Bản án về tội giết người số 278/2022/HS-PT

TOÀ ÁN NHÂN DÂN CẤP CAO TẠI THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

BẢN ÁN 278/2022/HS-PT NGÀY 06/05/2022 VỀ TỘI GIẾT NGƯỜI

Ngày 06 tháng 5 năm 2022, tại trụ sở Tòa án nhân dân cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh xét xử phúc thẩm công khai vụ án hình sự phúc thẩm thụ lý số: 93/2021/TLPT-HS ngày 16 tháng 02 năm 2022 đối với bị cáo Trương Văn B.

Do có kháng cáo của bị cáo đối với Bản án hình sự sơ thẩm số 03/2021/HS-ST ngày 06 tháng 01 năm 2022 của Tòa án nhân dân tỉnh Bình Dương.

- Bị cáo có kháng cáo:

Trương Văn B, sinh năm 1995 tại Nghệ An; nơi thường trú: Thôn X, xã E, huyện K, tỉnh Đắk Lắk; nghề nghiệp: làm thuê; trình độ văn hóa (học vấn): lớp 7/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Trương Văn Th và bà Trần Thị V; tiền án: không, tiền sự: không; bị cáo có vợ và 01 con (sinh năm 2020);  21/6/2020 cho đến nay.

Bị cáo có mặt tại phiên toà.

- Người bào chữa cho bị cáo: Luật sư Chu Văn H – Đoàn Luật sư Thành phố Hà Nội. (có mặt)

Ngoài ra trong vụ án còn có 02 bị cáo khác, bị hại, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan nhưng không có kháng cáo nên Tòa không triệu tập.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa thì nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Vào khoảng 19 giờ 30 phút ngày 20/6/2020, Vi Văn V, Lưu Đình A, Lê Quốc T và bạn gái của T tên Mạc Thị Th cùng tổ chức ăn, uống rượu, bia tại phòng trọ của V tại địa chỉ: khu phố B, phường B1, thành phố Th, tỉnh Bình Dương. Đến khoảng 21 giờ 00 phút cùng ngày 20/6/2020, Lưu Đình H và Trương Văn B đến phòng trọ của Vi Văn V ăn, uống rượu với V, A, T và Th.

Khoảng 22 giờ cùng ngày 20/6/2020, T chở Th về phòng của Th ở khu vực thành phố D, tỉnh Bình Dương; còn V, A, H và B ra mua thuốc hút. Lúc này, giữa H và A xảy ra mâu thuẫn nên H và B bỏ đi về phòng trọ tại khu phố Nhị Đồng 1, phường D, thành phố D, tỉnh Bình Dương. Khi B và H về đến phòng trọ thì B nhận được cuộc điện thoại của A, do B mở loa ngoài của điện thoại và H ở bên cạnh B nên H nghe A và B cãi nhau, thách thức đánh nhau, H liền giật điện thoại của B nói chuyện với A; A hẹn gặp H tại khu vực ngã tư 550 thuộc khu phố Đ, phường B1, thành phố Th, tỉnh Bình Dương để đánh nhau, giải quyết mâu thuẫn, H đồng ý. H rủ B cùng đi thì B đồng ý, H đi vào khu vực bếp lấy 01 con dao (loại dao chặt) bỏ vào túi bên trái trong áo khoác, B nhìn thấy H mang theo dao thì H nói “mang theo để phòng thân”, còn B lấy 01 dao bấm màu đen bỏ vào túi phía trái bên trong áo khoác. Sau khi chuẩn bị xong hung khí, B điều khiển xe mô tô biển số 36B2-695.24 chở H đến khu vực ngã tư 550 để đánh nhau với A.

Đối với A, sau khi điện thoại cho B và hẹn gặp H tại khu vực ngã tư 550 để đánh nhau, A rủ V cùng đi đánh nhau, V đồng ý. V và A lấy mỗi người 01 con dao (loại dao thái thịt) trên kệ bếp phòng trọ của V, rồi V và A cầm dao đi bộ từ phòng trọ đến khu vực ngã tư 550 đứng trước cửa hàng “Mắt kính Sài Gòn” (địa chỉ: số 1/1/16, tổ 16, khu phố Đ, phường B1, thành phố Th, tỉnh Bình Dương) đợi H và B đến để đánh nhau.

