TÒA ÁN NHÂN DÂN CẤP CAO TẠI THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
BẢN ÁN 29/2020/HS-PT NGÀY 14/02/2020 VỀ TỘI GIẾT NGƯỜI
Ngày 14 tháng 02 năm 2020 tại trụ sở Tòa án nhân dân cấp cao tại Thành phốHồ Chí Minh xét xử phúc thẩm vụ án hình sự thụ lý số 594/2019/TLPT- HS ngày 17 tháng 10năm 2020 đối với bị cáo Nguyễn Hữu T do có kháng cáo của bị cáo đối với bản án hình sự sơ thẩm số 66/2019/HS-ST ngày13 tháng 9 năm 2019 của Tòa án nhân dân tỉnh Bình Dương.
Bị cáo có kháng cáo:
Nguyễn Hữu T, sinh năm 1986 tạiThành phố Hồ Chí Minh; hộ khẩu thường trú: Quận 12, Thành phố Hồ Chí Minh; nghề nghiệp: Tài xế; quốc tịch: Việt Nam; dân tộc: Kinh; tôn giáo: Không; trình độ học vấn: 7/12; con ông Nguyễn Hữu T1 (đã chết) và bà Đinh Thị P(đã chết); tiền án, tiền sự: Không; nhân thân: Ngày 23/3/2001, bị đưa vào Trường Giáo dưỡng số 4 trong thời hạn 12 tháng (theo Quyết định số 94/QĐ ngày 07/3/2001 của Ủy ban nhân dân thành phố Hồ Chí Minh (chấp hành xong vào ngày 13/3/2002); bị cáo bị bắt tạm giam từ ngày 13/11/2018 đến nay, (có mặt).
Người bào chữa cho bị cáo: Luật sư Trương Quốc H - Công ty Luật TNHH B, thuộc Đoàn Luật sư tỉnh Bình Dương;
Địa chỉ: phường P, thành phố Thủ Dầu Một, tỉnh Bình Dương(có mặt).
Người kháng cáo: Bị cáo Nguyễn Hữu T.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Nguyễn Hữu T là tài xế thử việc tại Công ty Vận tải Nam Đ. Khoảng 15 giờ ngày 13/11/2018, điều khiển xe ô tô tải biển … từ Quận 12, Thành phố Hồ Chí Minh đến kho ngoại quan Ythuộc Công ty TNHH Y , địa chỉ: thị xã Thuận An, tỉnh Bình Dương để giao hàng nhưng chưa có công nhân cho hàng xuống nên T đậu xe trong bãi xe của kho ngoại quan Y. Do chờ lâu nhưng vẫn không có công nhân cho hàng xuống nên T cùng ông Nguyễn Cao Bình Đ1 cùng các tài xế là N, Đ2, T2, K, P1, T3 (không rõ nhân thân, lai lịch) đi uống bia và hát karaoke tại thị xã Thuận An, tỉnh Bình Dương.
Đến khoảng 22 giờ 30 phút cùng ngày, sau khi uống bia và hát karaoke về đến kho ngoại quan Y, Tđi qua cổng bảo vệ để vào trong xe ô tô ngủ thì ông Lê Văn M - là nhân viên bảo vệ của kho ngoại quan Y đến nhắc nhở T phải mặc đồ bảo hộ lao động và phải có thẻ nhân viên mới được vào bên trong kho nên giữa T và ông M xảy ra cự cãi nhau.
Tức giận và cho rằng ông M gây khó khăn nên T nảy sinh ý định lấy dao tự chế có sẵn trên xe chém ông M. Tđi vào bên trong bãi xe của kho ngoại quan Yvà điều khiển xe ô tô đến cách phòng bảo vệ khoảng 50 mét rồi dừng lại, Tlấy 01 dao tự chế để ở ghế sau của cabin rồi mở cửa bước xuống xe. T cầm dao bằng tay phải chạy về hướng phòng bảo vệ. Lúc này, ông M đang đứng phía ngoài phòng bảo vệ nhìn thấy T cầm dao tự chế chạy về hướng ông M đang đứng nên ông Mchạy vào phòng bảo vệ lấy 01 gậy cao su để tự vệ thì T cũng vừa chạy đến chỗ ông M đang đứng. T dùng dao tự chế chém 03 (ba) nhát theo hướng từ trên xuống nhưng ông M dùng gậy cao su đỡ được nên không bị thương tích.
