Bản án về tội giết người số 29/2023/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ CẦN THƠ

BẢN ÁN 29/2023/HS-ST NGÀY 11/12/2023 VỀ TỘI GIẾT NGƯỜI

Ngày 11 tháng 12 năm 2023, tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Cần Thơ xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 33/2023/TLST-HS ngày 20 tháng 10 năm 2023 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 30/2023/QĐXXST-HS ngày 20 tháng 11 năm 2023 đối với bị cáo:

Họ và tên: Nguyễn Quốc T, sinh ngày 15/01/2001 tại Bạc Liêu. Nơi thường trú: ấp T, xã V, huyện Phước Long, tỉnh Bạc Liêu; chỗ ở: khu vực X, phường A, quận Bình Thủy, thành phố Cần Thơ; giới tính: nam; quốc tịch: Việt Nam; dân tộc: Kinh; tôn giáo: không; trình độ học vấn: 12/12; nghề Nệp: sinh viên; con ông Nguyễn Văn M, sinh năm 1966 và bà Phạm Thị N, sinh năm 1963; bị cáo chưa có vợ, con. Tiền án, tiền sự: không.

Bị cáo bị bắt, tạm giữ, tạm giam từ ngày 10/5/2023 cho đến nay và có mặt tại phiên tòa.

* Người bào chữa cho bị cáo: Luật sư Tẩn Thị Y – Văn phòng Luật sư Võ T1 Tĩnh, Đoàn Luật sư thành phố Cần Thơ. Có mặt.

* Bị hại: Ông Nguyễn Văn L, sinh năm 2003; Địa chỉ: ấp B, xã M, huyện Cao Lãnh, tỉnh Đồng Tháp.

* Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: Bà Phạm Thị N, sinh năm 1963; Địa chỉ: ấp T, xã V, huyện Phước Long, tỉnh Bạc Liêu.

* Người làm chứng:

- Ông Đặng Bửu T1, sinh năm 1981.

- Ông Danh Quốc T2, sinh năm 2003.

- Ông Trần Vĩnh N1, sinh năm 2003.

- Ông Nguyễn Hữu M, sinh năm 2003.

- Ông Nguyễn Nhật H, sinh năm 2003.

- Ông Nguyễn Quốc H1, sinh năm 2003.

(Bà N có mặt, các đương sự còn lại vắng mặt)

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Nguyễn Quốc T và Nguyễn Văn L là bạn học cùng lớp Điện công Nệp 2 thuộc Trường Cao đẳng nghề Cần Thơ niên khóa 2021 – 2024, T là lớp trưởng còn L là sinh viên; T vừa học vừa làm công cho quán của Đặng Bửu T1 được một thời gian thì nghỉ nhưng chưa nhận đủ tiền công. Sau đó, T vào lớp học kể cho L và các bạn trong lớp học nghe. Đồng thời trong học kỳ I năm học 2022 – 2023, L điện thoại nhờ T chấm điểm đánh giá rèn luyện của L nộp cho thầy chủ nhiệm để nhà trường làm cơ sở đánh giá cho sinh viên. Sau khi biết mình có điểm đánh giá rèn luyện thấp nhất lớp, L cảm thấy bực tức và cho rằng T là bạn thân mà không giúp đỡ, kể từ đó L phát sinh mâu thuẫn với T.

