TÒA ÁN NHÂN DÂN CẤP CAO TẠI THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
BẢN ÁN 282/2023/HS-PT NGÀY 15/05/2023 VỀ TỘI GIẾT NGƯỜI
Ngày 15 tháng 5 năm 2023 tại trụ sở Tòa án nhân dân cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh xét xử phúc thẩm công khai vụ án hình sự phúc thẩm thụ lý số: 145/2023/TLPT-HS ngày 15 tháng 02 năm 2023 đối với bị cáo Quách Hào Q do có kháng cáo của bị cáo đối với Bản án hình sự sơ thẩm số: 03/2023/HS-ST ngày 04 tháng 01 năm 2023 của Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh. Theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số 315/2023/QĐXXPT-HS ngày 21 tháng 4 năm 2023.
Bị cáo có kháng cáo: Quách Hào Q; giới tính: Nam; sinh ngày: 01/01/1981, tại tỉnh Cà Mau; hộ khẩu thường trú: Ấp K, xã T, huyện P, tỉnh Cà Mau; nơi ở trước khi bị bắt: 28/2B tổ A, ấp B, xã X, huyện H, Thành phố Hồ Chí Minh; quốc tịch: Việt Nam; dân tộc: Kinh; tôn giáo: không; trình độ học vấn: 5/12; nghề nghiệp: Công nhân; con ông Quách Tích V (đã chết) và bà Nguyễn Thị H, sinh năm: 1948; bị cáo có vợ là Nguyễn Thị H1, sinh năm: 1976 và có một người con sinh năm: 2007; tiền án, tiền sự: không. Bị cáo bị bắt, tạm giam từ ngày 09/10/2021 (có mặt).
Người bào chữa theo chỉ định cho bị cáo: Luật sư Nguyễn Thị Quế A – thuộc Đoàn luật sư Thành phố H (có mặt).
- Bị hại: Ông Nguyễn Hồng H2 và bà Hồ Thị M (đã chết).
Các đại diện hợp pháp của bị hại gồm:
1/ Bà Huỳnh Thị T, sinh năm: 1954 (là mẹ ruột của bị hại Nguyễn Hồng H2),
2/ Chị Nguyễn Thị Kim H3, sinh năm 1999 và cháu Nguyễn Thanh H4, sinh ngày 09/11/2012 (là con ruột của các bị hại).
Cùng trú tại: H ấp M, xã X, huyện H, Thành phố Hồ Chí Minh. (Người bị hại không có kháng cáo, không bị kháng nghị, không liên quan đến kháng cáo nên Tòa không triệu tập)
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Anh Nguyễn Hồng H2 và chị Hồ Thị M là vợ chồng, đăng ký kết hôn vào năm 2003, cùng sinh sống tại nhà số G ấp X, xã X, huyện H, Thành phố Hồ Chí Minh. Năm 2019, chị M có quan hệ tình cảm với Quách Hào Q (ngụ tại B ấp B, xã X, huyện H) và chị M cho Q biết đã ly hôn với anh H2. Đến cuối năm 2020, Q phát hiện chị M chưa ly hôn và vẫn đang sống chung với anh H2. Vào khoảng 20 giờ 30 phút ngày 09/10/2021, sau khi uống rượu, Q nhiều lần gọi điện thoại cho chị M nhưng chị M không nghe điện thoại. Tức giận vì không liên lạc được với chị M và nghĩ đến chuyện chị M lừa dối Q về việc đã ly hôn chồng nên Q vào bếp lấy con dao Thái Lan dài khoảng 24 cm (cán màu nâu, mũi nhọn, lưỡi dao bằng thép dài khoảng 12 cm, bản rộng 2 cm) giấu vào bên trong túi áo khoác Jean, rồi lấy xe gắn máy biển số 51-372E chạy đến nhà chị M để nói chuyện.
