Bản án về tội giết người số 296/2022/HS-PT

TÒA ÁN NHÂN DÂN CẤP CAO TẠI ĐÀ NẴNG

BẢN ÁN 296/2022/HS-PT NGÀY 09/08/2022 VỀ TỘI GIẾT NGƯỜI

Ngày 09 tháng 8 năm 2022, tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Quảng Nam, xét xử phúc thẩm công khai vụ án dân sự thụ lý số 191/2022/TLPT-DS ngày 23 tháng 5 năm 2022 đối với bị cáo Trần Văn T về tội “Giết người”. Do Bản án hình sự sơ thẩm số 10/2022/HS-ST ngày 13/4/2022 của Tòa án nhân dân tỉnh Quảng Nam bị kháng cáo.

* Bị cáo có kháng cáo:

Trần Văn T, sinh ngày 15 tháng 4 năm 1999 tại huyện N, tỉnh Quảng Nam; nơi đăng ký HKTT và chỗ ở hiện nay: thôn P, xã T1, huyện N, tỉnh Quảng Nam; nghề nghiệp: lao động phổ thông (phụ xe); trình độ văn hóa: Lớp 9/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Trần Văn T2, sinh năm 1972 (đã chết) và bà Nguyễn Thị P1, sinh năm 1980; bị cáo là con đầu trong gia đình có 02 anh em; bị cáo chưa có vợ, con; tiền án, tiền sự: Không;

Bị cáo bị tạm giữ từ ngày 26/10/2020 (trong trường hợp khẩn cấp), chuyển tạm giam từ ngày 04/11/2020, hiện đang bị tạm giam tại Trại tạm giam Công an tỉnh Quảng Nam; có mặt tại phiên tòa.

* Người bào chữa cho bị cáo Trần Văn T theo yêu cầu của cơ quan tiến hành tố tụng: Ông Doãn Xuất C, Luật sư thuộc Văn phòng Luật sư D, thuộc Đoàn Luật sư tỉnh Quảng Nam. Vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 17 giờ ngày 25/10/2020, sau khi khai thác Keo lá tràm của gia đình thì chị Nguyễn Thị P1 (thôn P, xã T1, huyện N, tỉnh Quảng Nam) có mua đồ ăn, rượu để tổ chức ăn nhậu tại nhà bà Nguyễn Thị Tr (trú cùng thôn). Tham dự gồm có: Trần Văn T (con trai của chị P1), anh Nguyễn K, anh Trần Đức M, anh Đoàn Ngọc B1, anh Nguyễn Thành V (đều trú tại thôn P, xã T1, huyện N, tỉnh Quảng Nam) và anh Lê Hữu Th (trú tại Số 645/6 đường P2, thành phố Tam Kỳ, tỉnh Quảng Nam). Sau khi ăn nhậu được một lúc thì anh M có việc nên đi về trước, anh V được vợ là chị Nguyễn Thị Kim A (trú cùng thôn) gọi về để đi đón con; mọi người còn lại tiếp tục ăn nhậu.

Trong lúc ăn nhậu thì T nghe điện thoại của bạn gọi đến, khi nói chuyện điện thoại T có những lời nói tục tĩu nên anh B1 (ngồi bên phải của T) khuyên bảo và quơ tay ngang làm điện thoại của T rơi xuống đất; T nhặt điện thoại lên và tiếp tục nhậu. Tiếp theo đó, anh Th có hỏi tuổi tác của chị P1 và nói vài câu đùa giỡn với chị P1 (ngồi cách đó khoảng 02 mét) thì T nghĩ rằng anh Th đang chọc ghẹo mẹ của mình nên giữa T và anh Th cãi nhau. Lúc này, thấy anh Th đứng dậy thì T liền dùng tay quật ngã anh Th xuống nền nhà làm cho anh Th bị rách da bên trong môi dưới, gây chảy máu; thấy vậy nên mọi người can ngăn, anh K dẫn T xuống nhà bếp nói chuyện, còn anh Th và anh B1 đi về nhà.