Khoảng 10 giờ ngày 08/5/2023, L tiếp tục nhắn tin hẹn T đi cùng L đến gặp anh T1 để nói chuyện thì được T đồng ý. Sau đó, L nói cho các bạn học cùng lớp là Trần Vĩnh N và Nguyễn Quốc H1 biết việc L hẹn gặp T để giải quyết mâu thuẫn. Sợ bạn học đánh nhau nên N rủ thêm Nguyễn Hữu M còn H1 rủ thêm Nguyễn Nhật H cùng đi đến nhà trọ của T để can ngăn. Sau khi tan học, L về phòng trọ lấy theo một cây gậy ba khúc bằng kim loại giấu trong người rồi điều khiển xe mô tô đến nhà trọ của T tại phường A, quận Bình Thủy, thành phố Cần Thơ và đứng chờ ngoài cổng. Còn T cầm theo 01 con dao xếp bằng kim loại, dài khoảng 21 cm, mũi nhọn giấu trong áo khoác dẫn xe mô tô biển số 94AH – 030xx để đi đến quán T1 nhưng khi ra đến cổng thì gặp L cầm gậy ba khúc trên tay và chặn T lại rồi nói “Mày mà chạy là tao tán cái cây vô đầu mày”, T hỏi L “Tao có nói xấu gì anh T1 đâu mà mày đi nói với anh T1 như vậy?”, L trả lời “Mày nói mà mày không dám nhận, chơi hèn, để tao gọi anh T1 vô”, L thu gậy ba khúc lại bỏ vào túi quần, lấy điện thoại gọi cho anh T1. T dựng xe vào lề đường rồi T và L tiếp tục cự cãi. Lúc này Danh Quốc T2 (là bạn học cùng với T, L) chở T1 đến. T đi lại chỗ T1 để giải thích thì L nói xen vào khiến T bực tức nên chửi L. L cầm mũ bảo hiểm đánh liên tiếp 02 cái trúng vào đầu của T đang đội nón bảo hiểm, T đẩy L ra rồi lấy dao trong túi áo khoác ra cầm trên tay phải, L cầm nón bảo hiểm xông tới đứng đối diện với T để đánh tiếp, T dùng dao đâm một nhát trúng vào ngực trái của L, L bỏ nón bảo hiểm xuống rút gậy ba khúc ra cầm bằng tay phải đập liên tiếp 02 cái trúng vào đầu của T đang đội nón bảo hiểm, hai bên giằng co với nhau và cùng ngã đè lên xe của T. Tiếp theo, L chồm tới dùng gậy ba khúc đập một cái trúng vào đầu của T đang đội nón bảo hiểm, T cầm dao đâm 02 cái về phía L nhưng không trúng. Lúc này, T1, N, T2, M, H và H1 chạy đến can ngăn, kéo T và L ra. T2 giật lấy con dao của T đưa cho M cất giữ, N giật lấy cây gậy ba khúc của L đưa cho M cất giữ. Sau khi được mọi người can ngăn thì T dựng xe lên và dẫn vào phòng trọ. Còn L bị đâm đi được khoảng 03 mét thì ngã xuống đường nên được M và H1 dùng xe mô tô chở vào Bệnh viện Đa khoa thành phố Cần Thơ cấp cứu đến ngày 16/5/2023 thì xuất viện.

Tại Bản kết luận giám định tổn thương cơ thể trên người sống số 266/KLTTCT – TTPYCT ngày 17/5/2022 của Trung tâm pháp y thành phố Cần Thơ kết luận:

- Vết thương vùng ngực trái cạnh xương ức ở khoang liên sườn VII – VIII gây thủng thành bên thất phải, tràn dịch máu màng ngoài tim, tràn dịch máu màng phổi trái, đã được điều trị phẫu thuật, hút máu tụ màng tim, dẫn lưu khoang màng phổi. Hiện tại vết thương, vết phẫu thuật và vết dẫn lưu chưa lành, chưa cắt chỉ.

- Tỷ lệ phần trăm tổn thương cơ thể của Nguyễn Văn L tại thời điểm giám định là 38% (ba mươi tám phần trăm). Cơ chế hình thành vết thương trên người của Nguyễn Văn L phù hợp với cơ chế do vật sắc nhọn gây ra. Chiều hướng vết thương từ trước ra sau, từ ngoài vào trong, từ dưới lên trên.

Tại Bản kết luận giám định vật gây thương tích số 269/KLVGTT – TTPYCT ngày 18/5/2022 của Trung tâm pháp y thành phố Cần Thơ kết luận: Mẫu vật có một cạnh sắc, mũi nhọn. Thương tích của Nguyễn Văn L phù hợp với cơ chế do vật sắc nhọn gây ra, mẫu vật gửi giám định (cây dao bằng kim loại dài 21cm, phần lưỡi dao 10cm, mũi nhọn) phù hợp với đặc điểm tổn thương, xác định mẫu vật giám định có khả năng gây ra được thương tích của Nguyễn Văn L.

