Bản án về tội giết người số 244/2023/HS-PT

TÒA ÁN NHÂN DÂN CẤP CAO TẠI ĐÀ NẴNG

BẢN ÁN 244/2023/HS-PT NGÀY 29/06/2023 VỀ TỘI GIẾT NGƯỜI

Vào ngày 29 tháng 6 năm 2023 tại Trụ sở, Tòa án nhân dân cấp cao tại Đà Nẵng xét xử phúc thẩm vụ án hình sự thụ lý số 174/TLPT-HS ngày 18 tháng 4 năm 2023 đối với bị cáo Trần Ngọc H về tội “Giết người”. Do có kháng cáo của bị cáo, bị hại, người đại diện hợp pháp của bị cáo, người bào chữa đối với Bản án hình sự sơ thẩm số 19/2023/HS-ST ngày 08/3/2023 của Tòa án nhân dân thành phố Đà Nẵng.

Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 2380/2023-HSPT ngày 06 tháng 6 năm 2023.

- Bị cáo có kháng cáo:

Trần Ngọc H (tên gọi khác: C), sinh ngày 27/11/2002 tại thành phố Đà Nẵng; nơi cư trú: tổ D, phường C, quận T, thành phố Đà Nẵng; chỗ ở hiện nay: tổ D, phường H, quận C, thành phố Đà Nẵng; nghề nghiệp: không; trình độ học vấn: 9/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: không; Quốc tịch: Việt Nam; con ông Trần Ngọc M (sinh năm 1960) và bà Lê Thị L (sinh năm 1967); Gia đình có 03 chị em, bị cáo là con thứ hai, chưa có vợ con; tiền án: không;

Tiền sự: ngày 20/11/2020, bị UBND quận C, thành phố Đà Nẵng xử phạt vi phạm hành chính về hành vi “Tàng trữ vũ khí thô sơ” và “Xâm hại sức khỏe của người khác”.

Bị cáo bị bắt tạm giam ngày 23/02/2023 (có mặt).

- Những người tham gia tố tụng khác:

1. Người bào chữa cho bị cáo Trần Ngọc H: Luật sư Nguyễn Thành Đ – Công ty L1, thuộc Đoàn Luật sư thành phố Đ; Bào chữa theo yêu cầu của Tòa án (có mặt).

2. Bị hại có kháng cáo: Anh Nguyễn Hữu Hoàng N, sinh năm 1997; Nơi cư trú: tổ G, phường H, quận L, thành phố Đà Nẵng (có mặt).

3. Người đại diện hợp pháp của bị cáo Trần Ngọc H: Ông Trần Ngọc M, sinh năm 1960 và bà Lê Thị L, sinh năm 1967; cùng trú tại: Tổ D, phường H, quận C, thành phố Đà Nẵng (có mặt).

4. Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:

Ông Trần Ngọc M, sinh năm 1960; nơi cư trú: tổ D, phường H, quận C, thành phố Đà Nẵng (có mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 23 giờ ngày 23/11/2021, Nguyễn Hữu Hoàng N điều khiển xe môtô Wave và Huỳnh Thế B điều khiển xe môtô W cùng đi trên đường T hướng về đường T. Lúc này, Trần Ngọc H điều khiển xe mô tô hiệu Exciter, màu đen, BKS: 43C1-xxxxx chở Trần Thị Kim V đi trên đường T theo hướng ngược lại với N, B. Khi đến đoạn đường gần số nhà B T thì xe của B và N chạy tốc độ nhanh, lạng lách gần va chạm với xe của H, nên H thấy bực tức chạy xe vào vỉa hè nhặt một viên gạch (loại gạch 6 lỗ) rồi kẹp phía trước xe, đuổi theo xe của B và N để đánh. Lúc H nhặt gạch V có nói can H bỏ qua sự việc, nhưng H vẫn không nghe, vẫn tiếp tục đuổi theo.

