TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH THANH HÓA
BẢN ÁN 24/2024/HS-ST NGÀY 27/02/2024 VỀ TỘI GIẾT NGƯỜI
Trong các ngày 21, 27 tháng 02 năm 2024 tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Thanh Hóa xét xử sơ thẩm vụ án hình sự thụ lý số: 24/2024/TLST-HS ngày 23/01/2024 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 27/2024/QĐXXST-HS ngày 05/02/2024 đối với các bị cáo:
1. Ngô Tiến T - Sinh ngày 14 tháng 7 năm 2003, tại huyện T, tỉnh Thanh Hóa; Nơi cư trú: Thôn A, xã X, huyện T, tỉnh Thanh Hóa; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ học vấn: 12/12; dân tộc: kinh; giới tính: nam; tôn giáo: không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Ngô Tiến L và bà Lê Thị T1; tiền án; tiền sự: không; tạm giam: ngày 13/4/2021; Quyết định thay thế biện pháp tạm giam bằng biện pháp bảo lĩnh ngày 30/8/2021; tạm giam: ngày 24/3/2023; có mặt.
2. Lê Đức T2 - Sinh ngày 05/7/1999, tại huyện T, Thanh Hóa; Nơi cư trú: Thôn A, xã X, huyện T, tỉnh Thanh Hóa; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ học vấn: Lớp 9/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Lê Đức B và bà Lê Thị O; tiền án, tiền sự: Không; tạm giam: ngày 09/4/2021; Quyết định thay thế biện pháp tạm giam bằng biện pháp bảo lĩnh ngày 30/8/2021; tạm giam: ngày 24/3/2023; co mặt.
3. Lê Hữu T3 - Sinh ngày 16/10/2002, tại huyện T, tỉnh Thanh Hóa; Nơi cư trú: Tổ dân phố T, thị trấn T, huyện T, tỉnh Thanh Hóa; Nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ học vấn: Lớp 12/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Lê Hữu M và bà Trịnh Thị T4 (đà chết); tiền án, tiền sự: không; tạm giam: ngày 24/7/2023; có mặt.
4. Lê Đức T5 - Sinh ngày 27/02/2003, tại huyện T, Thanh Hóa; Nơi cư trú: Thôn A, xã X, huyện T, tỉnh Thanh Hóa; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ học vấn: Lớp 10/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Lê Đức T6 và bà Lê Thị M1; tiền án, tiền sự: Không; nhân thân: ngày 20/01/2020 bị Công an xã T, huyện T xử phạt hành chính về hành vi đánh bạc; tạm giam: ngày 24/3/2023; Quyết định thay thế biện pháp tạm giam bằng biện pháp bảo lĩnh ngày 20/7/2023; bị cáo tại ngoại; có mặt.
5. Lê Ngọc H - Sinh ngày 16/02/2002, tại huyện T, tỉnh Thanh Hóa; Nơi cư trú: Thôn A, xã X, huyện T, tỉnh Thanh Hóa; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ học vấn: Lớp 12/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Lê Ngọc H1 và bà Lê Thị H2; tiền án, tiền sự: không; bị cáo tại ngoại; có mặt.
6. Lê Văn H3 - Sinh ngày 02/9/2004, tại huyện T, tỉnh Thanh Hóa; Nơi cư trú: Thôn B, xã X, huyện T, tỉnh Thanh Hóa; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ học vấn: Lớp 12/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Lê Văn T7 và bà Lê Thị C; tiền án, tiền sự: không; bị cáo tại ngoại; có mặt.
7. Lê Văn H4 - Sinh ngày 25/01/2003, tại huyện T, tỉnh Thanh Hóa; Nơi cư trú: Thôn D, xã X, huyện T, tỉnh Thanh Hóa; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ học vấn: Lớp 12/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Lê Văn Đ và bà Lê Thị T8; tiền án, tiền sự: không; bị cáo tại ngoại; có mặt.
- Người bào chữa cho bị cáo T: Luật sư Lê Hữu T9 thuộc Công ty TNHH H5, đoàn Luật sư thành phố H, vắng mặt, (Gửi bài bào chữa cho bị cáo T).
- Người bào chữa cho bị cáo T2: Luật sư Lê Đăng G thuộc Văn phòng L3, đoàn Luật sư tỉnh Thanh Hóa, vắng mặt, (Gửi bài bào chữa cho bị cáo T2).