Vật chứng thu giữ:

- Nguyễn Thị T giao nộp gồm: quần vải dài màu đen bên trong có ghi chữ “VTA Fashion”; áo khoác Jean tay dài, màu xanh và sọc caro màu đỏ đen, loại áo có trùm đầu, nút áo bằng kim loại màu trắng, bị cắt xẻ dọc theo ống tay áo; áo thun màu xám, đen, có viền vàng, tay ngắn, cổ tròn có dòng chữ “Nike” bị cắt xẻ dọc theo hai ống tay áo và trước ngực; 01 đôi dép quai ngang màu đen, phía trên có chữ “hai quai ngang”; điện thoại di động hiệu Samsung Galaxy A30 màu đen có số IMEI1: 354868101911792 (điện thoại đã qua sử dụng). Tất cả các đồ vật bà T giao nộp là của bị hại Nguyễn Văn L.

- Nguyễn Quốc T giao nộp: 01 (một) dao gấp có mũi nhọn, cán dao dài 11,5cm bằng kim loại màu vàng đen, lưỡi dao dài 9,5cm bằng kim loại màu vàng có nơi rộng nhất là 4,5cm; mũ bảo hiểm có màu trắng, đen, đỏ trên mũ có chữ “Designed in Italia”; quần thun ngắn màu đen, hai bên ống quần có sọc màu cam, phía trước quần có in số 17; áo khoác tay dài bằng vải dù màu đen xám, trước ngực có dòng chữ “Pante.Q”, có 3 sọc màu trắng song song dọc theo tay áo; áo thun tay ngắn màu đen, phía trước ngực có “Adidas”; điện thoại di động hiệu OPPO F11 màu tím có số IMEI1: 869035040703635, bên trong có gắn 02 sim số 0368.366xxx và 0945.42xxxx (điện thoại đã qua sử dụng) và xe mô tô Wave màu xanh đen, biển số 94AH-030xx có số máy: VZS139FMB24004810, số khung: RLPBVB7UMJB004810.

- Nguyễn Hữu M giao nộp: 01 (một) gậy ba khúc bằng kim loại có tổng chiều dài là 57,5cm, tay cầm được ốp xốp màu đen có đường kính là 2,5cm, phần đầu gậy có đường kính là 1,5cm.

- Trần Vĩnh N giao nộp: mũ bảo hiểm màu xanh, đen có dây quai nón màu đen, bên trong có chữ “NON VIET”.

Về trách nhiệm dân sự: gia đình Nguyễn Quốc T đã khắc phục hậu quả cho Nguyễn Văn L với tổng số tiền 35.000.000 đồng (ba mươi lăm triệu đồng), L không yêu cầu thêm về trách nhiệm dân sự.

Về trách nhiệm hình sự: Nguyễn Văn L và đại diện gia đình của L là bà Nguyễn Thị T (mẹ ruột của L) có đơn xin giảm nhẹ hình phạt cho Nguyễn Quốc T.

Tại Cáo trạng số 29/CT-VKS-P2 ngày 17/10/2023, Viện kiểm sát nhân dân thành phố Cần Thơ đã truy tố bị cáo Nguyễn Quốc T về tội “Giết người” theo khoản 2 Điều 123 Bộ luật hình sự.

* Tại phiên toà sơ thẩm hôm nay:

- Đại diện Viện kiểm sát giữ quyền công tố luận tội: Giữ nguyên nội dung cáo trạng truy tố về tội danh và điều khoản áp dụng đối với bị cáo. Sau khi phân tích tính chất, mức độ phạm tội, nhân thân, các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, Kiểm sát viên đề nghị tuyên bố: bị cáo Nguyễn Quốc T phạm tội “Giết người”. Đồng thời đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng khoản 2 Điều 123; điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 15; Điều 54; Điều 57 và Điều 38 Bộ luật Hình sự xử phạt Nguyễn Quốc T mức án từ 05 năm 06 tháng đến 06 năm 06 tháng tù.

Về xử lý vật chứng: Đối với điện thoại di động và xe mô tô đã thu giữ của người bị hại và của bị cáo không liên quan đến hành vi phạm tội nên đề nghị trả lại cho bị hại, bị cáo. Đối với các tài sản đã thu giữ còn lại đề nghị tịch thu tiêu hủy.

