TÒA ÁN NHÂN DÂN CẤP CAO TẠI HÀ NỘI
BẢN ÁN 274/2024/HS-PT NGÀY 11/04/2024 VỀ TỘI GIẾT NGƯỜI
Ngày 11 tháng 4 năm 2024, tại điểm cầu trung tâm (trụ sở Tòa án nhân dân cấp cao tại Hà Nội) và điểm cầu thành phần (trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh T), Tòa án nhân dân cấp cao tại Hà Nội xét xử phúc thẩm công khai trực tuyến vụ án hình sự thụ lý số 114/2024/HS-PT ngày 29 tháng 01 năm 2024 đối với bị cáo Nguyễn T L phạm tội “Giết người” do có kháng cáo của bị cáo đối với Bản án hình sự sơ thẩm số 54/2023/HS-ST ngày 22 tháng 12 năm 2023 của Tòa án nhân dân tỉnh T.
* Bị cáo có kháng cáo: Nguyễn T L; sinh ngày 20/01/1995 tại tỉnh T; nơi cư trú: Thôn 5, xã Kim Phú, thành phố T, tỉnh T; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ học vấn: 06/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Nguyễn V L và bà Tạ Thị Th; có vợ là Đoàn Thị H và 02 con (con lớn sinh năm 2015, con nhỏ sinh năm 2019); tiền án, tiền sự: Không.
Bị cáo bị bắt tạm giữ, tạm giam từ ngày 23/10/2022, hiện đang tạm giam tại Trại tạm giam Công an tỉnh T. Có mặt tại phiên tòa.
* Người bào chữa cho bị cáo: Luật sư Phùng Thanh V, văn phòng luật sư Phùng Thanh V, Đoàn Luật sư tỉnh T; địa chỉ: Số 3, tổ 15, phường M Xuân, thành phố T, tỉnh T. Có mặt tại phiên tòa.
* Bị hại:
1. Anh Nguyễn Công H, sinh năm 1998 (đã chết);
Đại diện theo pháp luật: bà Hà Thị Hương G; sinh năm 1976 (mẹ đẻ của bị hại H); nơi cư trú: Tổ 6, phường Mỹ L, thành phố T, tỉnh T. Vắng mặt
2. Anh L V Đ, sinh năm 2004; nơi cư trú: Thôn 28, xã Kim Phú, thành phố T, tỉnh T. Có mặt
3. Anh Hoàng Dy T, sinh năm 2004; Nơi cư trú: Tổ 6, phường Mỹ L, thành phố T, tỉnh T. Vắng mặt.
Ngoài ra còn có những người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan và người làm chứng không liên quan đến kháng cáo, Tòa án không triệu tập.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Khoảng 20 giờ 30 phút ngày 22/10/2022, bị cáo Nguyễn T L (sau khi ăn cơm, uống rượu tại đám cưới anh Nguyễn V Long), điều khiển xe mô tô biển số 22B2 - xxxxx (xe của L) chở Lê Thị G (bạn bị cáo) đến quán ăn của anh Chử V Th ở tổ 2, phường Mỹ L. Trên đường đi, bị cáo đón Lương Thị V (bạn bị cáo) và điện thoại rủ Nguyễn V Th (bạn bị cáo và là cậu của G) đi ăn cùng. Khi đến quán, bị cáo đặt anh Th 01 nồi lẩu, do quán ăn của anh Th không có sẵn đồ ăn nên anh Th mượn xe mô tô của bị cáo đi mua. Lúc này bị cáo, G, V ngồi ở cửa quán thì thấy anh Th điều khiển xe mô tô đi qua và vào quán nhà anh Phạm Đình Th ở tổ 2, phường Mỹ L (cách quán anh Th 35 mét). Thấy vậy, bị cáo, G và V đi sang nhà anh Th để gặp Th, lúc này tại quán nhà anh Th có nhiều người đang ở quán, gồm: Nhóm của Nguyễn Công H ở tổ 6, phường Mỹ L (gồm: H, Hoàng Dy T, Ngô Anh D, Nguyễn Thuỳ L và Vũ Bình M); nhóm của L V Đ (gồm: Đ và Vũ Đình H) và Phạm Đình Th, Liễu Thị H1 (vợ chồng chủ quán) cùng một số người khác. Sau đó bị cáo và Th chơi Bi-a trong quán nhà anh Th thì mọi người xem và ngồi chơi ở xung quanh.
