Bản án về tội giết người số 261/2021/HS-PT

TÒA ÁN NHÂN DÂN CẤP CAO TẠI THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

BẢN ÁN 261/2021/HS-PT NGÀY 28/04/2021 VỀ TỘI GIẾT NGƯỜI

Ngày 28 tháng 4 năm 2021 tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Cần Thơ, Tòa án cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh xét xử phúc thẩm vụ án hình sự thụ lý số: 104/TLPT-HS ngày 08 tháng 02 năm 2021 đối với bị cáo Trần Thanh T do có kháng cáo Bản án hình sự sơ thẩm số: 60/2020/HS-ST ngày 28 tháng 12 năm 2020 của Tòa án nhân dân thành phố Cần Thơ.

- Bị cáo có kháng cáo: Trần Thanh T; sinh năm 1973 tại thành phố Cần Thơ; nơi thường trú: Ấp N, xã N1, huyện P thành phố Cần Thơ; nghề nghiệp: Lái đò; trình độ học vấn: Lớp 5/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Trần Văn T1 (chết) và bà Lý Thị C; có vợ là bà Lê Thị Mỹ H (bị hại trong vụ án); có 03 người con (lớn nhất sinh năm 1993 và nhỏ nhất sinh năm 2010); tiền án: Không; tiền sự: Ngày 26/08/2015 bị công an xã N1, huyện P, thành phố Cần Thơ xử phạt 750.000 đồng về hành vi đánh nhau, chưa nộp phạt; bị tạm giam đến ngày 22/09/2020; Bị cáo có mặt tại phiên tòa.

Người bào chữa chỉ định cho bị cáo: Luật sư Nguyễn Văn T - Công ty luật trách nhiệm hữu hạn một thành viên T - thuộc Đoàn Luật sư Thành phố Cần Thơ, có mặt.

Người đại diện hợp pháp của bị hại có kháng cáo: Bà Hồ Thị Lệ H, sinh năm 1951; nơi cư trú: Ấp T, xã N1, huyện P, thành phố Cần Thơ.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Trần Thanh T và chị Lê Thị Mỹ H là vợ chồng hành nghề đưa đò tại bến đò Mương Ngang thuộc ấp A, xã N2, huyện P, thành phố Cần Thơ.

Vào khoảng 17 giờ ngày 21/9/2020, sau khi uống bia về, T đến nhà ông Trần Thanh V ngụ cùng ấp để đòi tiền ông V thiếu nợ. Trong lúc nói chuyện thì ông V nói với T về việc thấy chị H đi vào nhà của ông Nguyễn Văn T đối diện nhà V. T nghi ngờ chị H có quan hệ tình cảm với ông Tuấn nên T xuống bến đò gặp chị H để hỏi chuyện, chị H không thừa nhận có quan hệ tình cảm với ông Tuấn, T bực tức dùng tay đánh trúng mặt chị H một cái, chị H bỏ đi, còn T đi về nhà nằm nghỉ.

Đến khoảng 22 giờ cùng ngày chị H về nhà lấy quần áo để đi tắm, lúc này T từ trong phòng ngủ đi ra tiếp tục hỏi chị H về việc quan hệ tình cảm với ông Tuấn, thấy T lớn tiếng nên chị H cầm quần áo bỏ chạy ra đường lộ, T rượt theo sau. Khi chạy cách nhà được khoảng 200 mét thì chị H vấp ngã xuống đường, T chạy đến nắm tóc kéo lại, chị H liên tục vùng vẫy, giằng co để thoát thân nên T dùng tay đánh nhiều cái vào mặt, nắm đầu đập xuống đường lộ bằng bê tông nhiều lần, dùng chân đá vào người, khi thấy đầu chị H chảy máu, bất tỉnh thì T mới dừng lại. Lúc này chị Nguyễn Thị Bé Đ ở cùng xóm chạy đến can ngăn. T thấy chị H bất tỉnh nên cùng bà Hồ Thị Lệ H (mẹ ruột của chị H) đưa chị H đến bệnh viện đa khoa Trung ương Cần Thơ cấp cứu. Đến 03 giờ 45 phút ngày 22/9/2020 gia đình chuyển đến bệnh viện Chợ Rẫy thì các bác sĩ thông báo chị H đã tử vong trước khi vào viện. Trần Thanh T bị bắt khẩn cấp.

Tại kết luận giám định pháp y tử thi số 215/KLGĐ-PC09 ngày 29/9/2020 của Phòng Kỹ thuật Hình sự, Công an thành phố Cần Thơ kết luận: Nạn nhân Lê Thị Mỹ H tử vong do xuất huyết não sau chấn thương sọ não nặng, do vật tày.

