú tại phường QT, thành phố PL, tỉnh HN), Nông Thị N (sinh năm 1975; trú tại phường NH, quận BĐ, HN), Đặng Kim N1 (sinh năm 1991; trú tại phường NTN, quận HBT, HN), Đinh Thị Y (sinh năm 1976; trú tại xã TS, huyện KB, tỉnh HN), Dương Thị H2 (sinh năm 1977; trú tại phường XĐ, quận BTL, HN), Lê Văn T7 (sinh năm 1984; trú tại xã TH, huyện TT, HN), Vũ Văn H3 (sinh năm 1987; trú tại thị trấn VT, huyện LN, tỉnh HN), Nguyễn Hồng N2 (sinh năm 1982; trú tại xã SM, tỉnh BG), Hoàng Văn H4 (sinh năm 1983; trú tại phường HL, quận HM, Hà Nội), Nguyễn Văn T8 (sinh năm 1984; trú tại xã HC, thành phố HY, tỉnh HY) và Nguyễn Thị Bích T9 (sinh năm 1978; trú tại phường NĐ, quận CG, HN). Vật chứng của vụ án đã thu giữ, gồm: 01 bát sứ, 01 đĩa sứ, 04 quân vị được cắt từ quân bài Chắn, 20 chiếc ghế nhựa, 01 thảm màu đỏ và số tiền sử dụng để đánh bạc là 504.400.000 đồng; trong đó thu tại chiếu bạc là 491.400.000 đồng và thu trên người các con bạc tổng số tiền dùng để đánh bạc là 13.400.000 đồng. Thu giữ của Dương Văn T 01 (một) điện thoại di động hiệu Iphone 6 có Imei số 353256076341909 (đã qua sử dụng).

Quá trình điều tra, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố HN đã điều tra, làm rõ hành vi tổ chức đánh bạc của Dương Văn T như sau:

Dương Văn T và các đối tượng đồng phạm đã tổ chức đánh bạc bằng hình thức chơi xóc đĩa, sử dụng 04 quân bài vị, hình tròn, đường kính khoảng 01cm, có 02 mặt màu đen và trắng (được cắt từ quân bài Chắn). Quy ước khi tham gia đánh bạc, Đỗ Trung H ngồi giữa tại một đầu thảm, các con bạc ngồi dọc hai bên, bên tay trái của H là cửa lẻ, bên tay phải là cửa chẵn. Khi xóc cái, H để ngửa đĩa sứ cho 04 quân vị vào đĩa rồi úp bát sứ vào đĩa, xóc rồi để đĩa xuống chiếu. Sau khi các con bạc tham gia đặt tiền tại cửa chẵn hoặc cửa lẻ xong thì H mở bát ra, nếu trên đĩa có 02 hoặc 04 quân vị cùng 01 mặt trắng hoặc đen thì là chẵn; nếu có 01 hoặc 03 quân cùng 01 mặt là lẻ. Người thắng sẽ nhận được số tiền gấp đôi số tiền đã đặt cược, còn người thua bị mất số tiền đã đặt cược. Phạm Ngọc A làm “hồ lỳ” quản lý tiền của các con bạc đã đặt cược dưới chiếu và thu tiền của người thua, trả tiền cho người thắng. Dương Văn T cùng đồng bọn đã nhiều lần tổ chức cho nhiều người tham gia đánh bạc bằng hình thức đánh xóc đĩa, tại nhiều địa điểm khác nhau trên địa bàn thành phố HN. T đã thu tiền “phế” của người tham gia đánh bạc là 1.000.000 đồng/01 người/01 ca. Mỗi ngày T tổ chức 02 ca đánh bạc, gồm: Ca chiều từ 15 giờ đến 17 giờ và ca tối từ 23 giờ đến 02 giờ sáng hôm sau, mỗi ca có khoảng 15 đến 20 người tham gia đánh bạc. T là người chuẩn bị các dụng cụ cho sới bạc gồm ghế nhựa, thảm, bộ bát, đĩa bằng sứ, cắt quân vị. T phân công đối tượng H5 (chưa xác định được nhân thân) tìm, thuê địa điểm với giá 3.000.000 đồng/01 ca để tổ chức đánh bạc tại địa bàn huyện ĐA, quận BTL, quận CG, thành phố HN và giao cho H5 liên hệ đưa, đón các con bạc bằng xe ô tô đến các địa điểm đánh bạc, trả công cho H5 1.000.000 đồng/01 ca. Đồng thời khi đánh bạc, T thuê Đỗ Trung H làm người xóc cái; thuê Phạm Ngọc A làm "hồ lỳ" thu tiền của người thua, trả tiền cho người thắng; thuê Lê Văn T1 làm "trật tự", sắp xếp vị trí ngồi trong sới bạc, thu giữ điện thoại của các con bạc trước khi vào chơi và vận chuyển ghế, thảm, thu dọn đồ đạc khi sới bạc kết thúc... và trả công cho mỗi người 200.000 đồng/01 ca đánh bạc. Ngoài ra, T còn thuê Nguyễn Mạnh Đ1, Bùi Nguyên G và Nguyễn Đức T4 làm nhiệm vụ canh gác, cảnh giới bên ngoài, khi phát hiện có lực lượng Công an thì báo động để T giải tán sới bạc và trả công 500.000 đồng/01 người/01 ca. Cơ quan điều tra đã đấu tranh, làm rõ các lần Dương Văn T cùng đồng bọn tổ chức đánh bạc như sau:

- Ngày 09/10/2016, Thao tổ chức 02 ca cho khoảng 15 đến 20 người tham gia đánh bạc tại 02 địa điểm, gồm: Ca chiều tại khu vực Làng C, phường YH, quận CG, HN và thu được 15.000.000 tiền “phế”. Ca tối, T tổ chức đánh bạc tại gần cầu PL, huyện ĐA, HN và thu được 20.000.000 đồng tiền “phế”. Cơ quan điều tra tiến hành xác minh nhưng chưa xác định được các đối tượng đã tham gia đánh bạc tại các địa điểm nêu trên.

- Ngày 10/10/2016, T tổ chức 02 ca cho khoảng 15 đến 20 người tham gia đánh bạc tại 02 địa điểm, gồm: Ca chiều tại cụm TX, phường XĐ, quận BTL, HN và thu được 20.000.000 tiền “phế”. Ca tối, T tổ chức đánh bạc tại khu vực gần cầu PL, huyện ĐA, HN và thu được 15.000.000 đồng tiền “phế”. Cơ quan điều tra tiến hành xác minh nhưng chưa xác định được các đối tượng đã tham gia đánh bạc tại các địa điểm nêu trên.

- Khoảng 15 giờ ngày 11/10/2016, T tổ chức cho 20 con bạc là Nguyễn Trí G1, Đỗ Trường G2, Hà Văn C, Nguyễn Văn V, Vi Văn Q, Đới Xuân T5, Đặng Ngọc K, Nguyễn Văn D, Nguyễn Văn T6, Vũ H1, Nông Thị N, Đặng Kim N1, Đinh Thị Y, Dương Thị H2, Lê Văn T7, Vũ Văn H3, Nguyễn Hồng N2, Hoàng Văn H4, Nguyễn Văn T8 và Nguyễn Thị Bích T9 đánh bạc tại phòng 1203, toà nhà Chung cư Cảnh sát 113, đường TK, phường YH, quận CG, HN. T đã thu được 25.000.000 đồng tiền “phế” do các con bạc nộp khi vào sới bạc. Đến khoảng 17 giờ cùng ngày, khi T đang tổ chức cho các đối tượng trên đánh bạc thì bị tổ công tác của phòng Cảnh sát hình sự Công an thành phố HN phát hiện, bắt quả tang. Kết quả điều tra xác định T đã thanh toán tiền công của 06 ca cho các đối tượng tham gia Tổ chức đánh bạc là Đỗ Trung H, Phạm Ngọc A, Lê Văn T1 mỗi người là 1.200.000 đồng; Nguyễn Mạnh Đ1, Bùi Nguyên G, Nguyễn Đức T4 mỗi người là 3.000.000 đồng. T được hưởng lợi tổng số tiền là 95.000.000 đồng.