Đến khoảng 21 giờ 30 phút cùng ngày, trong lúc bị cáo và Th đang chơi Bi-a thì giữa V, G xảy ra mâu thuẫn, cãi chửi nhau với Ngô Anh D và Hoàng Dy T. G tay phải cầm 01 ống điếu bằng nứa (ở nhà anh Th) vụt 01 phát trúng vào lưng T, T tay phải cầm 01 quả Bi-a ném trúng vào vùng đầu bên trái của G. Thấy G bị ném, bị cáo đến can ngăn thì bị T, D, Nguyễn Công H và Nguyễn Huy D dùng tay, chân đấm, đá vào người. Bị cáo chạy về quán ăn của anh Th, thấy ở trên bàn bếp có 01 con dao nhọn (kích thước dài 29,5 cm, phần bản lưỡi bằng kim loại dài 19 cm, chỗ rộng nhất 5,5 cm). Bị cáo tay phải cầm dao chạy lại phía quán nhà anh Th, vừa chạy bị cáo vừa cởi áo ra. Khi đến trước cửa quán, bị cáo thấy Hoàng Dy T tay phải cầm gậy Bi-a và Nguyễn Công H đang đứng ở sân. Bị cáo chạy đến phía T thì T chạy từ trong sân ra ngoài đường Quốc lộ 37, bị cáo đuổi theo, khi ra đến lề đường bên phải theo hướng Mỹ L đi T thì T quay người lại, đối diện với bị cáo, cách khoảng 01 mét. Lúc này, bị cáo tay phải cầm dao vung lên đâm 02 nhát trúng vào vùng ngực trước bên phải (vị trí khoang liên sườn 7, 8, 9) của T gây thương tích, T bỏ chạy. Thấy T bị đâm thì H chạy đến, đứng bên cạnh phía bên tay phải của bị cáo, chếch chéo phía trước mặt bị cáo, cách khoảng 50 cm, bị cáo tay phải cầm dao, lưỡi dao quay hướng xuống mặt đường, đâm 01 nhát theo chiều hướng từ sau ra trước, từ phải sang trái trúng vào vùng bụng bên trái của H gây thương tích, H ngã xuống đường. Cùng lúc này L V Đ (trước đó Đ không xô xát với bị cáo) chạy đến đứng đối diện bị cáo, cách khoảng 50cm, bị cáo cầm dao bằng tay phải vung lên đâm 01 nhát trúng vào vùng bụng bên phải của Đ gây thương tích, Đ bỏ chạy. Sau đó bị cáo đến vị trí H đang ngồi dùng chân phải đá nhiều nhát vào vùng đầu, cổ, vai H gây thương tích, vừa đá, bị cáo vừa nói “Biết bố mày là ai không?” rồi bị cáo tiếp tục dùng 02 chân đè H nằm xuống đường. Lúc này, anh Phạm Đình Th (chủ quán) vào can ngăn, đẩy bị cáo vào phía trong nhà anh Th. Đối với Nguyễn Công H, Hoàng Dy T và L V Đ được mọi người đưa đi cấp cứu tại Bệnh viện đa khoa tỉnh T, do thương tích nặng H đã bị chết trên đường đi cấp cứu. Đối với bị cáo Nguyễn T L sau khi thực hiện hành vi phạm tội, bị cáo cầm dao ngồi ở quán nhà anh Th, hồi 22 giờ cùng ngày Tổ công tác của Công an phường Mỹ L, thành phố T đã lập Biên bản bắt người phạm tội quả tang.