- Người bào chữa cho bị cáo Lê Hữu T3: Bà Lê Thị D - Luật sư văn phòng L4 - Đoàn Luật sư thành phố H, có mặt.
Địa chỉ: số A ngõ A N, quận T, thành phố Hà Nội.
- Bị hại: 1. Lê Hữu T3 - Sinh ngày 16/10/2002, có mặt.
Nơi cư trú: Tổ dân phố T, thị trấn T, huyện T, tỉnh Thanh Hóa.
2. Lê Văn H4 - Sinh ngày 25/01/2003, có mặt.
Trú tại: Thôn D, xã X, huyện T, tỉnh Thanh Hóa.
3. Ngô Tiến T - Sinh ngày 14 tháng 7 năm 2003, có mặt.
Trú tại: Thôn A, xã X, huyện T, tỉnh Thanh Hóa.
- Người làm chứng: Đều vắng mặt.
1. Anh Trịnh Hữu T10 - Sinh năm: 2003 Trú tại: Tổ dân phố T, thị trấn T, huyện T, tỉnh Thanh Hóa.
2. Anh Phạm Xuân T11 - Sinh năm: 2003 Trú tại: Thôn D, xã X, huyện T, tỉnh Thanh Hóa.
3. Anh Trần Văn Tự L1 - Sinh năm: 2001 4. Anh Trần Xuân M2 - Sinh năm: 2003 Cùng trú tại: Thôn F, xã T, huyện T, tỉnh Thanh Hóa.
5. Anh Lê Quảng D1- Sinh năm: 2003 6. Anh Lê Văn Thế A - Sinh năm: 2003 Trú tại: Thôn B, xã X, huyện T, tỉnh Thanh Hóa.
7. Chị Lê Thị T12 - Sinh năm: 2003 8. Chị Lê Thị Xuân P - Sinh năm: 2003 Cùng trú tại: Thôn C, xã X, huyện T, tỉnh Thanh Hóa.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Chiều ngày 07/3/2021, anh Lê Đức M3, sinh năm 2004, ở thôn A, xã X, huyện T tổ chức sinh nhật nên có một số người bạn, gồm: Lê Ngọc H, Lê Đức T2, Ngô Tiến T, Lê Văn H4; Lê Văn H3, Phạm Xuân T11 SN 2003; Lê Quảng D1, SN 2003; Trần Xuân M2, SN 2003; Lê Văn Tự L2, SN 2001 đến dự. Đồng thời trong thời điểm này, tại nhà chị Lê Thị Xuân P, SN 2003 ở thôn C, xã T, huyện T, tỉnh Thanh Hóa đang tổ chức sinh nhật của P và có mời một số người bạn bè là bạn học, bạn thân tham dự, trong đó có Lê Đức T5, Lê Văn Thế A, Trịnh Hữu T10, Lê Hữu T3.
Khi đến tham gia sinh nhật tại nhà P, Lê Đức T5 thấy Lê Hữu T3 là người đang có mâu thuẫn với T5 cũng có mặt, nên nảy sinh ý định đánh T3 để trả thù. Do đó, Lê Đức T5 nhờ Lê Văn Thế A gọi điện thoại cho Lê Ngọc H (là bạn đang tham dự sinh nhật tại nhà M3) và nói “có người đang đánh T5 ở nhà P”. Được mấy phút, T5 lại gọi điện cho H, lúc này Ngô Tiến T đang ở bên cạnh, giật điện thoại trong tay H và nói lại với T5 “tí bọn tau xuống”.
Dự sinh nhật của M3 xong, Lê Ngọc H, Lê Đức T2, Ngô Tiến T, Lê Văn H4, Phạm Xuân T11, Lê Văn H3, Lê Quảng D1, Trần Xuân M2, Lê Văn Tự L2 đi xe máy đến nhà P, ở Thôn c, xã T, với mục đích xem Trung thế nào, ai định đánh T5. Khi đến cổng ngõ nhà P, Lê Đức T5 ra đón, Lê Ngọc H hỏi Lê Đức T5 “muốn đánh người nào?”, còn Lê Đức T2 hỏi “thằng nào đánh em tao”, thì Lê Đức T5 nói muốn đánh Lê Hữu T3, là người say rượu đang ở trong nhà, khi nào Lê Hữu T3 về thì T5 sẽ chỉ cho biết mặt để đánh, rồi bảo mọi người vào nhà nhưng chỉ có Ngô Tiến T, Lê Đức T2, Lê Văn Tự L2, Lê Văn H4 đi vào, số còn lại ngồi chơi ở cổng nhà P.