Khi B chở H đến khu vực ngã tư 550, B dừng xe mô tô trên vỉa hè lề phải đường ĐT 743 hướng đi từ ngã tư 550 về khu công nghiệp S với mục đích là dễ lấy xe tẩu thoát sau khi đánh nhau, H và B nhìn đối diện sang đường ĐT 743 thì thấy A và V đang cầm mỗi người 01 con dao đứng phía trước cửa hàng “Mắt kính Sài Gòn”, H và B đi bộ băng qua đường ĐT 743 đến vị trí A và V đang đứng cầm dao. Tại đây, V, A cầm mỗi người 01 con dao giơ từ trên xuống trong tư thế chém vào H thì B chạy đến ôm V lại, còn H lùi lại khoảng 01 bước, dùng tay phải lấy 01 con dao từ bên trong túi áo khoác bên trái rồi tiến về phía A chém A 02 nhát hướng từ trên xuống, A đưa tay trái lên đỡ thì trúng bàn tay trái bị đứt lìa, 01 nhát trúng ở cổ bên trái kích thước (14 x 03)cm, B quay người lại thấy A bị chém nên B thả V ra, V bỏ chạy vào quán hủ tiếu cách đó khoảng 20m trốn, còn A chạy trên đường ĐT 743C theo hướng từ ngã tư 550 đi cầu O khoảng 200m thì ngã xuống lề đường bất tỉnh. Sau khi chém A, B điều khiển xe mô tô chở H tẩu thoát, trên đường đi H ném dao trên đường. Lưu Đình A được người dân phát hiện đưa đi cấp cứu, điều trị tại Bệnh viện Quân y 175 Bộ Quốc phòng đến ngày 29/6/2020 thì xuất viện.

Ngày 21/6/2020, Lưu Đình H và Trương Văn B đến Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an tỉnh Bình Dương đầu thú, khai nhận hành vi phạm tội của mình.

Vật chứng thu giữ gồm: 01 (một) xe mô tô hai bánh màu trắng đen, nhãn hiệu Hon da, số loại JC 521 Waes, dung tích xi lanh 109cm3, biển số 36 B2 – 69524, số khung RLHJC5212CY461964, số máy JC52E-4437647; 01 con dao dài khoảng 40cm, cán dao bằng gỗ, bản dao rộng khoảng 5cm; 01 đôi dép có đế màu đen, quai dép trắng sọc đen;

Tại Kết luận giám định pháp y về thương tích số 362/2020/GĐPY ngày 19/8/2020 của Trung tâm pháp y tỉnh Bình Dương kết luận Lưu Đình A, sinh năm 1994 như sau:

Vết thương vùng cổ đến góc hàm trái kích thước: 14,5 x 0,3cm sẹo lành vận động còn đau.

Vết thương đứt lìa tay trái, đã phẫu thuật, tháo khớp cổ tay trái, mỏm cụt lành, sẹo mổ kích thước: 10 x 0,2cm và 4,7 x 0,3cm.

Tỷ lệ tổn thương cơ thể do thương tích gây nên hiện tại là 56% (năm mươi sáu phần trăm).

Tại Bản án hình sự sơ thẩm số 03/2022/HS-ST ngày 06/01/2022 của Tòa án nhân dân tỉnh Bình Dương đã tuyên xử:

Tuyên bố bị cáo Trương Văn B phạm tội “Giết người”.

Căn cứ điểm n khoản 1 Điều 123; các điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 15, 38 và Điều 58 của Bộ luật Hình sự.

Xử phạt: Bị cáo Trương Văn B 07 (bảy) năm tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 21/6/2020.

Ngoài ra, Tòa án cấp sơ thẩm còn xử phạt các bị cáo khác mức án từ 02 năm tù cho hưởng án treo đến 10 năm tù, quyết định về trách nhiệm dân sự, xử lý vật chứng, án phí và quyền kháng cáo theo quy định pháp luật.

Sau khi xét xử sơ thẩm, ngày 19/01/2022 bị cáo Trương Văn B có đơn kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt.

Tại phiên toà phúc thẩm; bị cáo B cơ bản thừa nhận toàn bộ hành vi phạm tội như án sơ thẩm quy kết, tuy nhiên bị cáo cho rằng Toà án cấp sơ thẩm chưa đánh giá đúng tình tiết bị cáo ôm V. Bị cáo ôm V là để V không chém bị cáo và chém H chứ không phải ôm V để tạo điều kiện cho H chém Đình A. Bị cáo B giữ nguyên yêu cầu kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt vì cho rằng mức án 07 năm tù là nặng.