Tại Phiếu đo nồng độ cồn, hồi 00 giờ 18 phút ngày 23/10/2022 của Công an thành phố T đối với đối với Nguyễn T L, kết quả: 0,293 mg/L (Không phẩy hai trăm chín mươi ba miligram/lít).
Tại Bản Kết luận giám định pháp y về tử thi số 1288/KL-KTHS, ngày 07/11/2022 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh T đối với Nguyễn Công H:
- Dấu hiệu chính qua giám định:
+ Vùng đầu, mặt, hai tay, hai chân có các vết bầm tím, xây xát, rách mất da.
+ Vết thương thấu bụng trái: Hố chậu trái có vết thương, kích thước (6,2 x 2,5)cm; bờ mép vết thương sắc gọn, thành vết thương phẳng, trục vết thương nằm ngang với trục dọc cơ thể, đầu trong vết thương tạo thành góc tù, đầu ngoài vết thương tạo thành góc nhọn; khi khép miệng vết thương thấy tổ chức dưới da, cơ không bị khuyết mất và có chiều dài 7,2cm; vết thương thấu vào trong ổ bụng làm rách cơ vùng hố chậu trái, vùng hạ vị, đứt bán phần các quai ruột non, mạc treo và động mạch chậu trong bên phải đứt rời, vết thương kết thúc ở mặt trong trên cánh chậu phải và có chiều dài khoảng 18cm, hướng hơi chếch từ dưới lên trên, từ trái sang phải. Ổ bụng chứa nhiều máu loãng không đông lẫn cục máu đông. Vi thể: Các tạng xung huyết; tổ chức dưới da, cơ vết thương hố chậu trái chảy máu, hồng cầu đông vón thành đám.
- Nguyên nhân chết: Mất máu cấp do vết thương thấu bụng, đứt động mạch chậu trong phải, rách mạc treo, thủng ruột non.
- Cơ chế gây thương tích:
+ Vết thương ở vùng hố chậu trái thấu bụng do bị đâm bằng vật sắc nhọn.
+ Vết thương cằm trái, ngón II tay trái do vật sắc gây ra.
+ Thương tích ngón I, ngón II bàn chân trái do chuyển động tịnh tiến của bề mặt da với mặt phẳng kém nhẵn gây ra.
+ Các thương tích còn lại do vật tày gây ra.
Tại Bản Kết luận pháp y về thương tích số 194/2022/TgT, ngày 30/12/2022 của Trung tâm Pháp y tỉnh T đối với Hoàng Dy T:
- Dấu hiệu chính qua giám định: Vùng ngực phải, cách núm vú phải 02 cm, có sẹo, kích thước (4,5 x 0,5)cm, sẹo màu hồng mềm, phẳng, bờ gọn, sẹo chết từ phải sang trái. Khoang liên sườn 7-8 ngực phải, có sẹo nằm ngang, kích thước (19 x 0,5)cm, sẹo màu hồng mềm, phẳng, bờ gọn (Sẹo phẫu thuật mở rộng vết thương). Đường nách giữa bên phải, tương ứng với khoang liên sườn 4-5 có sẹo, đường kính 1,5cm, sẹo màu hồng mềm, phẳng (Sẹo dẫn lưu màng phổi phải). 1/3 dưới mặt sau cánh tay phải có sẹo, kích thước (4,5 x 0,5)cm, sẹo màu hồng mềm, phẳng, bờ gọn, vận động cánh tay, khủy tay, cảng tay, bàn ngón tay bình thường.
+ Tổn thương phổi: 06%.
+ Tổn thương tim: 08%.
+ Sẹo vùng ngực phải: 02%.
+ Sẹo khoang liên sườn 7-8 ngực phải: 03%.
+ Sẹo đường nách giữa bên phải: 01%.
+ Sẹo 1/3 dưới mặt sau cánh tay phải: 02%.