Đến khoảng 19h30’, Lê Đức T5 thấy Trịnh Hữu T10, Lê Hữu T3 đang chuẩn bị ra về thì chạy ra gọi và nói với Lê Ngọc H, Lê Văn H4, Lê Văn H3 “hai thằng hắn sắp về rồi kìa, bay ra chắn nó lại” (T5 khai, mục đích là chặn T3 lại để đánh dạy dỗ), nên Lê Ngọc H đi ra ngoài cổng, rồi cùng Lê Văn H4, Lê Văn H3 lấy xe máy của Ngô Tiến T chặn ở cổng, còn H4 đi ra giữa đường, đứng chặn hướng đi xe của Lê Hữu T3 và Trịnh Hữu T10 thì xảy ra va chạm (xe đè lên chân H4). Sau đó H4 và T3, T10 có lời qua tiếng lại, cãi nhau. Được Lê Thị Xuân P can ngăn, T3, T10 tiếp tục lên xe ra về, thì H, H4, H3 lên xe nổ máy đuổi theo (xe kẹp 3). Đi được khoảng hơn 300m, H điều khiển xe vượt lên trên và chặn trước xe của T3, T10. Khi T3, T10 dừng xe, Lê Văn H4 xuống xe đi bộ xông đến đạp vào người T3 và dùng tay, chân đánh T3; còn H, H3 xông đến chặn và đánh T10. Khi bị đánh ngã ra gần xe của mình, T3 liền mở cốp xe lấy 01 con dao nhọn, dài khoảng 15cm-16cm cầm trên tay thì thấy H4 lao đến, T3 đã cầm dao đâm một phát trúng vào mông bên phải H4, làm H4 bị thương bỏ chạy về phía nhà P và kêu la.
Nghe tiếng ồn ào đánh nhau nên một số người đang ăn uống tại nhà P đứng dậy, trong đó Ngô Tiến T khi đứng dậy đã vào bếp lấy một con dao phay dài 40,5cm, một lưỡi sắc dài 27,5cm, bề rộng 7,5cm cán dao dài 13cm dắt vào người. Lê Đức T2 mượn chìa khóa xe mô tô của Lê Đức T5 rồi chở Ngô Tiến T chạy ra đường, hướng về phía có tiếng ồn ào đánh nhau. Khi T, T2 đi ra được khoảng 300m thì thấy Lê Văn H4 bị đâm nên dừng lại, cùng lúc đó có một thanh niên (không rõ tên tuổi) đi xe đạp điện qua, Lê Đức T2, Ngô Tiến T cho rằng là người vừa đâm H4, nên lao đến đánh, thì Lê Văn H4 bảo đánh nhầm người, người đâm H4 đã bỏ chạy. Nghe có người nói là “hai người đó đi xe biển số AA chạy rồi”, nên Ngô Tiến T bảo Lê Đức T2 dùng xe máy đuổi theo; Lê Ngọc H cũng chạy xe theo sau. Khi T, T2, H chạy xe đuổi sau được một đoạn nhưng không thấy có xe biển số AA, nên H đã quay xe về, còn T2 và T vẫn chạy xe đi tìm.
Khi T, T2 đi xe đến dốc Minh S gần Doanh trại bộ đội (thuộc xã M) thì thấy một xe mô tô biển số AA đi phía trước, phán đoán là T3 và T10 nên T hô “hai thằng kia đứng lại” nhưng không ai đứng lại, nên T2 tăng ga tiếp tục đuổi theo ra đường tỉnh lộ 514 thì đuổi kịp. Khi hai xe đi song song với nhau thì Ngô Tiến T ngồi sau xe rút dao đang giắt trong người ra, cầm dao bằng tay phải, chém về phía Lê Hữu T3. Bị T chém, Lê Hữu T3 dơ tay trái đỡ, đồng thời T3 dùng dao cầm theo trước đó chém về phía Ngô Tiến T. Ngô Tiến T tiếp tục vung dao chém T3 nhiều phát trúng vào tay, vào đầu. Khi thấy T3 chảy nhiều máu, không tiếp tục chém lại được và nghe T10 la lên “nó bị đau lắm rồi”, thì T dừng lại. Thấy T bị thương nên T2 quay đầu xe chở T về Trạm y tế xã T băng bó vết thương; còn T10 chở T3 đến Bệnh viện đa khoa huyện T cấp cứu, sau đó T3 được đưa đi Bệnh viện đa khoa tỉnh T để điều trị.