Trong lúc nói chuyện với anh K, T sờ tay vào túi quần bên trái thì thấy 01 con dao xếp có cán và lưỡi bằng kim loại ( con dao dài 9,5 cm; rộng 1,5 cm; lưỡi dao dài 7,5 cm có đầu nhọn; nguồn gốc con dao này là T nhặt được tại chân cầu vượt TH, xã T1, huyện N trong ngày 25/10/2020). Lúc này, do vẫn còn bực tức vì mâu thuẫn với anh Th nên T chạy ngược lên nhà trên, đồng thời rút con dao xếp trong túi quần ra và cầm dao bằng tay trái chạy ra ngoài đường đất cách nhà bà Tr khoảng 10 mét. Do trời tối, không đèn đường chiếu sáng nên T nghĩ anh B1 là anh Th đang đi bộ nên chạy đến cầm dao đâm mạnh 01 nhát từ phía sau vào vùng bụng trái của anh B1 khiến anh B1 gục xuống đất. T thì bị con dao xếp gây thương tích ở ngón tay trỏ trái chảy máu.

Tiếp đó, T chạy vào lại trong sân nhà bà Tr thì nhìn thấy chị Nguyễn Thị Kim A đang đứng ở trước cửa ra vào của nhà chị A (nhà chị A sát bên cạnh nhà bà Tr; lúc này chị A đang mang thai tuần thứ 35), chị A nhìn thấy anh V từ trong nhà chuẩn bị đi ra, sợ bị liên lụy nên chị A nói anh V đi vào trong nhà, còn chị A đứng ngoài cửa, trong tư thế quay mặt vào trong nhà. Bất ngờ T cầm dao bằng tay trái, nhảy qua tường rào nhà bà Tr và lao tới đâm 01 (một) nhát vào vùng phía lưng, hông bên phải của chị A gây thương tích.

Sau khi gây thương tích cho anh B1 và chị A, T điều khiển xe mô tô mang biển kiểm soát 92N8-1221 (xe đứng tên của ông Nguyễn H2; trú tại: thôn P3, xã T3, huyện P4, tỉnh Quảng Nam) đi xuống nhà anh Mai Văn V1 (trú cùng thôn). Khi đến cách nhà anh V1 khoảng 30 mét thì T dựng xe mô tô ở giữa đường rồi đi bộ vào nhà, T vừa đi vừa hét: “Mấy thằng đòi đánh tao, mày muốn chết không, tao đâm luôn”. Lúc này, mẹ của anh V1 nghe vậy nên nói anh V1 đi xuống nhà dưới và khuyên bảo T đi về. T đi ra ngoài sân rồi quay vào lại, thấy vậy anh V1 khóa cửa lại nhưng bị T dùng tay giật cửa ra; vì sợ T dùng dao đâm mình nên anh V1 đã dùng chân đạp T ngã xuống đất, khống chế và tước dao trên tay của T, đồng thời truy hô và báo cáo Công an xã T1, huyện N đến lập biên bản sự việc.

Đối với anh Đoàn Ngọc B1 và chị Nguyễn Thị Kim A sau khi bị T gây thương tích đã được mọi người đưa đến Bệnh viện đa khoa Trung ương Quảng Nam để cấp cứu và điều trị. Đến ngày 04/11/2020 thì anh B1 được xuất viện; riêng đối với chị A được hội chẩn và chuyển mổ cấp cứu để lấy thai nhi (bé trai nặng 2400 gram), đến ngày 11/11/2020 thì chị A được xuất viện.

* Tại Bản kết luận giám định số: 1418/C09C-Đ3 ngày 30/11/2021 của Phân viện Khoa học hình sự tại TP Đà Nẵng kết luận: Trên con dao có máu của Trần Văn T và Nguyễn Thị Kim A. Trong chất màu đỏ đã khô nghi máu đựng trong túi niêm phong mã số PS3A084136 có máu của Đoàn Ngọc B1 và Trần Văn T. Trong chất màu đỏ đã khô nghi máu đựng trong túi niêm phong mẫu số PS3A084141 và PS3A084147 có máu của Trần Văn T. Trong chất màu đỏ đã khô nghi máu đựng trong túi niêm phong mã số PS3A084148 có máu của Nguyễn Thị Kim A.