Khi đến nơi, Q nhìn thấy vợ chồng anh H2, chị M đang ở bên trong nhà, do cổng chính và cửa nhà của chị M không khóa nên Q tự mở cửa đi vào trong. Vừa bước vào nhà thì anh H2 hỏi Q đi đâu, Q trả lời “em qua đây để nói chuyện”, chị M trả lời “có chuyện gì đâu mà nói, đánh nó đi đừng để nó vào nhà” nên giữa Q và vợ chồng chị M xảy ra xô xát đánh nhau, anh H2, chị M vừa đánh vừa xô đẩy Q ra khỏi nhà, Q liền rút dao trong túi áo khoác J cầm trên tay phải đâm liên tiếp nhiều nhát vào người chị M, anh H2 cũng xông vào nên Q cũng cầm dao đâm, chém anh H2. Chị M, anh H2 lùi vào trong nhà bếp thì Q đuổi theo, anh H2 chụp lấy lưỡi dao giằng co với Q làm lưỡi dao bị gãy, anh H2 cầm lưỡi dao bỏ chạy ra ngoài vứt bỏ ngay đầu hẻm trước nhà, Q cũng vứt bỏ cán dao trong bếp. Lúc anh H2 chạy ra ngoài, Q chạy đến dùng tay đánh chị M, anh H2 chạy quay trở vào trong nhà lấy con dao dài khoảng 27 cm (cán dao bằng gỗ, bản lớn màu nâu dài 12cm, lưỡi dao bằng thép, bản lớn màu trắng dài 19cm, ngang 6cm) để trên kệ bếp chém Q nhưng Q giơ tay trái lên đỡ và giật lấy con dao trên tay anh H2 chém liên tiếp về phía anh H2, chị M nên cả hai vợ chồng anh H2 bỏ chạy ra khỏi nhà, Q cầm dao rượt đuổi theo chém nhưng không trúng.
Sau đó, vợ chồng anh H2, chị M chạy ngược vào trong nhà nhưng khi đến sân nhà thì Q đuổi kịp chị M, Q dùng tay trái nắm tóc, tay phải cầm dao chém liên tiếp vào người chị M, còn anh H2 chạy vào bên trong nhà lấy cây sắt tròn, dài khoảng 70 cm xông ra đánh trúng vào đầu Q làm chảy máu, Q buông chị M ra, xông đến chém anh H2 nhưng anh H2 kéo cửa nhà đóng lại nên không trúng, Q tiếp tục quay sang chém chị M làm chị M gục xuống sân. Anh H2 mở cửa nhà cầm cây sắt chạy ra tiếp tục đánh Q, Q cầm dao chống trả làm rơi dao xuống đất, Q giật lấy cây sắt của anh H2 và hai bên giằng co từ trong sân nhà ra trước hẻm thì lúc này có một nhóm thanh niên khoảng 3-4 người (không rõ lai lịch) sống trọ gần nhà anh H2 cầm cây gỗ, ghế gỗ đến hỗ trợ anh H2 đánh Q, Q cầm cây sắt chạy vào trong nhà của anh H2 rồi kéo cổng chính đóng lại, nhóm thanh niên dùng cây gỗ, ghế gỗ đánh, chặn cánh cửa không cho Q đóng cổng, anh H2 chạy vào chỗ Q đang đứng thì bị Q cầm cây sắt đánh trúng vào cổ làm anh H2 ngã xuống sân nhà nằm bất động, Q tiếp tục cầm cây sắt đánh vào người, vào đầu anh H2. Nhóm thanh niên bên ngoài tiếp tục cầm cây gỗ, ghế gỗ đánh can ngăn Q đánh anh H2 và lôi anh H2 ra ngoài. Q kéo cửa cổng đóng lại, nhóm thanh niên bên ngoài cũng dùng thang gỗ chặn cửa không cho Q chạy ra ngoài. Một lúc sau, Công an xã X đến lập biên bản bắt người phạm tội quả tang đối với Q. Riêng anh H2, chị M được mọi người đưa đi cấp cứu tại Bệnh viện Đ nhưng anh H2, chị M đã chết trước khi nhập viện.