* Hiện trường vụ án: Hiện trường được xác định là đoạn đường liên thôn phía trước nhà chị Lê Thị Xuân P, thôn C, xã T, huyện T đến ngã 3 giao nhau với đường Tỉnh lộ 515C và chạy dọc theo đường Tỉnh lộ 515C đến phía trước khu vực Doanh trại Q1, thuộc địa phận thôn B, xã M, huyện T.
Khuôn viên nhà chị Lê Thị Xuân P có mặt tiền quay hướng N, xung quanh được bao bọc tường gạch, có một cổng ra vào tại mặt hướng N, nằm tiếp giáp với đường liên thôn C. Đoạn đường liên thôn được rải bê tông, rộng 2m; chạy dọc về phía Đông khoảng 400m là vị trí ngã 3 giao nhau với đường T. Tại khu vực ngã 3, nằm bên phải theo chiều Bắc Nam có 01 cây gạo. Đoạn đường 515C chạy dọc hướng B, hướng Bắc đi Tỉnh lộ 514 thị trấn T; hướng N đi xã X, T. Từ khu vực ngã 3 chạy dọc Tỉnh lộc 515C về hướng Bắc khoảng 2,5km là địa phận Thôn B, xã M, huyện T; hai bên đường là khu vực thuộc Doanh trại Q1.
* Tại Biên bản xem xét dấu vết trên thân thể của Lê Hữu T3 hồi 23h35’ ngày 07/3/2021 tại Bệnh viện đa khoa tỉnh T phát hiện: 01 (một) vết rách da kích thước 10cm x 3cm sâu sát xương tại vị trí vùng đỉnh đầu trái; 01 (một) vết thương dài 5 cm đứt gân, mất vận động tại vị trí cổ tay trái; 01 (một) vết thương rách da kích thước 3 cm tại vị trí ngón 3 bàn tay trái. Các vết thương đều có bờ mép sắc gọn.
Tại Bản kết luận giám định pháp y về thương tích số 196/2021/TTPY, kết luận: Tại thời điểm giám định pháp y về thương tích: Tổng tỷ lệ phần trăm tổn thương cơ thể do thương tích gây nên đối với Lê Hữu T3 được tính theo phương pháp xác định tỷ lệ phần trăm tổn thương cơ thể là 48%.
Tại Bản kết luận giám định pháp y về cơ chế hình thành thương tích số 197/2021/TTPY, kết luận:
+ 01 (một) vết rách da kích thước 10cm x 3cm sâu sát xương tại vị trí vùng đỉnh đầu trái: Do tác động của ngoại lực; tạo nên bởi vật có cạnh sắc, hoặc vật có cạnh sắc nhọn. Gây tổn thương máu tụ ngoài màng cứng vùng thái dương đỉnh trái kèm theo bóng khí tụ nội sọ; vỡ xương vòm sọ vùng thái dương trái, đường vỡ sắc gọn có mảnh rời nhỏ;
+ 01 (một) vết thương dài 5cm đứt gân, mất vận động tại vị trí cổ tay trái: Do tác động của ngoại lực, tạo nên bởi vật có cạnh sắc, hoặc vật có cạnh sắc nhọn. Gây tổn thương đứt gân gấp ngón III, IV, V bàn tay trái; đứt gân gấp cổ tay trụ bên trái; đứt bó mạch thần kinh trụ trái.
+ 01 (một) vết thương rách da kích thước 3cm tại vị trí ngón 3 bàn tay trái: Do tác động của ngoại lực; tạo nên bởi vật có cạnh sắc, hoặc vật có cạnh sắc nhọn.
* Xem xét dấu vết trên thân thể của Lê Văn H4, có 01 vết thương: 01 (một) vết thương rách da dài 5cm tại vùng mông phải, bờ mép sắc gọn;
Tại bản Kết luận giám định tổn thương cơ thể trên người sống 1152/KLTTCT-PYTH ngày 13/7/2023 của Trung tâm pháp y tỉnh T, kết luận: tỷ lệ phần trăm tổn thương cơ thể của Lê Văn H4 tại thời điểm giám định là 03%.