* Đại diện Viện kiểm sát xét xử phúc thẩm phát biểu: Căn cứ vào các chứng cứ có tại hồ sơ vụ án và lời khai nhận tội của bị cáo tại phiên tòa thấy rằng; Chỉ vì một mâu thuẫn nhỏ trong ứng xử, giao tiếp mà giữa bị cáo và bị hại thách thức đánh nhau nên khi được bị cáo H rủ đi đánh nhau thì bị cáo B đồng ý và cùng H chuẩn bị dao nhọn, chở H đi gặp Đình A và H đã dùng dao (loại dao chặt) chém 02 nhát hướng từ trên xuống làm Đình A đứt lìa bàn tay trái, và 01 nhát trúng cổ bên trái (kích thước 14 x 03 cm), hậu quả bị thương tích 56%. Việc bị hại không chết là do được cấp cứu kịp thời. Tòa án cấp sơ thẩm kết án bị cáo về tội “Giết người” theo điểm n khoản 1 Điều 123 Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017 là có căn cứ, đúng pháp luật.

Xét kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt thì thấy rằng khi quyết định hình phạt Tòa án cấp sơ thẩm đã đánh giá tính chất hành vi, hậu quả của tội phạm cũng như nhân thân của bị cáo, vai trò của bị cáo trong vụ án là đồng phạm giúp sức và đã áp dụng đầy đủ các tình tiết giảm nhẹ cho bị cáo theo điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự, xử phạt bị cáo mức án 07 năm tù là phù hợp, không nặng. Tại phiên tòa hôm nay bị cáo không có tình tiết giảm nhẹ nào mới, do đó đề nghị Hội đồng xét xử không chấp nhận kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt của bị cáo và giữ nguyên Bản án sơ thẩm.

* Luật sư bào chữa cho bị cáo phát biểu: Hành vi phạm tội của bị cáo như án sơ thẩm mô tả là đúng, tại phiên toà hôm nay không phải là bị cáo quanh co không thừa nhận hành vi phạm tội mà là bị cáo chưa đồng tình với nhận định của án sơ thẩm cho rằng bị cáo ôm V là để tạo điều kiện cho H chém Đình A. Bị cáo được H rủ đi thì bị cáo biết là đi đánh nhau và có mang theo dao là đúng, tuy nhiên tình tiết B ôm V là để V không chém H. Bị cáo B có mang dao theo nhưng khi đến nơi đánh nhau thì bị cáo không rút dao ra chém mà ôm V lại, từ đó đã hạn chế hậu quả lớn hơn có thể xảy ra là V chém được H. Ngoài ra bị cáo còn có tình tiết giảm nhẹ theo khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự là sau khi phạm tội bị cáo đã ra đầu thú. Từ đó đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận kháng cáo của bị cáo, sửa án sơ thẩm giảm nhẹ một phần hình phạt cho bị cáo.

Bị cáo Trương Văn B thống nhất với bài bào chữa của luật sư và không tranh luận gì thêm.

Bị cáo nói lời nói sau cùng: Bị cáo rất ân hận về hành vi của mình, mong Hội đồng xét xử chấp nhận kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt của bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Cơ quan tiến hành tố tụng tại giai đoạn sơ thẩm đã thực hiện đúng thẩm quyền, trình tự, thủ tục theo quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự.

[2] Đơn kháng cáo của bị cáo Trương Văn B đúng về hình thức, nội dung, trong hạn luật định, được xác định là hợp lệ nên kháng cáo của bị cáo được Hội đồng xét xử phúc thẩm xem xét theo trình tự phúc thẩm.