Khi đến gần đường T, B và N dừng xe trước số nhà số C T, N dừng xe đứng bên trái của B và N nhìn về hướng B để nghe chỉ đường. Dừng được một lúc, thì H chở V đuổi kịp xe B và N. Khi còn cách N khoảng 01 mét, H ném gạch trúng vùng đầu bên phải của N, làm N ngã xuống đường, còn H điều khiển xe môtô bỏ chạy.

Vật chứng tạm giữ: 01 (một) viên gạch màu đỏ, đen loại gạch 6 lỗ, kích thước (16,8x10,3x7,2)cm.

Tại Bản kết luận giám định pháp y về thương tích số 1558/C09C-Đ3 ngày 12/01/2022 của Phân viện Khoa học hình sự tại Đà Nẵng, kết luận thương tích của Nguyễn Hữu Hoàng N như sau:

- Sẹo sau tai phải kích thước 6,4cm x (0,1-0,3);

- Vỡ xương đá phải;

- Viêm xoang chũm sau chấn thương;

Tỷ lệ phần trăm tổn thương cơ thể là 23% (hai mươi ba phần trăm).

Tại kết luận giám định Pháp y tâm thần theo trưng cầu số 1905/KLGĐ ngày 11/11/2022 của Trung tâm P kết luận: Trần Ngọc H: - Trước thời điểm gây án:

a. Kết luận về y học: Chậm phát triển tâm thần mức độ nhẹ có tật chứng tác phong.

b. Kết luận về khả năng nhận thức và điều khiển hành vi: Hạn chế khả năng nhận thức và hạn chế khả năng điều khiển hành vi.

- Tại thời điểm gây án:

a. Kết luận về y học: Chậm phát triển tâm thần mức độ nhẹ có tật chứng tác phong.

b. Kết luận về khả năng nhận thức và điều khiển hành vi: Hạn chế khả năng nhận thức và hạn chế khả năng điều khiển hành vi.

- Sau thời điểm gây án:

a. Kết luận về y học: Chậm phát triển tâm thần mức độ nhẹ có tật chứng tác phong.

b. Kết luận về khả năng nhận thức và điều khiển hành vi: Hạn chế khả năng nhận thức và hạn chế khả năng điều khiển hành vi.

- Thời điểm hiện tại:

a. Kết luận về y học: Chậm phát triển tâm thần mức độ nhẹ có tật chứng tác phong.

b. Kết luận về khả năng nhận thức và điều khiển hành vi: Hạn chế khả năng nhận thức và hạn chế khả năng điều khiển hành vi.

Tại Bản án hình sự sơ thẩm số 19/2023/HS-ST ngày 08/3/2023, Tòa án nhân dân thành phố Đà Nẵng đã quyết định:

I. Về tội danh: Tuyên bố bị cáo Trần Ngọc H phạm tội “Giết người”.

II. Về hình phạt: Căn cứ điểm n khoản 1 Điều 123; điểm b, q, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; khoản 3 Điều 57 Bộ luật Hình sự;

Xử phạt: bị cáo Trần Ngọc H: 08 (tám) năm tù. Thời gian chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt tạm giam, ngày 23/02/2023.

Ngoài ra Bản án còn tuyên quyết định về án phí, xử lý vật chứng và quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.

Ngày 18/3/2023, bị cáo Trần Ngọc H làm đơn kháng cáo với nội dung: xin giảm nhẹ hình phạt vì án sơ thẩm xử nặng.

Ngày 21/3/2023, Người đại diện hợp pháp của bị cáo Trần Ngọc H là ông Trần Ngọc M và bà Lê Thị L làm đơn kháng cáo với nội dung: xin giảm nhẹ hình phạt vì án sơ thẩm xử nặng, bị cáo bị hạn chế năng lực hành vi.

Ngày 20/3/2023, người bị hại Nguyễn Hữu Hoàng N làm đơn kháng cáo với nội dung: xin giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo vì người bị hại cũng có phần lỗi.

Tại phiên tòa phúc thẩm, bị cáo Trần Ngọc H, ông Trần Ngọc M và bà Lê Thị L, người bào chữa Luật sư Nguyễn Thành Đ đều giữ nguyên kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt.