* Xem xét dấu vết trên thân thể của Ngô Tiến T, có 03 vết thương: 01 (một) vết thương rách da không liên tục dài 8cm tại mặt cổ tay phải; 01 (một) vết thương rách da, dài 4cm tại vùng ngực phải; 01 (một) vết xây xước da, kích thước 3cm x 2cm tại mặt trước bả vai phải;
Tại bản Kết luận giám định pháp y về thương tích số 02/2022/TTPY ngày 13/01/2022 của Trung tâm pháp y tỉnh T, kết luận: Tổng tỷ lệ phần trăm tổn thương cơ thể do thương tích gây nên đối với Ngô Tiến T được tính theo phương pháp xác định tỷ lệ phần trăm tổn thương cơ thể là 13%.
Tại bản Kết luận giám định pháp y về cơ chế hình thành thương tích số 03/2022/TTPY ngày 13/01/2022 của Trung tâm pháp y tỉnh T, kết luận:
+ 01 (một) vết thương rách da không liên tục dài 8cm đã được khâu bằng 5 nút chỉ tại mặt cổ tay phải: Do tác động của ngoại lực; tạo nên bởi vật tày có cạnh, hoặc vật có cạnh sắc, hoặc vật có cạnh sắc nhọn;
+ 01 (một) vết thương rách da, dài 4cm tại vùng ngực phải: Do tác động của ngoại lực; tạo nên bởi vật tày có cạnh hoặc vật có cạnh sắc, hoặc vật có cạnh sắc nhọn.
+ 01 (một) vết xây xước da, kích thước 3cm x 2cm tại mặt trước bả vai phải: Do tác động của ngoại lực; tạo nên bởi vật tày có cạnh hoặc vật có cạnh sắc, hoặc vật có cạnh sắc nhọn.
Về vật chứng của vụ án: 01 con dao dạng dao phay, dài 40,5cm, một lười sắc dài 27,5 cm, bề rộng 7,5cm; cán dao dài 13cm; mũi dao bằng (con dao do Ngô Tiến T sử dụng để chém Lê Hữu T3) được chuyển đến Cục Thi hành án dân sự tỉnh Thanh Hoá.
Đối với con dao Lê Hữu T3 sử dụng để đâm Lê Văn H4 và đánh Ngô Tiến T, cơ quan điều tra đã tiến hành truy tìm tuy nhiên không phát hiện, thu giữ được.
Tại bản cáo trạng số 134/CTr-VKS-P2 ngày 27/9/2023 của Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Thanh Hóa đã truy tố Ngô Tiến T, Lê Đức T2 về tội “Giết người” theo điểm n khoản 1, Điều 123 Bộ luật hình sự. Lê Hữu T3 về tội “Cố ý gây thương tích” theo điểm đ khoản 2 Điều 134 Bộ luật hình sự. Lê Đức T5, Lê Ngọc H, Lê Văn H3, Lê Văn H4 về tội “Gây rối trật tự công cộng” theo khoản 1 Điều 318 Bộ luật hình sự.
Tại phiên tòa sơ thẩm:
- Lê Văn H4 có Đơn xin bãi nại đối với Lê Hữu T3. Theo đó, H4 xin rút toàn bộ yêu cầu đối với hành vi cố ý gây thương tích của bị cáo T3 đối với H4.
- Đại diện VKS đề nghị không xem xét trách nhiệm hình sự của Lê Hữu T3 đối với hành vi “Cố ý gây thương tích” đối với Lê Văn H4. Đồng thời đề nghị Hội đồng xét xử:
1. Áp dụng: Điểm n khoản 1 Điều 123; điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 17; Điều 58; Điều 15; Điều 57; Điều 91; khoản 1 Điều 101; khoản 3 Điều 102; Điều 38 BLHS. Xử phạt Ngô Tiến T từ 06 đến 07 năm tù;
2. Áp dụng: Điểm n khoản 1 Điều 123; điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều Điều 51; Điều 17; Điều 58; Điều 15; Điều 57; Điều 38 BLHS. Xử phạt Lê Đức T2 từ 06 đến 07 năm tù;
3. Áp dụng: Điểm đ khoản 2 Điều 134; điểm b, e, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 54; Điều 38 BLHS. Xử phạt Lê Hữu T3 từ 18 đến 24 tháng tù;
4. Áp dụng: Khoản 1 Điều 318; điểm i, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 17; Điều 58; Điều 38 BLHS. Xử phạt Lê Đức T5 từ 15 đến 18 tháng tù;
Áp dụng: Khoản 1 Điều 318; điểm i, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 17; Điều 58; Điều 55; khoản 1, 2 Điều 65 BLHS. (Áp dụng cho các bị cáo Lê Ngọc H, Lê Văn H3, Lê Văn H4). (Điều 91; khoản 1 Điều 101 áp dụng cho bị cáo Lê Văn H3).