Tại Bản kết luận giám định pháp y tử thi số 1763/TT.21 ngày 15/11/2021 của Trung tâm pháp y, Sở Y tế Thành phố H kết luận nguyên nhân chết của nạn nhân Nguyễn Hồng H2 là do suy hô hấp cấp do đa chấn thương vùng mặt và vết thương thấu ngực gây thủng phổi trái.
Tại Bản kết luận giám định pháp y tử thi số 1764/TT.21 ngày 15/11/2021 của Trung tâm pháp y, Sở Y tế Thành phố H kết luận nguyên nhân chết của nạn nhân Hồ Thị M là do suy hô hấp tuần hoàn do vết thương thấu ngực trái gây thủng tim/Đa vết thương.
Tại Bản kết luận giám định pháp y về tử thi (giám định bổ sung) số 1763- 1764B/TT.21 ngày 27/6/2022 của Trung tâm pháp y, Sở Y tế Thành phố H kết luận bổ sung:
“- Đối với nạn nhân Nguyễn Hồng H2:
+ Thương tích vùng đầu mặt: Đặc điểm hung khí đã nêu trong bản kết luận. Cây gậy sắt gây ra được các thương tích này; con dao thì không.
+ Thương tích thấu ngực trái: Đặc điểm hung khí đã nêu trong bản kết luận. Con dao lưỡi nhỏ bề ngang lưỡi 02cm gây ra thương tích này, còn dao lưỡi rộng 06cm, mũi gần như bằng thì không phù hợp tạo ra được thương tích này.
+ Các thương tích bầm tụ máu thì cây gậy sắt gây ra được còn 02 con dao thì không phù hợp gây ra các thương tích này.
+ Các thương tích xước da, xây xát da thì cả hai con dao đều có thể gây ra được, còn gậy sắt thì không.
- Đối với nạn nhân Hồ Thị M:
+ Cây gậy sắt không gây ra được các thương tích trên người nạn nhân.
+ Vết thương thấu ngực thủng tim làm nạn nhân tử vong thì con dao có lưỡi bề ngang 02cm phù hợp gây ra được, còn dao có lưỡi rộng 06cm, lưỡi gần như bằng thì không phù hợp gây ra được thương tích này.
+ Các vết thương xước, thủng, đứt da còn lại trên cơ thể thì cả hai con dao đều có thể gây ra được.
- Về chiều hướng:
+ Đối với vết thương thấu ngực của hai nạn nhân, chiều hướng đã được nêu trên.
+ Không có cơ sở định chiều hướng gây ra các thương tích còn lại.”
* Vật chứng thu giữ trong vụ án:
- Các vật chứng, đồ vật nêu trên được nhập kho vật chứng thuộc Phòng Cảnh sát thi hành án hình sự và hỗ trợ tư pháp Công an T1 (PC10) theo Lệnh nhập kho vật chứng số 721-36/LNK-VPCQCSĐT-Đ4 ngày 20/4/2022, gồm: 01 (Một) lưỡi dao bằng thép màu trắng dài 12cm x 2 cm; 01 (Một) cán dao bằng gỗ màu nâu dài 12cm; 01 (Một) lưỡi dao bằng thép, bản lớn màu trắng dài 19cm, ngang 6cm; 01 (Một) cán dao bắng gỗ, bản lớn màu nâu dài 12cm; 01 (Một) khúc cây gỗ tròn bị gãy dài 120cm; 01 (Một) khúc cây gỗ tròn bị gãy dài 77cm; 01 (Một) khúc cây tròn bằng sắt màu đen dài 70cm; 01 (Một) cái áo khoác màu đỏ đen; 01 (Một) nón kết vải màu nâu, có chữ adidas màu trắng; 01 (Một) áo khoác jean màu xanh; 01 (Một) khẩu trang màu trắng; 01 (Một) áo sơ mi kẻ sọc; 01 (Một) quần sọt kaki túi hộp màu xanh đen; 01 (Một) dây thắt lưng màu nâu có tên D. Các đồ vật nêu trên được nhập kho vật chứng thuộc Phòng Cảnh sát thi hành án hình sự và hỗ trợ tư pháp Công an T1 (PC10) theo Lệnh nhập kho vật chứng số 721A -36/LNK-VPCQCSĐT-Đ4 ngày 20/9/2022 gồm: 01 (Một) xe gắn máy hiệu Dream, biển số 51-372E, số máy: MDE – 1005547, số khung: MD008 – 05710; 01 (Một) điện thoại di động màu vàng đồng hiệu OPPO; 01 (Một) sim số 09385699xx; 01 (Một) sim số 09318586xx.