[3] Tại phiên toà phúc thẩm bị cáo B đã khai nhận hành vi phạm tội của mình như nội dung án sơ thẩm đã nêu; lời khai nhận của bị cáo phù hợp với lời khai của các bị cáo Lưu Đình H, Vi Văn V, phù hợp với lời khai của bị hại, của người làm chứng, phù hợp với Biên bản khám nghiệm hiện trường, bản Kết luận giám định pháp y cùng những tài liệu, chứng cứ đã thu thập có tại hồ sơ vụ án và được xét hỏi công khai tại phiên tòa, đủ cơ sở kết luận: Do mâu thuẫn nhỏ trong lúc ăn uống tại phòng trọ của bị cáo V, dẫn đến cự cãi, thách thức hẹn đánh nhau giữa bị cáo H, B với Đình A, V. Bị cáo H và B đã chuẩn bị hung khí là loại dao chặt, dao bấm đi gặp Đình A và V để đánh nhau giải quyết mâu thuẫn. Khi nhìn thấy Đình A và V cũng cầm mỗi người 01 con dao thì B lao vào ôm chặt bị cáo V, còn bị cáo H dùng dao (loại dao chặt) chém 02 nhát hướng từ trên xuống làm Đình A đứt lìa bàn tay trái, và 01 nhát trúng cổ bên trái (kích thước 14 x 03 cm), hậu quả bị thương tích 56%. Hành vi của các bị cáo thể hiện tính côn đồ, hung hãn, coi thường pháp luật, coi thường tính mạng của người khác, chỉ vì một mâu thuẫn nhỏ nhặt mà các bị cáo chuẩn bị, dùng khí nguy hiểm chém vào vùng trọng yếu (cổ) trên cơ thể bị hại; việc bị hại không chết là nằm ngoài ý muốn của các bị cáo do được cứu chữa kịp thời. Do đó, Tòa án cấp sơ thẩm tuyên bố bị cáo H, B phạm tội “Giết người” với tình tiết định khung tăng nặng “có tính chất côn đồ” theo điểm n khoản 1 Điều 123 Bộ luật hình sự năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017 là có căn cứ, đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.

[4] Xét kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt của bị cáo B; Hội đồng xét xử phúc thẩm thấy rằng: Đây là vụ án có tính chất đồng phạm, bị cáo B tham gia với vai trò đồng phạm giúp sức; khi được bị cáo H rủ đi đánh nhau với Đình A để giải quyết mâu thuẫn thì bị cáo đồng ý ngay và tích cực thực hiện, cùng H chuẩn bị dao, chở H đến địa điểm gây án, sau khi H chém Đình A thì chở H tẩu thoát. Toà án cấp sơ thẩm đã xem xét về nhân thân của bị cáo, đánh giá tính chất hành vi, hậu quả của tội phạm cũng như vai trò của bị cáo, đã áp dụng đầy đủ các tình tiết giảm nhẹ cho bị cáo theo điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự, xử phạt bị cáo mức án 07 năm tù là thoả đáng, không nặng. Tại phiên tòa hôm nay bị cáo không có thêm tình tiết giảm nhẹ nào mới nên không có căn cứ để giảm hình phạt cho bị cáo. Hội đồng xét xử phúc thẩm giữ nguyên quyết định về hình phạt của Bản án sơ thẩm đối với bị cáo B.

[5] Quan điểm của luật sư bào chữa cho bị cáo đề nghị xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo B là không có cơ sở nên không được chấp nhận.

[6] Quan điểm của Đại diện Viện kiểm sát xét xử phúc thẩm tại phiên tòa đề nghị Hội đồng xét xử không chấp nhận kháng cáo của bị cáo, không chấp nhận kháng cáo của đại diện bị hại là có căn cứ nên được chấp nhận.

[7] Án phí hình sự phúc thẩm: Do kháng cáo không được chấp nhận nên bị cáo phải chịu tiền án phí hình sự phúc thẩm theo quy định.

[8] Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào điểm a khoản 1 Điều 355 của Bộ luật Tố tụng Hình sự năm 2015.

Không chấp nhận kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt của bị cáo Trương Văn B.

Giữ nguyên Bản án hình sự sơ thẩm số 03/2022/HS-ST ngày 06/01/2022 của Tòa án nhân dân tỉnh Bình Dương về hình phạt đối với bị cáo Trương Văn B.

Tuyên bố bị cáo Trương Văn B phạm tội “Giết người”.

Căn cứ điểm n khoản 1 Điều 123; các điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51;

Điều 38 của Bộ luật Hình sự.

Xử phạt: Bị cáo Trương Văn B 07 (bảy) năm tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 21/6/2020.

Tiếp tục tạm giam bị cáo để đảm bảo thi hành án.

Án phí hình sự phúc thẩm: Bị cáo Trương Văn B phải chịu 200.000 đồng tiền án phí hình sự phúc thẩm.

Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

592
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội giết người số 278/2022/HS-PT

Số hiệu:278/2022/HS-PT
Cấp xét xử:Phúc thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân cấp cao
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 06/05/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về