Quá trình điều tra vụ án, bị cáo Dương Văn T có biểu hiện mắc bệnh tâm thần nên Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố HN đã ra Quyết định trưng cầu Viện pháp y Tâm thần Trung ương - Bộ Y tế giám định pháp y tâm thần đối với bị cáo. Tại bản Kết luận giám định pháp y tâm thần số 47/KLGĐ ngày 19/01/2017 của Viện pháp y Tâm thần Trung ương - Bộ Y tế, kết luận: “Trước, trong, sau khi phạm tội và thời điểm hiện tại (thời điểm giám định) bị cáo Dương Văn T bị rối loạn nhân cách thực tổn. Theo phân loại bệnh quốc tế lần thứ 10 năm 1992 có mã bệnh F07.0. Tại thời điểm phạm tội bệnh ở giai đoạn ổn định bị cáo đủ khả năng nhận thức, hạn chế khả năng điều khiển hành vi. Tại thời điểm giám định bệnh ở giai đoạn tái phát bị cáo hạn chế khả năng nhận thức và điều khiển hành vi”. Ngày 23/02/2017, Viện kiểm sát nhân dân thành phố HN đã ra Quyết định áp dụng biện pháp Bắt buộc chữa bệnh đối với Dương Văn T. Trong thời gian Bắt buộc chữa bệnh, bị cáo T bỏ trốn khỏi Viện pháp y Tâm thần Trung ương. Do đó ngày 12/6/2019, Viện kiểm sát nhân dân thành phố HN đã ra Quyết định đình chỉ áp dụng biện pháp Bắt buộc chữa bệnh đối với Dương Văn T. Cơ quan điều tra đã ra Quyết định phục hồi điều tra vụ án, phục hồi điều tra bị cáo đối với Dương Văn T. Do thời hạn điều tra vụ án đã hết và chưa bắt được bị cáo nên ngày 02/7/2019, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố HN đã ra Quyết định tách vụ án hình sự, tạm đình chỉ điều tra và ra Quyết định truy nã đối với Dương Văn T. Ngày 13/02/2023, Dương Văn T đã bị Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố HN bắt theo quyết định truy nã và Cơ quan điều tra đã ra Quyết định phục hồi điều tra vụ án hình sự, phục hồi điều tra về tội Tổ chức đánh bạc đối với bị cáo Dương Văn T.

- Đối với các bị cáo khác trong vụ án, Tòa án nhân dân thành phố HN đưa ra xét xử. Tại Bản án số 109/2021/HS-ST ngày 09/4/2021 đã tuyên phạt đối với các bị cáo như sau: Đỗ Trung H 36 tháng tù, Lê Văn T1 36 tháng tù, Phạm Ngọc A 42 tháng tù, Bùi Nguyên G 24 tháng tù và Nguyễn Đức T4 24 tháng tù về tội Tổ chức đánh bạc theo quy định tại điểm b, khoản 2, Điều 249 Bộ luật Hình sự năm 1999; tuyên phạt đối với các bị cáo: Nguyễn Trí G1 20 tháng tù, Đỗ Trường G2 24 tháng tù nhưng cho hưởng án treo, Hà Văn C 18 tháng tù nhưng cho hưởng án treo, Nguyễn Văn V 20 tháng tù nhưng cho hưởng án treo, Đới Xuân T5 20 tháng tù, Nguyễn Văn D 24 tháng tù nhưng cho hưởng án treo, Vi Văn Q 18 tháng tù nhưng cho hưởng án treo, Nguyễn Văn T6 30 tháng tù, Vũ H1 30 tháng tù, Nông Thị N 18 tháng tù, Đặng Kim N1 20 tháng tù nhưng cho hưởng án treo, Đinh Thị Y 20 tháng tù, Dương Thị H2 24 tháng tù, Lê Văn T7 24 tháng tù, Vũ Văn H3 24 tháng tù nhưng cho hưởng án treo, Nguyễn Hồng N2 24 tháng tù nhưng cho hưởng án treo, Hoàng Văn H3 24 tháng tù, Nguyễn Văn T8 36 tháng tù và Nguyễn Thị Bích T9 42 tháng tù về tội Đánh bạc theo khoản 2 Điều 248 Bộ luật Hình sự năm 1999. Phần quyết định của Bản án đã xử lý vật chứng tuyên tịch thu tiêu huỷ 01 bát, 01 đĩa, 04 quân vị cắt từ quân bài chắn, 20 ghế nhựa các loại, 01 chiếc thảm và tịch thu sung quỹ Nhà nước số tiền 504.800.000 đồng đã thu giữ tại chiếu bạc.