5. Xử phạt Lê Ngọc H từ 09 đến 12 tháng tù cho hưởng án treo;
6. Xử phạt Lê Văn H3 từ 06 đến 09 tháng tù cho hưởng án treo;
7. Xử phạt Lê Văn H4 từ 09 đến 12 tháng tù cho hưởng án treo.
Vật chứng: Căn cứ Điều 106 BLTTHS; Tịch thu để tiêu hủy toàn bộ vật chứng đang tạm giữ tại Cục thi hành án dân sự tỉnh Thanh Hóa. Về trách nhiệm dân sự: Các bị cáo đã bồi thường xong cho bị hại nên không xem xét.
- Các bị cáo không tranh luận gì với đại diện VKS.
- Người bào chữa của các bị cáo Ngô Tiến T, Lê Đức T2 không có ý kiến gì về tội danh và hình phạt đối với các bị cáo. Tuy nhiên, đề nghị HĐXX căn cứ điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; khoản 1 Điều 54; Điều 57 BLHS để xem xét giảm nhẹ hình phạt và xử dưới mức thấp nhất của khung hình phạt cho các bị cáo vì các bị cáo đã tác động gia đình bồi thường thiệt hại cho bị hại, thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, ông nội bị cáo T được tặng Huân chương kháng chiến hạng ba; gia đình bị cáo T2 thuộc hộ cận nghèo, bị cáo T2 mồ côi bố; các bị cáo T, T2 phạm tội chưa đạt. Đề nghị HĐXX xử bị cáo mức hình phạt thấp hơn hình phạt mà Kiểm sát viên đề nghị.
- Người bào chữa cho bị cáo Lê Hữu T3 không đồng ý với quyết định truy tố bị cáo T3 của Viện kiểm sát, cho rằng Viện kiểm sát khẳng định con dao T3 dùng dài khoảng 30 đến 40 cm là không đúng. Vì cốp xe máy mà T3 đi có chiều dài nhất là 19,2 cm thì T3 không thể bỏ con dao dài 30 đến 40 cm vào trong cốp xe máy được. Đề nghị trả hồ sơ để điều tra bổ sung. Mặt khác, T3 phòng vệ chính đáng nên căn cứ Điều 328; Điều 22 BLHS tuyên T3 không phạm tội «cố ý gây thương tích».
- Lời sau cùng các bị cáo đề nghị HĐXX xem xét giảm nhẹ hình phạt.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1]. Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an tỉnh T, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Thanh Hóa, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo, bị hại không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.
Người bào chữa cho bị cáo Lê Hữu T3 đề nghị trả hồ sơ để điều tra bổ sung về việc T3 không thể bỏ con dao dài 30 đến 40 cm vào cốp xe của T3 được. Mặt khác, T3 phòng vệ chính đáng nên căn cứ Điều 328; Điều 22 BLHS tuyên T3 không phạm tội «cố ý gây thương tích». Xét thấy, bị cáo T3 thừa nhận các vết thương của T gồm 01 (một) vết thương rách da không liên tục dài 8cm tại mặt cổ tay phải; 01 (một) vết thương rách da, dài 4cm tại vùng ngực phải; 01 (một) vết xây xước da, kích thước 3cm x 2cm tại mặt trước bả vai phải là do T3 gây ra. Với các vết thương trên là do T3 dùng dao chém T, T3 chém lại T chứ không thể là do T chém T3 và T3 đỡ mà gây nên. Bị cáo T là người chém T3 trước và T3 đỡ được. Sau đó 2 bên chém đi chém lại và mỗi bên có 3 vết thương nên không thể khẳng định bị cáo T3 là phòng vệ chính đáng như ý kiến của người bào chữa cho bị cáo Lê Hữu T3 được. Do đó, không có cơ sở chấp nhận đề nghị của người bào chữa cho bị cáo T3.