* Về dân sự: Chị Nguyễn Thị Kim H3 (là con ruột của cả 02 bị hại H2 và M và đại diện gia đình bị hại) yêu cầu Quách Hào Q bồi thường chi phí mai táng, tổn thất tinh thần và tiền trợ cấp nuôi dưỡng cháu Nguyễn Thanh H4 (con trai của anh H2, chị M, sinh ngày 16/11/2012) với tổng số tiền 2 tỷ đồng. Bị cáo Q chưa bồi thường.
Tại bản án hình sự sơ thẩm số: 03/2023/HS-ST ngày 04 tháng 01 năm 2023 của Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh đã quyết định:
1/ Căn cứ các điểm a, n khoản 1 Điều 123; điểm s khoản 1 và khoản 2 Điều 51; Điều 40 của Bộ luật hình sự năm 2015, được sửa đổi bổ sung năm 2017, Xử phạt bị cáo Quách Hào Q: Tử hình về tội “Giết người”. Tiếp tục tạm giam bị cáo để đảm bảo cho công tác thi hành án.
Ngoài ra, Bản án sơ thẩm còn tuyên về trách nhiệm dân sự, xử lý vật chứng, án phí và quyền kháng cáo Bản án theo quy đinh.
Sau khi xét xử sơ thẩm, ngày 11 tháng 01 năm 2023 bị cáo Quách Hào Q có đơn kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt;
Tại phiên tòa phúc thẩm: Bị cáo giữ nguyên kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt.
Đại diện Viện Kiểm sát nhân dân cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh phát biểu quan điểm giải quyết vụ án: Về tố tụng: Những người tiến hành tố tụng và những người tham gia tố tụng đã thực hiện đúng quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Về nội dung: Đối với kháng cáo của bị cáo Q, qua xem xét toàn bộ nội dung vụ án, các tài liệu chứng cứ có trong hồ sơ và đánh giá tính chất mức độ hành vi phạm tội của bị cáo và các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ, xét thấy Bản án sơ thẩm xét xử bị cáo về tội “Giết người” theo quy định tại điểm a, n khoản 1 Điều 123 Bộ luật hình sự là có căn cứ, các tình tiết giảm nhẹ đã được cấp sơ thẩm xem xét đầy đủ. Tuy nhiên tại phiên tòa phúc thẩm, bị cáo không ăn năn hối cải, quanh co chối tội. Hành vi của bị cáo đã tước đi mạng sống của 02 người với tính chất hết sức côn đồ, không còn có khả năng cải tạo. Nên, đề nghị Hội đồng xét xử không chấp nhận kháng cáo của bị cáo, giữ nguyên bản án sơ thẩm.
Luật sư bào chữa cho bị cáo trình bày: Tòa án cấp sơ thẩm xử phạt bị cáo về tội “Giết người” với khung hình phạt cao nhất là có căn cứ. Tuy nhiên, bị cáo nhận thức pháp luật còn hạn chế, phạm tội do có mâu thuẫn với bị hại từ trước. Ngoài ra, bị cáo trình bày có khả năng bồi thường số tiền 2.000.000.000 đồng cho gia đình bị hại, đề nghị Hội đồng xét xử cho bị cáo được sống để dùng quãng đời còn lại để ăn năn, hối lỗi và thực hiện trách nhiệm nuôi đứa trẻ còn sống đến khi trưởng thành xem như chuộc một phần lỗi lầm đối với bị hại.