Tại bản kết luận giám định số 221/KLGĐ-PC09 (SV) ngày 30/10/2020 của phòng kỹ thuật hình sự, Công an thành phố Cần Thơ kết luận: Máu ghi thu của nạn nhân Lê Thị Mỹ H thuộc nhóm máu 0; Máu ghi thu của đối tượng Trần Thanh T thuộc nhóm máu 0. Vết nghi máu ghi thu tại hiện trường vị trí số 1; trên quần vải màu vàng và áo vải màu hồng là máu người, thuộc nhóm máu 0, trùng với nhóm máu của nạn nhân Lê Thị Mỹ H và đối tượng Trần Thanh T.

Về trách nhiệm dân sự: Bị cáo thỏa thuận bồi thường xong. Đại diện gia đình bị hại là bà Hồ Thị Lệ H không yêu cầu.

Tại cáo trạng số 64/CT-VKS-P2 ngày 19/11/2020 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Cần Thơ truy tố Trần Thanh T về tội “Giết người” theo điểm n khoản 1 Điều 123 Bộ luật Hình sự.

Tại Bản án hình sự sơ thẩm số: 60/2020/HS-ST ngày 28 tháng 12 năm 2020 của Tòa án nhân dân Thành phố Cần Thơ đã quyết định:

1. Tuyên bố bị cáo Trần Thanh T phạm tội “Giết người”.

2. Căn cứ điểm n khoản 1 Điều 123; điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 38 Bộ luật hình sự.

3. Xử phạt: Bị cáo Trần Thanh T 20 (hai mươi) năm tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù được tính từ ngày 22/9/2020.

Ngoài ra, Bản án sơ thẩm còn quyết định về xử lý vật chứng; về án phí hình sự sơ thẩm và quyền kháng cáo, kháng nghị theo quy định của pháp luật.

- Ngày 05/01/2021 bị cáo kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt.

- Ngày 11/01/2021 người đại diện hợp pháp của bị hại có bà Hồ Thị Lệ H có đơn kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

Tại phiên tòa phúc thẩm:

- Bị cáo Trần Thanh T khai nhận có thực hiện hành vi phạm tội như bản án sơ thẩm đã xử, tuy nhiên với mức hình phạt mà tòa tuyên xử là quá khắt khe. Đề nghị Tòa án cấp phúc thẩm giảm nhẹ một phần hình phạt cho bị cáo được sớm trở về nuôi dạy con còn nhỏ và chăm sóc mẹ già.

- Người đại diện hợp pháp của bị hại có bà Hồ Thị Lệ H giữ nguyên kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

- Đại diện Viện Kiểm sát phát biểu quan điểm giải quyết vụ án:

Đơn kháng cáo của bị cáo trong hạn luật định, đủ điều kiện để xem xét theo trình tự phúc thẩm. Về nội dung kháng cáo: Bản án sơ thẩm đã tuyên xử bị cáo Trần Thanh T phạm tội “Giết người” là đúng người, đúng tội. Tại phiên tòa phúc thẩm bị cáo không xuất trình được tình tiết giảm nhẹ mới. Do đó, đề nghị căn cứ khoản 1 Điều 355, 356 Bộ luật tố tụng hình sự không chấp nhận kháng cáo của bị cáo và người đại diện hợp pháp của bị hại giữ nguyên bản án sơ thẩm.

- Luật sư bào chữa cho bị cáo ý kiến: Thống nhất theo tội danh mà bản án sơ thẩm đã tuyên xử đối với bị cáo. Tuy nhiên bị cáo có nhiều tình tiết giảm nhẹ được quy định tại khoản 1, 2 Điều 51 Bộ luật hình sự. Tại phiên tòa phúc thẩm quần chúng nhân dân ở cùng địa phương có đơn xin giảm hình phạt cho bị cáo. Vì vậy đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận kháng cáo, giảm nhẹ một phần hình phạt cho bị cáo để bị cáo được sớm trở về sum họp gia đình.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Đơn kháng cáo của bị cáo Trần Thanh T và người đại diện hợp pháp của bị hại có bà Hồ Thị Lệ H làm trong thời hạn luật định, đủ điều kiện để xem xét giải quyết theo thủ tục phúc thẩm.