- Bào chữa cho bị cáo – Luật sư Tần Thị Y phát biểu: Thống nhất với quan điểm của Kiểm sát viên về tội danh, khung hình phạt, các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự mà Kiểm sát viên đã đề nghị áp dụng đối với bị cáo. Đề nghị khi lượng hình có xem xét đến hoàn cảnh gia đình của bị cáo thuộc thành phần lao động, bị cáo vừa đi học, vừa đi làm thêm để tự trang trải chi phí sinh hoạt hàng ngày. Bị cáo còn trẻ nên chưa đủ chín chắn trong suy nghĩ, thiếu kềm chế bản thân, sau khi sự việc xảy ra bị cáo đã rất ăn năn hối hận, tích cực thăm hỏi, bồi thường chi phí điều trị cho người bị hại. Đề nghị Hội đồng xét xử quyết định hình phạt cho bị cáo ở mức 05 năm tù đề tạo điều kiện cho bị cáo sớm hòa nhập cộng đồng.

Phát biểu lời nói sau cùng, bị cáo thừa nhận hành vi phạm tội, thể hiện sự ăn năn hối hận về hành vi đã thực hiện, xin Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt để sớm trở về đoàn tụ gia đình.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an thành phố Cần Thơ, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân thành phố Cần Thơ, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo, Luật sư bào chữa cho bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Về sự vắng mặt bị hại: Xét thấy người bị hại đã được triệu tập hợp lệ nhưng vẫn vắng mặt. Quá trình điều tra đã có lời khai và lời khai phù hợp với lời khai của bị cáo, phù hợp với tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ. Đồng thời, những người được triệu tập đến phiên tòa và đại diện Viện kiểm sát không ai có yêu cầu hoãn phiên tòa. Căn cứ Điều 292 Bộ luật tố tụng hình sự, Hội đồng xét xử vẫn tiến hành xét xử.

[3] Tại phiên tòa, bị cáo thừa nhận hành vi phạm tội như nội dung cáo trạng đã truy tố. Lời khai của bị cáo phù hợp với chứng cứ, tài liệu có trong hồ sơ vụ án. Hội đồng xét xử có đủ căn cứ để xác định:

[3.1] Ngày 08/5/2023, sau khi cự cãi và bị bị hại dùng nón bảo hiểm đánh vào đầu thì bị cáo đã dùng dao (loại dao gấp có mũi nhọn, cán dao dài 11,5cm bằng kim loại màu vàng đen, lưỡi dao dài 9,5cm bằng kim loại màu vàng có nơi rộng nhất là 4,5cm) là hung khí nguy hiểm đâm vào vùng ngực trái của bị hại gây thương tích.

[3.2] Tại Bản kết luận giám định tổn thương cơ thể trên người sống số 266/KLTTCT – TTPYCT ngày 17/5/2022 của Trung tâm pháp y thành phố Cần Thơ kết luận: Vết thương vùng ngực trái cạnh xương ức ở khoang liên sườn VII – VIII gây thủng thành bên thất phải, tràn dịch máu màng ngoài tim, tràn dịch máu màng phổi trái, đã được điều trị phẫu thuật, hút máu tụ màng tim, dẫn lưu khoang màng phổi. Hiện tại vết thương, vết phẫu thuật và vết dẫn lưu chưa lành, chưa cắt chỉ. Tỷ lệ phần trăm tổn thương cơ thể của Nguyễn Văn L tại thời điểm giám định là 38% (ba mươi tám phần trăm). Cơ chế hình thành vết thương trên người của Nguyễn Văn L phù hợp với cơ chế do vật sắc nhọn gây ra. Chiều hướng vết thương từ trước ra sau, từ ngoài vào trong, từ dưới lên trên.

[3.3] Việc dùng dao đâm vào ngực trái của bị hại, đây được xác định là vùng trọng yếu trên cơ thể dễ dẫn đến chết người, nhưng bị cáo vẫn cố ý thực hiện, việc bị hại không chết là do được đưa vào bệnh viện cấp cứu điều trị kịp thời. Hành vi của bị cáo đã đủ yếu tố cấu thành tội “Giết người” với tình tiết định khung theo quy định tại khoản 2 Điều 123 Bộ luật hình sự. Viện kiểm sát nhân dân thành phố Cần Thơ truy tố bị cáo theo tội danh và điều khoản đã viện dẫn là có căn cứ.