* Tại Bản kết luận thương tích số: 397/GĐTT.20 ngày 30/10/2020 của Trung tâm Pháp y tỉnh Quảng Nam kết luận thương tích của anh Đoàn Ngọc B1 26% và Bản kết luận giám định bổ sung thương tích số: 294/GĐTT.21 ngày 04/8/2021 của Trung tâm Pháp y tỉnh Quảng Nam mô tả và kết luận thương tích đối với anh Đoàn Ngọc B1 cụ thể như sau:

- Thương tích chi tiết: Vùng hạ sườn bên trái có vết rách thủng da và cơ đã lành sẹo dài 01 cm, rộng 0,1 cm. Hướng từ trước ra sau, tầm ngang. Vùng hạ sườn phải có vết mổ nội soi đã lành sẹo dài 01 cm, rộng 0,2 cm. Vùng bụng, sát dưới rốn có vết mổ nội soi đã lành sẹo hình gần tròn đường kính 0,5 cm. Hố chậu bên trái có vết mổ nội soi đã lành sẹo dài 01 cm, rộng 0,2 cm.

- Kết luận: Tổn thương chủ yếu hiện tại còn thấy được ở trên bệnh nhân là vết rách da, vết mổ như đã nêu ở trên. Vết thương thấu bụng gây rách mạc nối lớn, tụ máu sau dạ dày đã được phẫu thuật khâu cầm máu. Không tổn thương xương. Không có dấu hiệu thần kinh khu trú. Tỉ lệ thương tích tại thời điểm hiện tại 21%.

* Tại Công văn số: 174/GĐPY ngày 13/10/2021 của Trung tâm Pháp y tỉnh Quảng Nam về việc giải thích đối với thương tích trên cơ thể anh B1 như sau: vùng bụng là vùng nguy hiểm vì bên trong có chứa các bộ phận: lách, thận, dạ dày, đại tràng, ruột non,... Trong trường hợp này, vết thương ở vùng hạ sườn bên trái chưa phải là vùng trọng yếu chỉ gây rách mạc nối lớn, nếu không cấp cứu kịp thời thì cũng khó có khả năng dẫn đến chết người nhưng lại kéo dài thời gian điều trị.

* Tại Bản kết luận thương tích số: 398/GĐTT.20 ngày 30/10/2020 của Trung tâm Pháp y tỉnh Quảng Nam kết luận thương tích của chị Nguyễn Thị Kim A là 51% và Bản kết luận giám định bổ sung thương tích số: 293/GĐTT.21 ngày 04/8/2021 của Trung tâm Pháp y tỉnh Quảng Nam mô tả và kết luận thương tích đối với chị Nguyễn Thị Kim A:

- Thương tích chi tiết: Vùng lưng hông bên phải, dưới bờ sườn phía sau bên có vết rách thủng da và cơ đã lành sẹo dài 1,4 cm, rộng 0,1 cm. Vết thương do vật sắc cạnh gây nên. Hướng từ sau ra trước, từ trên xuống dưới, hơi chếch từ phải sang trái. Vùng bụng, dọc đường giữa trên dưới rốn có vết mổ đã lành để lại sẹo lồi dài 14,5 cm, rộng 0,5 cm. Bụng mềm, phản ứng thành bụng (-). Niêm mạc, kết mạc mắt hai bên hồng, không thấy dấu hiệu thiếu máu. Đại tiện, tiểu tiện được bình thường, nước tiểu màu vàng trong. Vùng hạ sườn phải có vết mổ dẫn lưu đã lành sẹo dài 0,6 cm, rộng 0,2 cm.

- Kết luận: Tổn thương chủ yếu hiện tại còn thấy được ở trên bệnh nhân là vết rách thủng da, cơ và vết mổ như đã nêu ở trên. Không tổn thương xương. Không có dấu hiệu thần kinh khu trú. Vết thương vùng lưng hông bên phải gây thủng nhu mô gan hạ phân thùy VII, đứt tuyến thượng thận đã được phẫu thuật khâu cầm máu nhu mô gan hạ phân thùy VII và tuyến thượng thận tạm ổn định. Thai 36 tuần dọa sẩy đã được chuyển mổ cấp cứu lấy thai nhi là một bé trai nặng 2400 gram, sống bình thường.