[2] Lời khai của bị cáo phù hợp với lời khai tại cơ quan điều tra, biên bản khám nghiệm hiện trường, kết luận giám định pháp y cùng các chứng cứ, tài liệu khác có trong hồ sơ vụ án, thể hiện: Vì nghi ngờ vợ là Lê Thị Mỹ H có quan hệ tình cảm với ông Nguyễn Văn T mà bị cáo Trần Thanh T dùng tay đánh vào mặt chị H, dùng tay nắm đầu chị H đập nhiều lần xuống đường lộ bê tông, và dùng chân đá vào người chị H đến khi thấy đầu chị H chảy nhiều máu và bất tỉnh bị cáo mới dừng lại. Sau đó chị H được đưa đi cấp cứu nhưng đã tử vong. Tại kết luận giám định pháp y tử thi số 215/KLGĐ-PC09 ngày 29/9/2020 của Phòng Kỹ thuật Hình sự, Công an thành phố Cần Thơ kết luận: Lê Thị Mỹ H tử vong do xuất huyết não sau chấn thương sọ não nặng, do vật tày.

Do đó Bản án sơ thẩm tuyên bố bị cáo Trần Thanh T về tội “Giết người” theo điểm n khoản 1 Điều 123 Bộ luật hình sự là hoàn toàn có căn cứ, đúng quy định của pháp luật.

[3] Hành vi phạm tội của bị cáo là đặc biệt nguy hiểm cho xã hội, trực tiếp xâm hại đến tính mạng con người, làm ảnh hưởng xấu đến an ninh trật tự an toàn xã hội ở địa phương nên phải xử phạt nghiêm để giáo dục riêng và răn đe phòng ngừa tội phạm chung trong toàn xã hội.

Xét bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự và có nhiều tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự như thật thà khai báo, ăn năn hối cải, tự nguyện thỏa thuận bồi thường thiệt hại, gia đình bị hại có đơn xin giảm hình phạt cho bị cáo được quy định tại điểm b, s khoản 1 và khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự vì vậy Tòa án sơ thẩm xử phạt bị cáo 20 năm tù là có căn cứ đảm đảm việc giáo dục riêng đối với bị cáo và răn đe phòng ngừa tội phạm chung trong toàn xã hội.

Tại phiên tòa phúc thẩm, mặc dù các hộ dân ở cùng địa phương của bị cáo làm đơn xin giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo nhưng chưa được xem là tình tiết giảm nhẹ được quy định tại khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự. Nên không có căn cứ chấp nhận kháng cáo của bị cáo và chấp nhận kháng cáo của đại diện hợp pháp của bị hại. Giữ nguyên bản án sơ thẩm về hình phạt đối với bị cáo Trần Thanh T.

[4] Quan điểm của Đại diện Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh đề nghị bác kháng cáo, giữ nguyên bản án sơ thẩm về hình phạt đối với bị cáo là có căn cứ.

[5] Về án phí hình sự phúc thẩm: Bị cáo Trần Thanh T kháng cáo không được chấp nhận nên phải chịu án phí hình sự phúc thẩm theo quy định tại khoản 2 Điều 23 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án;

[6] Các quyết định khác của Bản án sơ thẩm quyết định về xử lý vật chứng; về án phí hình sự sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

1. Căn cứ điểm a khoản 1, Điều 355; Điều 356 của Bộ luật tố tụng hình sự; Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Không chấp nhận kháng cáo của bị cáo Trần Thanh T và không chấp nhận kháng cáo của đại diện hợp pháp của bị hại có bà Hồ Thị Lệ H. Giữ nguyên Bản án hình sự sơ thẩm số: 60/2020/HS-ST ngày 28/12/2020 của Tòa án nhân dân thành phố Cần Thơ về hình phạt đối với bị cáo Trần Thanh T.

2. Áp dụng điểm n khoản 1 Điều 123, các điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51, Điều 38 Bộ luật Hình sự năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017;

Xử phạt: Bị cáo Trần Thanh T 20 (Hai mươi) năm tù về tội “Giết người”. Thời hạn chấp hành hình phạt tù được tính từ ngày 22/9/2020. Tiếp tục tạm giam bị cáo để đảm bảo thi hành án.

3. Về án phí hình sự phúc thẩm: Bị cáo Trần Thanh T phải nộp 200.000 đồng án phí hình sự phúc thẩm.

4. Các quyết định khác của Bản án sơ thẩm quyết định về xử lý vật chứng; Về án phí hình sự sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

5. Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án./.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

73
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội giết người số 261/2021/HS-PT

Số hiệu:261/2021/HS-PT
Cấp xét xử:Phúc thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân cấp cao
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 28/04/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về