Trong phòng bảo vệ lúc này có ông Lồ Cún P2 và ông Ngô Văn T4- đều là nhân viên bảo vệ của kho ngoại quan Y. Nhìn thấy Tcầm dao tự chế chém ông M thì ông T4 chạy đến ôm và giữ tay trái của T, còn ông P2 giữ tay phải của T không cho Tchém ông M. Khi thấy Tbị ông T4và ông P2 giữ chặt, ông M liền bỏ chạy khỏi phòng bảo vệ ra hướng ngoài cổng. Bị ông T4 và ông P2 giữ chặt, Tdùng tay trái gạt mạnh vào người ông T4 làm ông T4 té ngã ra phía sau, T tiếp tục dùng tay trái đẩy ông P2 về phía trước làm ông P té ngã ở tư thế ngửa trên bàn. Lúc này, tay phải T đang cầm dao tự chế nên T chém 01 (một) nhát hướng từ trên xuống trúng vào vùng đùi trái của ông P2 làm ông P2 ngã gục xuống. Sau đó, T tiếp tục cầm dao tự chế đuổi theo chém ông M, Tđuổi theo ông M khoảng 40 mét nhưng không đuổi kịp. Lúc này, lực lượng Công an phường Bình Hòa, thị xã Thuận An, tỉnh Bình Dương trên đường tuần tra phát hiện T cầm dao tự chế đuổi chém ông M nên đã bắn 02 (hai) phát súng chỉ thiên để trấn áp, bắt giữ T. Ông P được đưa đi cấp cứu tại Trung tâm Y tế thị xã Thuận An sau đó chuyển đếnBệnh việnĐa khoa tỉnh Bình Dương, nhưng do thương tích quá nặng, ông Phúc đã tử vong ngay sau đó tại bệnh viện.
Tại Bản án hình sự sơ thẩm số 66/2019/HSST ngày 13 tháng 9 năm 2019, Tòa án nhân dân tỉnh Bình Dương quyết định:
Về trách nhiệm hình sự:Tuyên bố bị cáo Nguyễn Hữu T phạm tội “Giêt ngươi”.
Áp dụng điểm a, n khoản 1 Điều 123; điểm b, s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017, Xử phạt: Bị cáo Nguyễn Hữu T tù chung thân. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 13/11/2018.
Ngoài ra, Tòa án cấp sơ thẩm còn quyết định về trách nhiệm dân sự, xử lý vật chứng, án phí và quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.
Sau khi xét xử sơ thẩm,bị cáo Nguyễn Hữu T kháng cáo xingiảm nhẹ hình phạt.
Tại phiên tòa phúc thẩm:
Bị cáo giữ nguyên kháng cáo xin giảm hình phạt.
Luật sư bào chữa cho bị cáo trình bày: Tòa án sơ thẩm áp dụng điểm a, n khoản 1 Điều 123 của Bộ luật Hình sự để tuyên xử bị cáolà chưa đủ cơ sở.Bị cáo ý thức không muốn tước đoạt tính mạng của ông M và ông P2, bị cáo không có mâu thuẫn với bị hại P2 nên bị cáo phạm tội với lỗi vô ý, hậu quả bị hại P2 chết nằm ngoài ý thức của bị cáo. Đối với bị hại M, bị cáo T chỉ muốn đánh dằn mặt vì khi chém thì bị hại Mđã giơ gậy cao su lên, mũi dao chỉ nằm ở lưng chừng, chưa đến đầu của bị hại M. Như vậy, bị cáo không có lỗi cố ý trực tiếp, không mong muốn cho hậu quả xảy ra.Theo kết quả nghiên cứu, tác giả Đinh Văn Q xác định điểm a “giết 02 người” là phải có hậu quả chết 02 người.Bị cáo không có mâu thuẫn với bị hại P2, vùng đùi không phải là vùng trọng yếu của cơ thể, nếu bị hại P2 được cứu chữa kịp thời thì hậu quả bị hại P2 chết không xảy ra. Do vậy, đề nghị xem xét hành vi của bị cáo đối với bị hại M phạm tội “Giết người” với lỗi cố ý gián tiếp, chưa đạt. Hành vi của bị cáo đối với bị hại P phạm tội “Vô ý làm chết người”.