Lời nói sau cùng của bị cáo: Đề nghị Hội đồng xét xử xem xét cho bị cáo mức án tù giam, có con đường sống để bị cáo có cơ hội nuôi mẹ già, con thơ và bù đắp cho gia đình bị hại.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1] Kháng cáo của bị cáo Quách Hào Q còn trong hạn luật định và hợp lệ nên được xem xét theo trình tự phúc thẩm quy định tại Điều 333 Bộ luật Tố tụng hình sự.
[2] Tại phiên tòa phúc thẩm, bị cáo Q thừa nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình như Bản án sơ thẩm đã quy kết. Tuy nhiên bị cáo cho rằng con dao bị cáo dùng để gây án là bị cáo lấy khi đến nhà của bị hại chứ không phải phải bị cáo mang sẵn theo người. Xét thấy lời khai của bị cáo là mâu thuẫn với lời khai tại cơ quan điều tra, với các tài liệu, vật chứng thu giữ và chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án nên lời khai này là không có căn cứ.
Căn cứ vào lời khai nhận của bị cáo trong quá trình điều tra vụ án, các biên bản ghi lời khai, biên bản hỏi cung, lời khai người làm chứng và những chứng cứ đã thu thập được, Hội đồng xét xử có đủ cơ sở để kết luận:
Xuất phát từ mâu thuẫn trong quan hệ tình cảm, nên khoảng 20 giờ 30 phút ngày 09/10/2021 tại nhà số G ấp X, xã X, huyện H, Thành phố Hồ Chí Minh, bị cáo Quách Hào Q đã dùng dao đâm, chém nhiều nhát vào người chị Hồ Thị M. Anh Nguyễn Hồng H2 (chồng chị M) vì bênh vực chị M đã xông vào đánh nhau với Q và cũng bị Q dùng dao đâm, chém và dùng cây sắt dài 70 cm đánh làm anh H2 ngã xuống đất. Hậu quả anh H2 và chị M tử vong trên đường đi cấp cứu.
Tại Bản kết luận giám định pháp y tử thi số 1763/TT.21 ngày 15/11/2021 của Trung tâm pháp y, Sở Y tế Thành phố H kết luận nguyên nhân chết của nạn nhân Nguyễn Hồng H2 là do suy hô hấp cấp do đa chấn thương vùng mặt và vết thương thấu ngực gây thủng phổi trái. Tại Bản kết luận giám định pháp y tử thi số 1764/TT.21 ngày 15/11/2021 của Trung tâm pháp y, Sở Y tế Thành phố H kết luận nguyên nhân chết của nạn nhân Hồ Thị M là do suy hô hấp tuần hoàn do vết thương thấu ngực trái gây thủng tim/Đa vết thương.
Xét hành vi của bị cáo có đủ cơ sở để khẳng định, bị cáo Quách Hào Q đã phạm tội “Giết người” theo quy định tại điểm a, n khoản 1 Điều 123 Bộ luật Hình sự. Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh xử phạt bị cáo là có căn cứ, đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.