- Tại Bản án hình sự sơ thẩm số 430/2018/HS-ST ngày 13/11/2018 của Tòa án nhân dân thành phố HN đã xử phạt Nguyễn Mạnh Đ1 28 tháng tù về tội Tổ chức đánh bạc theo quy định tại điểm b, khoản 2, Điều 249 Bộ luật Hình sự năm 1999.

- Đối với bị cáo Đặng Ngọc K: Đã bị Viện kiểm sát nhân dân thành phố HN truy tố về tội Đánh bạc theo khoản 2 Điều 248 Bộ luật Hình sự năm 1999. Trong giai đoạn chuẩn bị xét xử, Đặng Ngọc K có biểu hiện tâm thần nên ngày 26/4/2018, Tòa án nhân dân thành phố HN đã quyết định trưng cầu Viện pháp y tâm thần Trung ương giám định tâm thần đối với K nhưng K đã bỏ trốn nên chưa đưa đi giám định được. Ngày 13/3/2019, Đặng Ngọc K tiếp tục bị phòng Cảnh sát hình sự Công an thành phố HN bắt quả tang về hành vi Đánh bạc và đến ngày 22/3/2019, bị khởi tố bị cáo và bị tạm giam về tội Đánh bạc. Ngày 06/7/2019, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố HN đã ra Quyết định tách vụ án Đặng Ngọc K về tội đánh bạc, Quyết định tạm đình chỉ điều tra vụ án, tạm đình chỉ điều tra bị cáo đối với Đặng Ngọc K. Hiện bị cáo đang bị áp dụng biện pháp Bắt buộc chữa bệnh trong vụ án đã khởi tố số 93/PC02-Đ3 ngày 22/3/2019 của Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố HN. Khi nào có kết quả giám định của Viện Pháp y tâm thần Trung ương đối với Đặng Ngọc K, sẽ phục hồi bị cáo để xử lý sau.

Tại bản Cáo trạng số 273/CT-VKSHN-P2 ngày 04/07/2023 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố HN truy tố: Dương Văn T về tội “Tổ chức đánh bạc” theo điểm b Khoản 2 Điều 249 Bộ luật Hình sự năm 1999.

Tại Bản án hình sự sơ thẩm số 322/2023/HS-ST ngày 31/07/2023 của Tòa án nhân dân thành phố HN đã tuyên bố bị cáo Dương Văn T phạm tội: “Tổ chức đánh bạc”. Áp dụng điểm b khoản 2 Điều 249 Bộ luật Hình sự năm 1999; điểm g khoản 1 Điều 52; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 38 Bộ luật Hình sự năm 2015; Xử phạt: Dương Văn T 05 năm tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt tạm giữ, tạm giam trong vụ án khác từ ngày 12/02/2023. Được trừ thời gian tạm giam từ ngày 11/10/2016 đến ngày 23/02/2017.

Ngoài ra, Tòa án cấp sơ thẩm còn quyết định về xử lý vật chứng, án phí và thông báo quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.

Ngày 09/8/2023, bị cáo Dương Văn T có đơn kháng cáo với nội dung xin giảm hình phạt.

Tại phiên tòa phúc thẩm:

Bị cáo Dương Văn T thành khẩn khai nhận hành vi phạm tội và cho rằng Tòa án cấp sơ thẩm xử phạt bị cáo về tội “Tổ chức đánh bạc” là đúng người, đúng tội nhưng mức hình phạt 05 năm tù mà Tòa án cấp sơ thẩm đã tuyên đối với bị cáo là quá nặng, bị cáo có nhiều tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự nên đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ mức hình phạt cho bị cáo.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Hà Nội tham gia phiên tòa: Sau khi phân tích nội dung vụ án, nội dung kháng cáo của bị cáo, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với bị cáo cho rằng: Tòa án cấp sơ thẩm đã xét xử bị cáo Dương Văn T về tội “Tổ chức đánh bạc” theo điểm b khoản 2 Điều 249 Bộ Luật hình sự năm 1999 là có căn cứ, đúng pháp luật; xét kháng cáo của bị cáo thấy rằng: Quá trình trước, trong và sau khi phạm tội, bị cáo bị bệnh về thần kinh, bị hạn chế khả năng nhận thức và điều khiển hành vi; quá trình điều tra, truy tố và tại phiên tòa, bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải. Tại phiên tòa phúc thẩm, gia đình bị cáo đã xuất trình các tài liệu thể hiện: Bị cáo có Cậu ruột là liệt sỹ; bị cáo có hoàn cảnh gia đình khó khăn (Vợ chết, các con còn nhỏ, bố mẹ già yếu bị bệnh hiểm nghèo, bị cáo là con trai duy nhất trong gia đình); bị cáo đã nộp số tiền 95.200.000 đồng là tiền truy thu và tiền án phí hình sự sơ thẩm. Do bị cáo có nhiều tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự nêu trên nên đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận kháng cáo của bị cáo, sửa bản án hình sự sơ theo hướng giảm cho bị cáo từ 12 đến 18 tháng tù để thể hiện tính khoan hồng, nhân đạo của pháp luật, tạo điều kiện cho bị cáo an tâm cải tạo, sớm trở về với gia đình xã hội.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án; ý kiến trình bày của bị cáo; ý kiến của đại diện Viện kiểm sát tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Tại phiên tòa phúc thẩm bị cáo Dương Văn T thành khẩn khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội, lời khai nhận của bị cáo phù hợp với lời khai của bị cáo trong quá trình điều tra, phiên tòa sơ thẩm, các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án và phù hợp với lời khai của các bị cáo khác trong cùng vụ án đã được xét xử tại Bản án số 109/2021/HS-ST ngày 09/4/2021 của Tòa án nhân dân thành phố HN và Bản án số 430/2018/HS-ST ngày 13/11/2018 của Tòa án nhân dân thành phố HN, nên có đủ cơ sở kết luận: Trong khoảng thời gian từ ngày 09 đến ngày 11/10/2016, Dương Văn T đã nhiều lần cùng các đối tượng Đỗ Trung H, Lê Văn T1, Phạm Ngọc A, Bùi Nguyên G, Nguyễn Mạnh Đăng, Nguyễn Đức T4 tổ chức cho 20 đối tượng gồm: Nguyễn Trí G1, Đỗ Trường G2, Hà Văn C, Nguyễn Văn V, Vi Văn Q, Đới Xuân T5, Đặng Ngọc K, Nguyễn Văn D, Nguyễn Văn T6, Vũ H1, Nông Thị N, Đặng Kim N1, Đinh Thị Y, Dương Thị H2, Lê Văn T7, Vũ Văn H3, Nguyễn Hồng N2, Hoàng Văn H4, Nguyễn Văn T8 và Nguyễn Thị Bích T9 tham gia đánh bạc bằng hình thức xóc đĩa ăn tiền tại các địa điểm khác nhau trên địa bàn thành phố HN gồm: khu vực Làng C, phường YH, CG, HN; khu vực gần cầu PL, huyện ĐA; khu vực TX, phường XĐ, quận BTL và tại phòng 1203 toà nhà chung cư Cảnh sát 113 đường TK, phường YH, CG, HN. Hình thức đánh bạc là chơi xóc đĩa, để thu tiền “phế” 1.000.000 đồng/người tham gia đánh bạc. Mỗi ngày, Thao tổ chức 02 ca, thời gian ca chiều từ 15 giờ đến 17 giờ, ca tối từ 23 giờ đến 02 giờ sáng hôm sau. Thao trực tiếp chuẩn bị các dụng cụ gồm ghế nhựa, thảm, bộ bát, đĩa bằng sứ, cắt quân vị; phân công các đối tượng H5 (chưa được xác định được nhân thân) tìm thuê địa điểm, liên hệ đưa, đón các con bạc đến đánh bạc; thuê Đỗ Trung H làm người xóc cái; thuê Lê Văn T1 làm “trật tự”, sắp xếp vị trí ghế ngồi cho các con bạc và thu dọn dụng cụ sau khi kết thúc ca đánh bạc; thuê Nguyễn Mạnh Đ1, Bùi Nguyên G, Nguyễn Đức T4 làm nhiệm vụ canh gác và trả công từ 200.000 đồng đến 500.000 đồng/01 người/01 ca. Khoảng 17 giờ ngày 11/10/2016 khi Dương Văn T cùng các đối tượng Đỗ Trung H, Lê Văn T1, Phạm Ngọc A, Bùi Nguyên G, Nguyễn Mạnh Đăng, Nguyễn Đức T4 đang tổ chức đánh bạc tại phòng 1203, tòa nhà Chung cư Cảnh sát 113, đường TK, phường YH, quận CG, HN thì bị Tổ công tác của phòng Cảnh sát hình sự Công an thành phố HN phát hiện, bắt quả tang, thu giữ vật chứng gồm: 01 bát sứ, 01 đĩa sứ, 04 quân vị được cắt từ quân bài Chắn, 20 chiếc ghế nhựa, 01 thảm màu đỏ và số tiền sử dụng để đánh bạc là 504.400.000 đồng; trong đó thu tại chiếu bạc là 491.400.000 đồng và thu trên người các con bạc tổng số tiền dùng để đánh bạc là 13.400.000 đồng. Thu giữ của Dương Văn T 01 (một) điện thoại di động hiệu Iphone 6 có Imei số 353256076341909 (đã qua sử dụng). Kết quả điều tra xác định Dương Văn T đã hưởng lợi bất chính tổng số tiền 95.000.000 đồng. Tòa án cấp sơ thẩm đã xét xử bị cáo Dương Văn T về tội “Tổ chức đánh bạc” theo điểm b khoản 2 Điều 249 Bộ luật Hình sự năm 1999 là có căn cứ, đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.