[4] Xét tính chất, mức độ phạm tội và tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của bị cáo trong vụ án:

[4.1] Hành vi phạm tội mà bị cáo thực hiện rất nguy hiểm cho xã hội, không chỉ trực tiếp xâm phạm đến sức khỏe, tính mạng của người khác được pháp luật bảo vệ mà còn gây ảnh hưởng xấu đến trật tự trị an tại địa phương. Bị cáo là người đã thành niên, có đầy đủ năng lực chịu trách nhiệm hình sự. Bị cáo nhận thức được hành vi của mình là vi phạm pháp luật, việc sử dụng dao đâm vào vùng ngực của người khác có khả năng tước đoạt mạng sống của bị hại nhưng vẫn bỏ mặc hậu quả để thực hiện hành vi với lỗi cố ý. Do đó, cần phải có mức hình phạt nghiêm tương xứng với tính chất, mức độ hành vi phạm tội để giáo dục, cải tạo bị cáo; đồng thời đảm bảo tác dụng răn đe và phòng ngừa chung cho xã hội.

[4.2] Trong quá trình điều tra cũng như tại phiên tòa, bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải; gia đình bị cáo đã tự nguyện bồi thường thiệt hại cho bị hại với tổng số tiền là 35.000.000 đồng, phía bị hại không yêu cầu gì thêm về trách nhiệm dân sự nên bị cáo được hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại các điểm b, s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự. Việc bị hại có đơn bãi nại xin giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo, cũng như sự việc xảy ra xuất phát một phần lỗi từ phía bị hại nên Hội đồng xét xử xem xét cho bị cáo hưởng các tình tiết giảm nhẹ theo quy định tại khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự.

[4.3] Bị cáo có 02 tình tiết giảm nhẹ theo quy định tại khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự, không bị áp dụng tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự. Đồng thời, sau khi sự việc xảy ra bị hại không chết nên thống nhất với đề nghị của Kiểm sát viên áp dụng Điều 54 và Điều 57 Bộ luật Hình sự khi quyết định hình phạt đối với bị cáo. Ngoài ra, việc bị cáo chưa có tiền án, tiền sự, phạm tội lần đầu cũng là vấn đề được Hội đồng xét xử cân nhắc khi lượng hình.

[5] Trên cơ sở đánh giá toàn diện nguyên nhân, hậu quả, tính chất, mức độ thực hiện hành vi phạm tội; về nhân thân và các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự như đã phân tích ở trên, xét thấy việc cách ly bị cáo ra khỏi xã hội với thời hạn 05 năm như đề nghị của Luật sư là phù hợp, đủ thời gian để bị cáo cải tạo, học tập, tu dưỡng bản thân và qua đó cũng thể hiện chính sách khoan hồng của pháp luật.

[6] Đối với hành vi của bị hại khi dùng mũ bảo hiểm và gậy ba khúc đánh trúng vào vùng đầu làm bể nón bảo hiểm của bị cáo đang đội trên đầu. Qua xem xét dấu vết trên cơ thể của bị cáo không phát hiện dấu vết và bị cáo cũng có đơn từ chối giám định thương tích và không yêu cầu xử lý hình sự đối với bị hại nên Hội đồng xét xử không đặt ra xem xét.

[7] Về trách nhiệm dân sự: gia đình của bị cáo đã bồi thường cho bị hại số tiền 35.000.000 đồng, bị hại và đại diện gia đình của bị hại cũng không có yêu cầu gì thêm về trách nhiệm dân sự nên Hội đồng xét xử không đặt ra xem xét.

[8] Về xử lý vật chứng:

- Cây dao gấp có mũi nhọn, cán dao dài 11,5cm bằng kim loại màu vàng đen, lưỡi dao dài 9,5cm bằng kim loại màu vàng có nơi rộng nhất là 4,5cm là công cụ dùng vào việc phạm tội nên tịch thu tiêu hủy.

- Gậy ba khúc bằng kim loại có tổng chiều dài là 57,5cm, tay cầm được ốp xốp màu đen có đường kính là 2,5cm, phần đầu gậy có đường kính là 1,5cm liên quan đến hành vi phạm tội nên tịch thu tiêu hủy.