[3] Xét kháng cáo của bị cáo:
[3.1 Chỉ vì mâu thuẫn trong quan hệ tình cảm sai trái mà bị cáo đã gây ra tội phạm đặc biệt nghiêm trọng và nguy hiểm cho xã hội. Hành vi của bị cáo đã xâm phạm trực tiếp đến tính mạng của người khác, mà cụ thể ở đây là tước đi sinh mạng của anh H2, chị M – là đối tượng được pháp luật bảo vệ. Nhận thấy, tại thời điểm thực hiện hành vi, bị cáo có đầy đủ năng lực pháp luật và năng lực hành vi. Bị cáo nhận thức được việc dùng dao hay gậy sắt là hung khí nguy hiểm, có tính sát thương cao tấn công bị hại sẽ dẫn đến tử vong nhưng bị cáo đã giấu sẵn dao trong người, thể hiện rõ ràng ý chí, cố ý trực tiếp thực hiện tội phạm một cách côn đồ, bất chấp, xem thường pháp luật. Bị cáo đã tước đi tính mạng của nhiều người, gây rúng động trong nhân dân, ảnh hưởng nghiêm trọng đến trật tự an toàn xã hội. Hành vi phạm tội của bị cáo là không có khả năng cải tạo được, nên cần thiết phải xử bị cáo một mức án nghiêm khắc tương xứng với hành vi, tội lỗi mà bị cáo đã gây ra mới có tác dụng giáo dục, răn đe cho toàn xã hội.
[3.2] Xét các tình tiết giảm nhẹ cho bị cáo: tại phiên tòa hôm nay bị cáo có thái độ khai báo không thành thành khẩn; Mặc dù Tòa án cấp sơ thẩm đã xem xét các tình tiết giảm nhẹ cho bị cáo theo quy định tại điểm s khoản 1 và khoản 2 Điều 51 của Bộ luật hình sự. Tuy nhiên, các tình tiết giảm nhẹ nêu trên cũng không đủ lượng khoan hồng cho bị cáo, cần phải xét xử bị cáo mức án cao nhất theo quy định, loại bỏ vĩnh viễn bị cáo ra khỏi đời sống xã hội như mức án mà Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh đã tuyên phạt là có căn cứ, phù hợp với tính chất hành vi và hậu quả mà bị cáo đã gây ra và phù hợp với quy định của pháp luật.
Tại phiên tòa hôm nay, bị cáo có kháng cáo nhưng cũng không cung cấp được thêm tài liệu chứng cứ nào để chứng minh cho yêu cầu của mình là có căn cứ nên Hội đồng xét xử xét thấy không có cơ sở để chấp nhận kháng cáo của bị cáo. Xét đề nghị của người bào chữa cho bị cáo là không có căn cứ nên không được chấp nhận. Quan điểm của Viện kiểm sát là phù hợp nên được chấp nhận.
[4] Về án phí hình sự phúc thẩm: Do kháng cáo không được chấp nhận nên bị cáo Quách Hào Q phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự phúc thẩm theo quy định.
[5] Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị có hiệu lực thi hành kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ điểm a khoản 1 Điều 355; Điều 356 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về án phí, lệ phí Tòa án.
Không chấp nhận kháng cáo của bị cáo Quách Hào Q; Giữ nguyên Bản án hình sự sơ thẩm số 03/2023/HS-ST ngày 04 tháng 01 năm 2023 của Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh.
1. Tuyên bố bị cáo Quách Hào Q phạm tội “Giết người”.
Áp dụng điểm a, n khoản 1 Điều 123, điểm s khoản 1 và khoản 2 Điều 51; Điều 40 của Bộ luật hình sự năm 2015, được sửa đổi bổ sung năm 2017;
Xử phạt bị cáo Quách Hào Q tử hình.
Tiếp tục giam bị cáo để đảm bảo cho công tác thi hành án.
2. Án phí hình sự phúc thẩm: Bị cáo Quách Hào Q phải chịu 200.000 đồng
3. Các quyết định khác của Bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị có hiệu lực thi hành kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị
4. Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án./.
Trong thời hạn 07 ngày kể từ ngày tuyên án, bị cáo được quyền làm đơn lên Chủ tịch nước để xin ân giảm án tử hình theo quy định của pháp luật.
Bản án về tội giết người số 282/2023/HS-PT
Số hiệu: | 282/2023/HS-PT |
Cấp xét xử: | Phúc thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân cấp cao |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 15/05/2023 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về