[2] Xét kháng cáo xin giảm hình phạt của bị cáo T, Hội đồng xét xử phúc thẩm thấy rằng: Bị cáo nhiều lần tổ chức cho các đối tượng tham gia đánh bạc sát phạt nhau bằng tiền, trực tiếp phân công các đối tượng tìm thuê địa điểm để đánh bạc, liên hệ đưa đón các con bạc đến đánh bạc, thuê người làm xóc cái, làm hồ lỳ, làm trật tự, người canh gác, mỗi ngày tổ chức làm hai ca để thu lợi bất chính. Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, cần phải cách ly bị cáo khỏi xã hội một thời gian mới đảm bảo tính răn đe, giáo dục, phòng ngừa chung. Tòa án cấp sơ thẩm đã xem xét các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với bị cáo như: phạm tội từ hai lần trở lên, khai báo thành khẩn, ăn năn hối cải và áp dụng điểm g khoản 1 Điều 52 và điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015 đối với bị cáo là có căn cứ, đúng pháp luật. Tuy nhiên, hồ sơ vụ án thể hiện: Trong quá trình điều tra Dương Văn T có biểu hiện mắc bệnh tâm thần nên Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố HN đã ra Quyết định trưng cầu Viện pháp y Tâm thần Trung ương - Bộ Y tế giám định pháp y tâm thần đối với Dương Văn T. Tại bản Kết luận giám định pháp y tâm thần số 47/KLGĐ ngày 19/01/2017 của Viện pháp y Tâm thần Trung ương - Bộ Y tế, kết luận: “Trước, trong, sau khi phạm tội và thời điểm hiện tại (thời điểm giám định) bị cáo Dương Văn T bị rối loạn nhân cách thực tổn. Theo phân loại bệnh quốc tế lần thứ 10 năm 1992 có mã bệnh F07.0. Tại thời điểm phạm tội bệnh ở giai đoạn ổn định bị cáo đủ khả năng nhận thức, hạn chế khả năng điều khiển hành vi. Tại thời điểm giám định bệnh ở giai đoạn tái phát bị cáo hạn chế khả năng nhận thức và điều khiển hành vi”. Theo bản Kết luận giám định pháp y tâm thần số 47/KLGĐ ngày 19/01/2017 của Viện pháp y Tâm thần Trung ương - Bộ Y tế, thì tại thời điểm phạm tội bị cáo bị hạn chế khả năng điều khiển hành vi nên cần phải áp dụng điểm q khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015 đối với bị cáo. Tòa án cấp sơ thẩm chưa áp dụng cho bị cáo là thiếu sót, Hội đồng xét xử cấp phúc thẩm sẽ bổ sung tại bản án phúc thẩm. Ngoài ra, gia đình bị cáo xuất trình các tài liệu thể hiện: Bị cáo có cậu ruột là liệt sỹ; hoàn cảnh gia đình bị cáo khó khăn, vợ đã chết, các con còn nhỏ hiện nay đang do chị gái của bị cáo nuôi dưỡng, bố mẹ già yếu thường xuyên mắc bệnh; Chị Dương Thị Minh T là chị gái của bị cáo đã thay bị cáo nộp tiền thu lợi bất chính và án phí hình sự sơ thẩm theo quyết định của bản án sơ thẩm là 95.200.000 đồng tại Biên lai thu tiền số 0023441 ngày 29/11/2023 của Cục Thi hành án dân sự thành phố HN và không yêu cầu bị cáo phải hoàn trả. Đây là các tình tiết giảm nhẹ mới được quy định tại khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự năm 2015. Xét thấy, tại phiên tòa phúc thẩm bị cáo xuất trình được thêm nhiều tình tiết giảm nhẹ mới, đại diện Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Hà Nội tham gia phiên tòa đề nghị giảm hình phạt cho bị cáo, nên có căn cứ chấp nhận kháng cáo của bị cáo, giảm một phần hình phạt cho bị cáo để thể hiện tính khoan hồng, nhân đạo của pháp luật, tạo điều kiện cho bị cáo an tâm cải tạo, sớm trở về với gia đình xã hội.