Với hung khí được Cơ quan CSĐT Công an tỉnh Quảng Nam mô tả và so sánh, đối chiếu với vết thương trên người chị Nguyễn Thị Kim A, chúng tôi nhận thấy vết thương ở vùng lưng hông bên phải gây nên thủng nhu mô gan hạ phân thùy VII, đứt tuyến thượng thận nếu không cấp cứu kịp thời thì có nhiều khả năng năng dẫn đến chết người. Tỉ lệ thương tích tại thời điểm hiện tại 51%.

Tại Cơ quan điều tra, Trần Văn T thừa nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình phù hợp với tài liệu, chứng cứ do Cơ quan điều tra thu thập được.

Tại Bản án hình sự sơ thẩm số 10/2022/HS - ST ngày 13/4/2022 của Tòa án nhân dân tỉnh Quảng Nam đã quyết định:

Tuyên bố bị cáo Trần Văn T phạm tội “Giết người”.

Áp dụng các điểm a, c, n khoản 1 Điều 123; điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 15 và khoản 3 Điều 57 của Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017).

Xử phạt: Bị cáo Trần Văn T 14 (Mười bốn) năm tù; thời hạn chấp hành hình phạt tù được tính từ ngày bị bắt tạm giữ (ngày 25/10/2020).

Ngoài ra, bản án sơ thẩm còn quyết định về phần xử lý vật chứng, án phí sơ thẩm và công bố quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.

Ngày 23/4/2022, bị cáo Trần Văn T kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt.

Tại phiên tòa phúc thẩm:

Bị cáo Trần Văn T vẫn giữ nguyên nội dung kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt, với nội dung: Bị cáo chỉ gây thương tích cho anh Đoàn Ngọc B1 21% và cho chị Nguyễn Thị Kim A 51%, chứ bị cáo không cố ý giết người, nhưng Tòa án nhân dân tỉnh Quảng Nam xử bị cáo 14 năm tù là quá nặng. Bị cáo đã biết ăn năn hối cải, khai báo thành khẩn; gia đình bị cáo có hoàn cảnh khó khăn, cha mất từ nhỏ nên bị cáo thiếu sự giáo dục của gia đình, bị cáo nghỉ học sớm làm nông với mẹ nuôi bà nội 75 tuổi; nên xin được giảm nhẹ để sớm trở về lo cho gia đình.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Đà Nẵng phát biểu quan điểm về vụ án cho rằng: Về tố tụng, HĐXX tuân thủ đúng các quy định của pháp luật; về nội dung, căn cứ vào các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án, đã có đủ căn cứ xác định Tòa án cấp sơ thẩm xét xử các bị cáo là đúng người, đúng tội. Tại phiên tòa hôm nay, mặc dù bị cáo Trần Văn T có cung cấp được một số tình tiết giảm nhẹ mới theo, nhưng bị cáo có nhiều tình tiết tăng nặng nên không có cơ sở xem xét chấp nhận kháng cáo giảm nhẹ hình phạt

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về tố tụng: Tại phiên tòa hôm nay, luật sư Doãn Xuất C tham gia bào chữa cho bị cáo theo chỉ định của cơ quan tiến hành tố tụng nhưng vắng mặt và cũng không gửi luận cứ bào chữa. Tuy nhiên, bị cáo Trần Văn T đồng ý không phải hoãn phiên tòa và bị cáo từ chối luật sư bào chữa; vì vậy HĐXX tiếp tục tiến hành phiên tòa theo quy định.