- Cơ chế, vật gây thương tích: Thương tích trên là do vật sắc nhọn tác động trực tiếp gây nên.
Tỷ lệ tổn thương cơ thể do thương tích gây nên hiện tại là: 20 % (Hai mươi phần trăm) theo phương pháp cộng tại Thông tư.
Tại Bản Kết luận pháp y về thương tích số 195/2023/TgT, ngày 04/01/2023 của Trung tâm Pháp y tỉnh T đối với L V Đ:
- Dấu hiệu chính qua giám định:
+ Vùng hố chậu phải có vết sẹo nằm ngang, kích thước (2,5 x 0,3)cm, sẹo màu hồng phẳng, bờ mép sắc gọn. Đường trắng giữa trên và dưới rốn có sẹo dài 12cm, rộng 0,6cm (Sẹo phẫu thuật). Mạn sườn phải trên đường nách giữa có sẹo dẫn lưu đường kính 01cm.
+ Thủng mạc treo đã được điều trị khâu cầm máu: 21%.
+ Rách thanh cơ ruột non đã được khâu: 03%.
+ Sẹo phẫu thuật đường trắng giữa kích thước như mô tả: 03%.
+ Sẹo dẫn lưu vùng mạn sườn phải như mô tả: 01%.
+ Sẹo vùng hố chậu phải như mô tả: 01%.
- Cơ chế, vật gây thương tích: Thương tích như trên là do vật sắc nhọn tác động trực tiếp gây nên. Tỷ lệ tổn thương cơ thể do thương tích gây nên hiện tại là: 27 % (Hai mươi bảy phần trăm) theo phương pháp cộng tại Thông tư.
Tại Bản Kết luận giám định tổn thương cơ thể trên người sống số 127/2023/KLTTCT-TTPY, ngày 24/5/2023 của Trung tâm Pháp y tỉnh T đối với Nguyễn T L:
- Các kết quả chính: Tại thời điểm giám định trên thân thể của Nguyễn T L không có thương tích gì, không có % tổn thương cơ thể.
- Kết luận: Căn cứ Thông tư số 22/2019/TT-BYT, ngày 28/8/2019 của Bộ Y tế quy định tỷ lệ phần trăm tổn thương cơ thể sử dụng trong giám định pháp y, xác định tỷ lệ phần trăm tổn thương cơ thể của Nguyễn T L tại thời điểm giám định là: 0 % (Không có phần trăm).
Tại Bản Kết luận pháp y về thương tích số 154/2022/TgT, ngày 28/10/2022 của Trung tâm Pháp y tỉnh T đối với Lê Thị G:
- Dấu hiệu chính qua giám định: Vùng thái dương đỉnh bên trái trong chân tóc 01 cm có vết thương, kích thước (03 x 0,2)cm, vết thương được khâu 04 mũi chỉ, còn đóng vảy máu, xung quanh vết thương còn sưng nề, bờ mép vết thương không gọn. Vết thương phần mềm chưa liền sẹo: 01%.
- Cơ chế, vật gây thương tích: Thương tích như trên là do vật tày tác động trực tiếp gây nên. Tỷ lệ tổn thương cơ thể do thương tích gây nên hiện tại là: 01% (Một phần trăm).
Tại Bản Kết luận giám định số 1309/KL-KTHS, ngày 29/10/2022 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh T, kết luận đối với Nguyễn Công H: Mẫu máu gửi giám định có cồn (Ethanol). Nồng độ cồn trong mẫu gửi giám định là 152,677mg/100ml (Một trăm năm mươi hai phẩy sáu trăm bảy mươi bảy miligam trên một trăm mililit).
Tại Bản Kết luận giám định số 1310/KL-KTHS, ngày 29/10/2022 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh T, kết luận đối với Hoàng Dy T: Mẫu máu gửi giám định có cồn (Ethanol). Nồng độ cồn trong mẫu gửi giám định là 73,014mg/100ml (Bảy mươi ba phẩy không trăm mười bốn miligam trên một trăm mililit).