[3] Tại Bản án hình sự phúc thẩm số 919/2023/HSPT ngày 12/12/2023 của Tòa án nhân dân cấp cao tại Hà Nội đã xử phạt bị cáo Dương Văn T 13 năm tù về tội “Giết người”. Bản án phúc thẩm nêu trên đã có hiệu lực pháp luật, nên căn cứ Điều 56 Bộ luật hình sự năm 2015, Hội đồng xét xử quyết định tổng hợp hình phạt của hai bản án đối với bị cáo theo quy định pháp luật.

[4]. Án phí: Kháng cáo của bị cáo được chấp nhận nên bị cáo Dương Văn T không phải chịu án phí hình sự phúc thẩm.

[5] Các quyết định khác của bản án hình sự sơ thẩm không có kháng cáo, không bị kháng nghị có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào điểm b khoản 1, khoản 2 Điều 355; điểm c khoản 1 Điều 357 Bộ luật Tố tụng hình sự; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 của Uỷ ban Thường vụ Quốc hội quy định về án phí, lệ phí Tòa án.

Chấp nhận kháng cáo của bị cáo Dương Văn T; sửa một phần Bản án hình sự sơ thẩm số 322/2023/HS-ST ngày 31 tháng 7 năm 2023 của Tòa án nhân dân thành phố HN, cụ thể:

1. Áp dụng điểm b khoản 2 Điều 249 Bộ luật Hình sự năm 1999; điểm g khoản 1 Điều 52; điểm q, s khoản 1, 2 Điều 51; Điều 56, Điều 38 Bộ luật hình sự năm 2015.

Xử phạt: Dương Văn T 03 (Ba) năm tù về tội “Tổ chức đánh bạc”.

Tổng hợp với hình phạt 13 (Mười ba) năm tù của Bản án hình sự phúc thẩm số 919/2023/HS-PT ngày 12/12/2023 của Tòa án nhân dân cấp cao tại Hà Nội xử phạt bị cáo T về tội “Giết người”. Buộc bị cáo Dương Văn T phải chấp hành hình phạt chung của hai bản án là 16 (Mười sáu) năm tù.

Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt tạm giữ, tạm giam trong vụ án khác từ ngày 13/02/2023. Được trừ thời gian bị tạm giữ, tạm giam từ ngày 11/10/2016 đến ngày 23/02/2017 và từ ngày 26/8/2014 đến ngày 24/3/2015.

2. Về án phí: Bị cáo Dương Văn T không phải chịu án phí hình sự phúc thẩm. Xác nhận bị cáo đã nộp đủ 95.200.000 đồng tiền hưởng lời bất chính và tiền án phí hình sự sơ thẩm theo Biên lai thu tiền số 0023441 ngày 29/11/2023 của Cục Thi hành án dân sự thành phố HN.

3. Các quyết định khác của bản án hình sự sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

4. Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

78
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội giết người số 31/2024/HS-PT

Số hiệu:31/2024/HS-PT
Cấp xét xử:Phúc thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân cấp cao
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 12/01/2024
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về