Ngoài ra, đề nghị Hội đồng xét xử phúc thẩm áp dụng các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, bị cáo đã khắc phục cho gia đình bị hại số tiền 34.000.000 đồng, bị cáo có nhân thân tốt. Hoàn cảnh bị cáo khó khăn, mồ côi cha mẹ cuộc sống thiếu thốn tình cảm giảm nhẹ một phần hình phạt đối với bị cáo.
Đại diện Viện kiểm sát phát biểu quan điểm giải quyết vụ án: Bản án sơ thẩm đã xét xử bị cáo Nguyễn Hữu T phạm tội “Giết người”, theo điểm a, n khoản 1 Điều 123 của Bộ luật hình sự năm 2015 đã được sửa đổi, bổ sung năm 2017 là có căn cứ. Mức hình phạt tù chung thân mà Tòa sơ thẩm đã áp dụng đối với bị cáo là tương xứng với hành vi phạm tội bị cáo đã gây ra. Do vậy đề nghị Hội đồng xét xử không chấp nhận kháng cáo của bị cáo T, giữ nguyên bản án sơ thẩm.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1] Tại phiên toà phúc thẩm, bị cáo Nguyễn Hữu T thưa nhân toan bô hành vi phạm tội, lời khai nhận tội của bị cáo là phù hợp với lời khai của người đại diện hợp pháp của bị hại, những người làm chứng; phù hợp với Biên bản khám nghiệm hiện trường, bản Kết luận giám định pháp y, Biên bản thực nghiệm điều tra và các vật chứng của vụ án cùng những tài liệu, chứng cứ khác đã thu thập có tại hồ sơ vụ án. Do đó, Hội đồng xét xử có đủ cơ sở kết luận: Vào khoảng 22 giờ 30 phút ngày 13/11/2018, tại kho ngoại quan Y - Công ty TNHH Y, xuất phát từ mâu thuẫn nhỏ nhặt với bị hại Lê Văn M, bị cáo Nguyễn Hữu T đã thực hiện hành vi dùng dao tự chế chém 03 (ba) nhát theo hướng từ trên xuống vào bị hại M nhưng bị hại M dùng gậy cao su chống đỡ nên không bị thương tích. Bị hại Lồ Cún P2 và ông Ngô Văn T4 cùng vào can ngăn, bị cáo T dùng dao tự chế chém 01 nhát trúng vào vùng đùi trái của bị hại P2 dẫn đến bị hại P2 tử vong.