[2] Xét nguyên nhân, hành vi, hậu quả, kết quả bản án sơ thẩm đối với bị cáo Trần Văn T, HĐXX thấy rằng: Lúc 17 giờ ngày 25/10/2020, khi đang ăn uống tại nhà, bị cáo T cho rằng anh Lê Hữu Th hỏi thăm tuổi tác mẹ mình là chọc ghẹo mẹ nên bị cáo có hành vi quật ngã anh Th xuống nền nhà làm cho anh Th bị rách da bên trong môi dưới, gây chảy máu. Khi mọi người can ngăn, anh Th về nhà; bị cáo dùng dao con dao dài 9,5 cm; rộng 1,5 cm; lưỡi dao dài 7,5 cm có đầu nhọn đi tìm anh Th nhưng lại vô cớ đâm vào bụng trái anh Đoàn Ngọc B1 với tỷ lệ thương tích 21% và đâm vào lưng hông bên phải chị Nguyễn Thị Kim A đang mang thai (phải mổ cấp cứu thai nhi) có tỷ lệ thương tích là 51%. Với hành vi và hậu quả như trên, Tòa án cấp sơ thẩm đã xử phạt bị cáo 14 năm tù về tội “Giết người” theo điểm n khoản 1 Điều 123 BLHS là có căn cứ pháp luật.

[3] Xét kháng cáo xin giảm nhẹ của bị cáo thì thấy: Mặc dù không mâu thuẫn gì, nhưng bị cáo trực tiếp dùng hung khí nguy hiểm là con dao nhọn đâm vào vùng nguy hiểm của hai người bị hại, trong đó có một người phải mổ khẩn cấp để cứu thai nhi; việc hai người bị hại không chết là do được cấp cứu kịp thời. Hành vi của bị cáo là côn đồ hung hãn, xem thường pháp luật và tính mạng của người khác. Bị cáo có nhiều tình tiết định khung tăng nặng như giết 02 người trở lên, giết phụ nữ mà biết là đang mang thai, giết người có tính chất côn đồ; bị cáo có nhiều tình tiết giảm nhẹ như thành khẩn khai báo; ăn năn hối cải; bồi thường cho bị hại; do vậy Tòa án cấp sơ thẩm áp dụng các điểm a, c, n khoản 1 Điều 123 ( có khung hình phạt tù từ 12 năm đến 20 năm, tù chung thân hoặc tử hình); áp dụng điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 15 và khoản 3 Điều 57 về phạm tội chưa đạt của Bộ luật Hình sự, tuyên phạt bị cáo 14 năm là phù hợp. Bị cáo kháng cáo có cung cấp được một số tình tiết giảm nhẹ mới theo khoản 2 Điều 51 như: Những người bị hại có đơn xin giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo; địa phương xác nhận bị cáo có hoàn cảnh khó khăn do cha mất sớm, mẹ lao động nông nghiệp phải nuôi mẹ già trên 75 tuổi. Tuy nhiên, HĐXX xét thấy: Bị cáo có nhiều tình tiết tăng nặng định khung hình phạt, tỷ lệ thương tích của 2 người lên đến 72%, một trẻ sơ sinh phải đẻ non bằng mổ cấp cứu rất nguy hiểm đến tính mạng; nên không thể xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

[4] Về án phí: Kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt của bị cáo không được chấp nhận, nên bị cáo phải chịu án phí hình sự phúc thẩm theo quy định.

[5] Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, không bị kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ điểm b khoản 1 Điều 355, Điều 356 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015.

1. Không chấp nhận kháng cáo của bị cáo Trần Văn T về việc xin giảm nhẹ hình phạt; giữ nguyên Bản án hình sự sơ thẩm số 10/2022/HS - ST ngày 13/4/2022 của Tòa án nhân dân tỉnh Quảng Nam.

Tuyên bố bị cáo Trần Văn T phạm tội “Giết người”.

Áp dụng các điểm a, c, n khoản 1 Điều 123; điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 15 và khoản 3 Điều 57 của Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017).

Xử phạt: Bị cáo Trần Văn T 14 (Mười bốn) năm tù; thời hạn chấp hành hình phạt tù được tính từ ngày bị bắt tạm giữ (ngày 25/10/2020).

2. Về án phí: Căn cứ Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc Hội “Quy định về về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng áp phí và lệ phí Tòa án”.

Bị cáo Trần Văn T phải chịu 200.000đ án phí hình sự phúc thẩm.

3. Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, không bị kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án (09/8/2022).

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

324
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội giết người số 296/2022/HS-PT

Số hiệu:296/2022/HS-PT
Cấp xét xử:Phúc thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân cấp cao
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành:09/08/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về