Người bị hại anh Nguyễn Hữu Hoàng N xin giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo vì bị hại cũng có phần lỗi, gia đình bị cáo rất có thiện chí hỏi thăm và bồi thường, bị cáo lại bị hạn chế năng lực hành vi.

Kiểm sát viên tham gia phiên tòa phát biểu ý kiến: đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận đơn kháng cáo của bị cáo Trần Ngọc H, cha mẹ bị cáo là ông Trần Ngọc M, bà Lê Thị L và người bị hại, giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

Luật sư bào chữa cho Trần Ngọc H: đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm hình phạt cho bị cáo vì cũng có một phần lỗi của người bị hại.

Căn cứ vào hồ sơ vụ án, các chứng cứ tài liệu đã được thẩm tra tại phiên tòa, ý kiến phát biểu của Kiểm sát viên tham gia phiên tòa, luận cứ bào chữa của luật sư, lời khai của bị cáo và kết quả tranh tụng tại phiên tòa.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

[1]. Căn cứ vào các tài liệu có trong hồ sơ vụ án, lời khai nhận của các bị cáo, người bị hại và kết quả tranh luận tại phiên tòa. Hội đồng xét xử xét thấy:

[1.1]. Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an thành phố Đ quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên toà, bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[1.2]. Khoảng 23 giờ ngày 23/11/2021, trong lúc đang điều khiển xe mô tô chạy trên đường T, phường H, quận C, thành phố Đà Nẵng thì Trần Ngọc H bị Nguyễn Hữu Hoàng N và Huỳnh Thế B điều khiển xe mô tô chạy hướng ngược lại phóng nhanh, gần va chạm với xe mô tô của H. Vì bực tức hành vi chạy xe của N và B nên H nhặt một viên gạch (loại gạch 6 lỗ) trên vỉa hè, chạy xe máy đuổi theo xe của N và B. Khi thấy B và N dừng xe, H điều khiển xe đến gần cách N khoảng 01 mét thì ném viên gạch trúng vùng đầu bên phải của N, làm N ngã xuống đường sau đó điều khiển xe mô tô bỏ chạy. Hậu quả gây thương tích cho Nguyễn Hữu Hoàng N là 23% (theo Bản kết luận giám định pháp y về thương tích số 1558/C09C-Đ3 ngày 12/01/2022 của Phân viện Khoa học hình sự tại Đà Nẵng).

[1.3]. Hội đồng xét xử phúc thẩm xét thấy: Trần Ngọc H đã có hành vi sử dụng viên gạch (loại gạch 6 lỗ kích thước 16,8 x 10,3 x 7,2 cm) ném mạnh vào đầu của người bị hại ở cự ly gần; bị cáo buộc phải biết đầu là vùng trọng yếu của cơ thể nên hành vi dùng hung khí nguy hiểm tác động mạnh vào vùng đầu có khả năng gây cái chết cho người bị hại nhưng vẫn thực hiện.

Vì vậy, Tòa án cấp sơ thẩm đã xét xử Trần Ngọc H phạm tội “Giết người” theo quy định điểm n khoản 1 Điều 123 Bộ luật Hình sự là có căn cứ, đúng pháp luật.

[2]. Xét tính chất hành vi và kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt của Trần Ngọc H và người đại diện hợp pháp của bị cáo ông Trần Ngọc M, bà Lê Thị L: [2.1]. Tại phiên tòa phúc thẩm, bị cáo H thừa nhận toàn bộ hành vi của mình và xin giảm nhẹ hình phạt, bị cáo cho rằng hành vi của bị cáo là bộc phát do bực tức hành vi phóng nhanh, lạng lách của người bị hại. Người bị hại Nguyễn Hữu Hoàng N cũng có đơn xin giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo, anh N thừa nhận nguyên nhân xảy ra vụ việc là do anh N chạy xe lạng lách, anh cũng có phần lỗi trong vụ việc này.