[2] Bị cáokháng cáo cho rằng bị cáo chỉ dằn mặt bị hại M chứ không có mục đích tước đoạt tính mạng của bị hại. Tuy nhiên, khi ông M bỏ chạy vào trong phòng bảo vệ thì bị cáo vẫn tiếp tục cầm dao đuổi theo. Bị cáo bị ông P2 và ông T4 ôm lại nhưng bị cáo cố tình vùng vẫy đầy ông T4, ông P2 té ngã, liền đó bị cáo vung dao chém ông P2 và tiếp tục truy đuổi bị hại M, chỉ khi lực lượng cảnh sát bắn chỉ thiên thì bị cáo mới thôi. Bị cáo chém ông P2 trong khi ông P2 đang té ngã và gây nên cái chết cho ông P2. Tại phiên toà, bị cáo xác định khi chém ông P2 thì bị cáo chỉ nhắm đại về phía ông P2 rồi chém chứ không nhằm chém vào vị trí nào trên thân thể ông P2. Bị cáo phải nhận thức rõ được rằnghành vi dùng dao là hung khí nguy hiểm chém từ trên xuống vào người bị hại Mvà hành vi chém vào vùng đùi trái của bị hại P2 đều có khả năng tước đoạt tính mạng của bị hại P2 và bị hại M, đây là hành vi trái pháp luật nhưng bị cáo vẫn cố ý thực hiện, bất chấp hậu quả xảy ra. Hành vi của bị cáo thể hiện ý thức côn đồ, xem thường pháp luật. Đối với bị hại M do dùng gậy cao su chống đỡ lại hành vi của bị cáo và bỏ chạy được nên hậu quả bị hại M không chết là ngoài ý muốn chủ quan của bị cáo, thuộc trường hợp phạm tội chưa đạt. Hành vi phạm tội của bị cáo T đã xâm phạm trực tiếp tước đoạt tính mạng của bị hại P2 được pháp luật bảo vệ.Như vậy, việc bị cáo cho rằng hành vi của mình chỉ để dằn mặt bị hại M là không có căn cứ chấp nhận.
[3] Hành vi của bị cáo T là đặc biệt nghiêm trọng và nguy hiểm cho xã hội, ảnh hưởng đến tình hình trật tự trị an tại địa phương, gây tâm lý hoang mang cho người dân sinh sống tại khu vực, gây đau thương mất mát cho gia đình bị hại P2.Toà án cấp sơ thẩm xét xử tuyên bố bị cáo Nguyễn Hữu T phạm tội “Giết người” theo điểm a, n khoản 1 Điều 123 của Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017 là có căn cứ, đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.
[4] Khi quyết định hình phạt Tòa án cấp sơ thẩm có xem xét các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm b, s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự đối với bị cáo như: Bị cáo Nguyễn Hữu T có nhân thân tốt, không có tiền án, tiền sự; thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải đã tác động gia đình bồi thường một phần thiệt hại cho gia đình bị hại và đã tuyên phạt bị cáo mức án tù chung thân phù hợp.
[5] Tại phiên tòa phúc thẩm hôm nay bị cáo kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt, nhưng không có thêm tình tiết gì mới để Hội đồng xét xử xem xét. Do vậy Hội đồng xét xử không chấp nhận kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt của bị cáo, giữ nguyên bản án sơ thẩm như đề nghị của vị đại diện Viện kiểm sát tham gia phiên tòa.
[6] Án phí hình sự phúc thẩm: Bị cáo Nguyễn Hữu Tphải chịu 200.000 đồng. Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
1. Căn cứ khoản 1 Điều 355 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015.
Không chấp nhận kháng cáo của bị cáo Nguyễn Hữu T. Giữ nguyên Bản án hình sự sơ thẩm số 66/2019/HS-ST ngày 13/9/2019 của Tòa án nhân dân tỉnh Bình Dương;
1.1. Tuyên bố bị cáo Nguyễn Hữu T phạm tội “Giết người”.
1.2. Áp dụng điểm a, n khoản 1 Điều 123; điểm b, s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017.
Xử phạt: Bị cáo Nguyễn Hữu T tù chung thân. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 13/11/2018.
2. Tiếp tục tạm giam bị cáo để đảm bảo thi hành án.
3. Án phí hình sự phúc thẩm:Bị cáo Nguyễn Hữu T phải chịu 200.000đ.
4. Các Quyết định khác của Bản án hình sự sơ thẩm số 66/2019/HS-ST ngày 13/9/2019 của Tòa án nhân dân tỉnh Bình Dương không bị kháng cáo, kháng nghị có hiệu lực kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.
5. Bản án phúc thẩm có hiệu lực kể từ ngày tuyên án.
Bản án về tội giết người số 29/2020/HS-PT
Số hiệu: | 29/2020/HS-PT |
Cấp xét xử: | Phúc thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân cấp cao |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 14/02/2020 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về