Tại Bản Kết luận giám định số 1311/KL-KTHS, ngày 29/10/2022 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh T, kết luận đối với L V Đ: Mẫu máu gửi giám định có cồn (Ethanol). Nồng độ cồn trong mẫu gửi giám định là 49,306mg/100ml (Bốn mươi chín phẩy ba trăm linh sáu miligam trên một trăm mililit).
Tại Bản Kết luận giám định số 678/KL-KTHS, ngày 25/5/2023 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh T, giám định kỹ thuật số và điện tử, kết luận: Trong thẻ nhớ gửi giám định, tìm thấy 01 (một) file video có tên: “21.30.02_M”, mã MD5: 35A6F491E201E10482623AF315326301, ghi lại hình ảnh liên quan đến vụ việc xô sát đánh nhau, xảy ra ngày 22/10/2022 (theo thời gian hiển thị của video); file video không bị cắt ghép, chỉnh sửa nội dung. Không gian, thời gian xảy ra vụ việc; đặc điểm về người, đồ vật; diễn biến hành động của những người có liên quan vụ việc được ghi lại trong file video được mô tả chi tiết trong bản ảnh giám định kèm theo. Sao lưu file video trên ra đĩa DVD.
Cáo trạng số 50/CT-VKS-P2 ngày 26 tháng 10 năm 2023, Viện kiểm sát nhân dân tỉnh T truy tố Nguyễn T L về tội “Giết người” theo quy định tại điểm a, n khoản 1 Điều 123 Bộ luật Hình sự.
Bản án hình sự sơ thẩm số 54/2023/HS-ST ngày 22 tháng 12 năm 2023 của Tòa án nhân dân tỉnh T đã Quyết định:
1. Căn cứ: Điểm a, n khoản 1 Điều 123; điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 39 Bộ luật Hình sự;
Tuyên bố bị cáo Nguyễn T L phạm tội “Giết người”.
Xử phạt: Bị cáo Nguyễn T L tù Chung Thân. Thời hạn tù tính từ ngày bị cáo bị bắt tạm giữ, tạm giam ngày 23/10/2022.
2. Về trách nhiệm bồi thường dân sự: Căn cứ Điều 48 Bộ luật Hình sự và các Điều 584, 585, 586, 590, 591, 357, 468 Bộ luật Dân sự; Nghị quyết số 03/2006/NQ-HĐTP ngày 08/7/2006 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao hướng dẫn áp dụng một số quy định của Bộ luật Dân sự về bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng.
- Công nhận sự thỏa thuận về trách nhiệm bồi thường dân sự giữa bị cáo Nguyễn T L và các bị hại Hoàng Dy T, L V Đ như sau: Bị cáo Nguyễn T L có trách nhiệm bồi thường thiệt hại về sức khỏe cho bị hại Hoàng Dy T số tiền 80.000.000 đồng (Tám mươi triệu đồng chẵn) và có trách nhiệm bồi thường thiệt hại về sức khỏe cho bị hại L V Đ số tiền 40.000.000 đồng (Bốn mươi triệu đồng chẵn).
- Buộc bị cáo Nguyễn T L phải bồi thường cho đại diện theo pháp luật của bị hại Nguyễn Công H là bà Hà Thị Hương G khoản tiền thiết hại về tính mạng là 265.000.000 đồng, được trừ đi khoản tiền bị cáo đã bồi thường trước 165.000.000 đồng. Bị cáo còn phải bồi thường tiếp số tiền là 100.000.000 đồng (Một trăm triệu đồng chẵn).
Tổng số tiền bị cáo còn phải bồi thường cho các bị hại Hoàng Dy T, L V Đ và đại diện theo pháp luật của bị hại Nguyễn Công H là 220.000.000 đồng (Hai trăm hai mươi triệu đồng chẵn).