[2.2]. Xét tình tiết giảm nhẹ, bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, đã tự nguyện bồi thường khắc phục hậu quả, bồi thường thiệt hại, bị hại Nguyễn Hữu Hoàng N không có yêu cầu bồi thường gì thêm và có đơn xin giảm nhẹ hình phạt đối với bị cáo; bị cáo là người bị hạn chế khả năng nhận thức và hạn chế khả năng điều khiển hành vi; hoàn cảnh gia đình khó khăn được chính quyền địa phương xác nhận; cha của bị cáo là ông Trần Ngọc M có thời gian tham gia chiến trường Campuchia được tặng Huy hiệu vì nghĩa vụ quốc tế; ông bà nội ngoại của bị cáo cũng là người có công với cách mạng. Hội đồng xét xử phúc thẩm xét thấy, Tòa án cấp sơ thẩm áp dụng điểm b, q, s khoản 1, khoản 2 Điều 51 của Bộ luật hình sự đối với Trần Ngọc H là đã áp dụng đầy đủ tình tiết giảm nhẹ cho bị cáo.

[2.3]. Về tính chất hành vi và kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt: Hội đồng xét xử cấp phúc thẩm xét thấy bị cáo có hành vi tấn công trả đũa là xuất phát từ hành vi trái pháp luật của người bị hại, hơn nữa trong vụ việc này bản thân người bị hại cũng thừa nhận là cũng có phần lỗi. Việc bị cáo dùng viên gạch ném 1 phát vào vùng đầu của người bị hại xong liền phóng xe bỏ chạy thể hiện trong ý thức và hành vi của bị cáo không thực sự quyết liệt; bị cáo lại là người bị hạn chế khả năng nhận thức và người bị hại không chết nên bị cáo phạm tội thuộc trường hợp phạm tội chưa đạt. Do vậy, Tòa án cấp phúc thẩm xét thấy cần áp dụng hình phạt tương xứng với tính chất hành vi của bị cáo và chấp nhận kháng cáo của bị cáo, người đại diện hợp pháp của bị cáo, Luật sư bào chữa cho bị cáo và người bị hại, sửa bản án sơ thẩm giảm nhẹ một phần hình phạt đối với bị cáo Trần Ngọc H cũng đủ đảm bảo răn đe, giáo dục riêng đối với bị cáo và có tác dụng phòng ngừa chung.

[3]. Về án phí hình sự phúc thẩm: Do các kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt được chấp nhận nên bị cáo Trần Ngọc H không phải chịu án phí hình sự phúc thẩm.

[4]. Đại diện Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Đà Nẵng đề nghị giảm nhẹ một phần hình phạt cho bị cáo Trần Ngọc H. Đề nghị của đại diện Viện kiểm sát phù hợp với nhận định của Hội đồng xét xử nên chấp nhận.

[5]. Các quyết định khác của Bản án hình sự sơ thẩm không có kháng cáo, không bị kháng nghị có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

Vì những lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào điểm b khoản 1 của Điều 355; Điều 357 của Bộ luật tố tụng Hình sự năm 2015;

Chấp nhận kháng cáo của bị cáo Trần Ngọc H, người đại diện hợp pháp của bị cáo Trần Ngọc H là ông Trần Ngọc M và bà Lê Thị L, Luật sư Nguyễn Thành Đ và người bị hại Nguyễn Hữu Hoàng N, sửa Bản án hình sự sơ thẩm số 19/2023/HS-ST ngày 08/3/2023 của Tòa án nhân dân thành phố Đà Nẵng về phần hình phạt đối với bị cáo Trần Ngọc H. 1. Căn cứ điểm n khoản 1 Điều 123; Điều 15; Điều 38; điểm b, q, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; khoản 1 Điều 54; khoản 3 Điều 57 của Bộ luật Hình sự.

Xử phạt: bị cáo Trần Ngọc H 07 (bảy) năm tù về tội “Giết người”. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 23/02/2023.

2. Về án phí hình sự phúc thẩm: bị cáo Trần Ngọc H không phải chịu án phí hình sự phúc thẩm.

3. Các quyết định khác của bản án hình sự sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án./.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

136
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội giết người số 244/2023/HS-PT

Số hiệu:244/2023/HS-PT
Cấp xét xử:Phúc thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân cấp cao
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành:29/06/2023
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về