- Áo, quần, nón bảo hiểm của bị cáo và bị hại không có/không còn giá trị sử dụng nên tịch thu tiêu hủy.

- Điện thoại di động và xe mô tô là tài sản cá nhân, không liên quan đến hành vi phạm tội nên trả lại cho chủ sở hữu.

[9] Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

1. Tuyên bố: Bị cáo Nguyễn Quốc T phạm tội “Giết người”.

Áp dụng: khoản 2 Điều 123; điểm b, s khoản 1 khoản 2 Điều 51; Điều 15; Điều 57; khoản 3 Điều 54 và Điều 38 Bộ luật hình sự.

Xử phạt: bị cáo Nguyễn Quốc T 05 (năm) năm tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 10/5/2023.

2. Về xử lý vật chứng: Áp dụng Điều 47 Bộ luật Hình sự, Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự.

- Tịch thu tiêu hủy: 01 (một) quần vải dài màu đen bên trong có ghi chữ “VTA Fashion” bị cắt xẻ dọc theo hai ống quần; 01 (một) áo khoác Jean tay dài, màu xanh và sọc caro màu đỏ đen, loại áo có trùm đầu, nút áo bằng kim loại màu trắng, bị cắt xẻ dọc theo ống tay áo; 01 (một) áo thun màu xám, đen, có viền vàng, tay ngắn, cổ tròn có dòng chữ “Nike” bị cắt xẻ dọc theo hai ống tay áo và trước ngực; 01 (một) đôi dép quai ngang màu đen, phía trên có chữ “hai quai ngang”; 01 (một) dao gấp có mũi nhọn, cán dao dài 11,5cm bằng kim loại màu vàng đen, lưỡi dao dài 9,5cm bằng kim loại màu vàng có nơi rộng nhất là 4,5cm; 01 (một) mũ bảo hiểm có màu trắng, đen, đỏ trên mũ có chữ “Designed in Italia”; 01 (một) quần thun ngắn màu đen, hai bên ống quần có sọc màu cam, phía trước quần có in số 17; 01 (một) áo khoác tay dài bằng vải dù màu đen xám, trước ngực có dòng chữ “Pante.Q”, có 3 sọc màu trắng song song dọc theo tay áo; 01 (một) áo thun tay ngắn màu đen, phía trước ngực có “Adidas”, trên mỗi ống tay áo có 3 sọc màu trắng song song dọc theo tay áo; 01 (một) gậy ba khúc bằng kim loại có tổng chiều dài là 57,5cm, tay cầm được ốp xốp màu đen có đường kính là 2,5cm, phần đầu gậy có đường kính là 1,5cm; 01 (một) mũ bảo hiểm màu xanh, đen có dây quai nón màu đen, bên trong có chữ “NON VIET”.

- Trả lại cho Nguyễn Văn L: 01 (một) điện thoại di động hiệu Samsung Galaxy A30 màu đen có số IMEI1: 354868101911792 (điện thoại đã qua sử dụng).

- Trả lại cho Nguyễn Quốc T: 01 (một) điện thoại di động hiệu OPPO F11 màu tím có số IMEI1: 869035040703635, bên trong có gắn 02 sim số 0368.366xxx và 0945.42xxxx (điện thoại đã qua sử dụng) và 01 (một) xe mô tô Wave màu xanh đen, biển số 94AH-030xx có số máy: VZS139FMB24004810, số khung: RLPBVB7UMJB004810.

(theo Biên bản giao nhận vật chứng ngày 19/10/2023).

3. Về án phí: áp dụng khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự, Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về án phí, lệ phí Tòa án.

Bị cáo phải chịu 200.000 đồng (hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

Bị cáo và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có quyền kháng cáo bản án này trong thời hạn 15 (mười lăm) ngày kể từ ngày tuyên án. Người bị hại được quyền kháng cáo trong hạn 15 (mười lăm) ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết theo quy định, để yêu cầu xét xử theo thủ tục phúc thẩm.

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các điều 6,7, 7a, 7b và 9 Luật thi hành án dân sự; Thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

8
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội giết người số 29/2023/HS-ST

Số hiệu:29/2023/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Cần Thơ
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 11/12/2023
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về