Khoản tiền bồi thường trên, kể từ ngày bản án có hiệu lực pháp luật và kể từ ngày có đơn yêu cầu thi hành án của người được thi hành án cho đến khi thi hành án xong, bên phải thi hành án còn phải chịu khoản tiền lãi của số tiền còn phải thi hành án theo mức lãi suất quy định tại Điều 357; Điều 468 của Bộ luật Dân sự, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác.
Bản án sơ thẩm còn quyết định về xử lý vật chứng, án phí và thông báo về quyền kháng cáo theo quy định.
Sau khi xét xử sơ thẩm, ngày 12/02/2024, bị cáo Nguyễn T L có đơn kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt.
Tại phiên tòa phúc thẩm, bị cáo Nguyễn T L thành khẩn khai nhận hành vi phạm tội và đề nghị Hội đồng xét xử phúc thẩm giảm nhẹ hình phạt sơ với bản án sơ thẩm đã tuyên.
Luật sư Phùng Thanh V trình bày quan điểm bào chữa cho bị cáo Nguyễn T L với nội dung: Nguyễn T L can ngăn xô xát khi chị G bị T ném bi-a trúng đầu, thì L bị nhóm T, D, H và D xông vào đánh đấm L. Do vậy, nhóm bị hại đã có hành vi trái pháp luật dẫn đến hành vi của L. Bản án sơ thẩm không áp dụng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự cho L (quy định tại điểm c, e khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự) là thiếu sót. Đề nghị Hội đồng xét xử phúc thẩm áp dụng thêm các tình tiết giảm nhẹ này, để giảm nhẹ hình phạt của Bản án sơ thẩm đã tuyên cho bị cáo Nguyễn T L.
Bị hại L V Đ trình bày: không có ý kiến gì về hình phạt mà bản án sơ thẩm đã tuyên đối với bị cáo; xác nhận bị cáo chưa bồi thường cho anh Đ khoản tiền nào theo bản án sơ thẩm đã tuyên.
Đại diện Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Hà Nội tham gia phiên tòa phát biểu ý kiến: Bản án sơ thẩm đã xét xử bị cáo Nguyễn T L về tội “Giết người” quy định tại điểm a, n khoản 1 Điều 123 Bộ luật Hình sự là đúng. Phía bị hại tuy có một phần lỗi (đã đánh, đấm L nhưng không gây thương tích gì, không làm bị cáo kích động mạnh) và xét toàn bộ quá trình diễn biến mâu thuẫn xô xát, không đủ cơ sở để áp dụng thêm các tình tiết giảm nhẹ như luật sư đề nghị. Tòa án cấp sơ thẩm đã áp dụng đầy đủ các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự cho bị cáo và xử phạt tù Chung thân là phù hợp. Bị cáo kháng cáo nhưng không có tình tiết giảm nhẹ gì mới. Đề nghị Hội đồng xét xử không chấp nhận kháng cáo, giữ nguyên hình phạt của bản án sơ thẩm đối với bị cáo Nguyễn T L.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1] Tại phiên tòa phúc thẩm, Nguyễn T L khai nhận đã thực hiện hành vi phạm tội như bản án sơ thẩm đã nêu. Lời khai nhận tội của bị cáo phù hợp với lời khai trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử sơ thẩm; phù hợp với Biên bản khám nghiệm hiện trường, Biên bản khám nghiệm tử thi, Kết luận giám định, Vật chứng thu giữ, lời khai của những người làm chứng, Biên bản thực nghiệm điều tra và các tài liệu chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án.
Đủ cơ sở kết luận: Khoảng 21 giờ 40 phút, ngày 22/10/2022, chỉ vì có mâu thuẫn nhỏ với nhóm bị hại (khi vào can ngăn việc bạn bị đánh thì L bị đánh, bị đấm) nhưng L đã chạy về quán ăn của anh Th để lấy con dao nhọn (kích thước dài 29,5 cm, phần bản lưỡi bằng kim loại dài 19 cm, chỗ rộng nhất 5,5 cm) quay lại quán bi a (nhà anh Th) và đã sử dụng dao đâm 02 nhát vào vùng ngực trước bên phải của Hoàng Dy T; sau đó khi Nguyễn Công H (bạn T) chạy đến thì L tiếp tục dùng tay phải cầm dao đâm 01 nhát (theo chiều hướng từ phải sang trái trúng vào vùng bụng bên trái của H) và tiếp tục tay phải cầm dao đâm 01 nhát trúng vào vùng bụng bên phải của L V Đ. Hậu quả đã làm Nguyễn Công H chết; Hoàng Dy T bị tổn thương cơ thể 20 %; L V Đ bị tổn thương cơ thể 27 %.
Tòa án cấp sơ thẩm đã xét xử Nguyễn T L về tội “Giết người” quy định tại điểm a, điểm n khoản 1 Điều 123 Bộ luật Hình sự là đúng.
[2] Xét kháng cáo của Nguyễn T L về quyết định hình phạt (xin giảm nhẹ hình phạt):
- Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Bị cáo phạm tội không có tình tiết tăng nặng.
- Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Quá trình tố tụng, bị cáo Nguyễn T L đều thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải; bị cáo đã tác động gia đình bồi thường một phần thiệt hại cho gia đình bị hại; các bị hại L V Đ, Hoàng Dy T và đại diện bị hại Nguyễn Công H đều xin giảm nhẹ trách nhiệm hình sự cho bị cáo. Bản án sơ thẩm đã áp dụng các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại các điểm b, s khoản 1 và khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự.
Hành vi của bị cáo có tính chất côn đồ nên Tòa án cấp sơ thẩm không áp dụng các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm c, điểm e khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự, là có căn cứ. Do vậy, Hội đồng xét xử phúc thẩm không chấp nhận đề nghị của luật sư bào chữa về việc áp dụng các tình tiết giảm nhẹ này cho Nguyễn T L.
- Tòa án cấp sơ thẩm đã xử phạt bị cáo Nguyễn T L tù Chung thân là đánh giá đúng tính chất và mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội của bị cáo; phù hợp nhân thân, các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự và bảo đảm tính trừng trị, giáo dục đối với bị cáo và đấu tranh phòng ngừa chung.
- Nguyễn T L kháng cáo nhưng không có thêm tình tiết giảm nhẹ gì mới. Hội đồng xét xử phúc thẩm không có căn cứ để chấp nhận.
[3] Kháng cáo không được chấp nhận nên Nguyễn T L phải chịu án phí hình sự phúc thẩm.
[4] Các phần khác của bản án sơ thẩm không bị kháng cáo, kháng nghị, Hội đồng xét xử phúc thẩm không xem xét.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ vào khoản 2 Điều 136, khoản 2 Điều 344, Điều 345, điểm a khoản 1 Điều 355, Điều 356 Bộ luật Tố tụng hình sự; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án:
1. Không chấp nhận kháng cáo và giữ nguyên quyết định về hình phạt của Bản án sơ thẩm số 54/2023/HS-ST ngày 22/12/2023 của Toà án nhân dân tỉnh T:
Áp dụng điểm a, n khoản 1 Điều 123; điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51;
Điều 39 Bộ luật Hình sự, xử phạt Nguyễn T L tù Chung Thân về tội “Giết người”, thời hạn tù tính từ ngày bị cáo bị bắt tạm giữ, tạm giam ngày 23/10/2022.
2. Bị cáo Nguyễn T L phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự phúc thẩm.
3. Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không bị kháng cáo, kháng nghị có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.
Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án 11/4/2024.
Bản án về tội giết người số 274/2024/HS-PT
Số hiệu: | 274/2024/HS-PT |
Cấp xét xử: | Phúc thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân cấp cao |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 11/04/2024 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về