[2]. Lời khai của các bị cáo tại phiên toà hôm nay thống nhất với lời khai tại cơ quan điều tra, phù hợp với lời khai của bị hại, người làm chứng và vật chứng thu được cùng các tài liệu khác phản ánh trong hồ sơ vụ án. Thấy đủ cơ sở kết luận:
Lê Đức T2 điều khiển xe máy chở theo Ngô Tiến T cầm theo dao phay, lùa đuổi, áp sát sát xe của T3, T dùng dao chém nhiều nhát vào đầu, tay Lê Hữu T3 làm T3 gây tổn thương máu tụ ngoài màng cứng vùng thái dương đỉnh trái kèm theo bóng khí tụ nội sọ; vỡ xương vòm sọ vùng thái dương trái, đứt gân, mất vận động tại vị trí cổ tay trái, đứt gân gấp ngón III, IV, V bàn tay trái; đứt gân gấp cổ tay trụ bên trái; đứt bó mạch thần kinh trụ trái với tỷ lệ tổn thương cơ thể 48%.
Lê Hữu T3 có hành vi dùng dao nhọn đâm vào mông của Lê Văn H4 làm rách da với tỷ lệ tổn thương 03%, sau đó khi bị T tấn công đã tiếp tục dùng dao nhọn chém vào vùng cổ tay, vùng ngực, bả vai phải của Ngô Tiến T gây thương tích với tỷ lệ tổn hại 13%.
Lê Đức T5 là người chủ động gọi bạn bè đến để gây hấn đánh dằn mặt Lê Hừu T3, các bị cáo Lê Ngọc H. Lê Văn H4, Lê Văn H3 là người chặn xe T3, gây sự, đánh nhau với Lê Hữu T3. Sau đó tiếp tục lùa đuổi T3, T10 trên đoạn đường khoảng hơn 300m gây mất trật tự công cộng.
[3]. Tính chất vụ án:
Đối với hành vi “Giết người”: Hành vi của các bị cáo Lê Đức T2, Ngô Tiến T là rất nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm trực tiếp tính mạng, sức khỏe của người khác được pháp luật bảo vệ. Giữa các bị cáo và bị hại không có mâu thuẫn gì, các bị cáo bồng bột, không kiềm chế, xem thường pháp luật, đã dùng dao chém vào đầu và tay người của bị hại làm bị hại tổn hại sức khỏe 48%. Do T3 không chết nên các bị cáo phạm tội thuộc trường hợp phạm tội chưa đạt theo quy định tại Điều 15; Điều 57 của BLHS nên Hội đồng xét xử có xem xét khi quyết định hình phạt.
Đối với hành vi “Cố ý gây thương tích”: Giữa bị cáo T3 và các bị hại không có mâu thuẫn từ trước; khi bị hại H4 xông đến, bị cáo T3 đà dùng dao đâm vào H4. Khi bị T tấn công đã dùng dao nhọn chém vào vùng cổ tay, vùng ngực, bả vai phải của Ngô Tiến T gây thương tích với tỷ lệ tổn hại 13%.
Đối với hành vi “Gây rối trật tự công cộng”: Hành vi của các bị cáo Lê Đức T5, Lê Ngọc H, Lê Văn H3, Lê Văn H4 là nguy hiểm cho xã hội, có hành vi hò hét dùng tay chân, đuổi đánh nhau tại khu vực khu dân cư xã T, huyện T đã xâm phạm đến trật tự công cộng gây ảnh hưởng xấu đến an ninh, trật tự, an toàn xã hội tại địa phương.
Hành vi của các bị cáo chẳng những gây ra hậu quả thiệt hại về sức khỏe đối với bị hại mà còn gây mất an toàn xã hội, gây mất trật tự công cộng. Hành vi này cần được xử lý nghiêm, tương xứng mức độ lỗi của từng bị cáo nhằm răn đe phòng chống chung cho toàn xã hội.
[4]. Vai trò và trách nhiệm hình sự đối với các bị cáo:
Đối với hành vi “Giết người”: Hành vi của các bị cáo Ngô Tiến T, Lê Đức T2 thuộc trường hợp đồng phạm giản đơn, không có sự cấu kết, phân công vai trò cụ thể. Tuy nhiên, bị cáo T là người trực tiếp dùng hung khí đánh vào vùng trọng yếu trên cơ thể của T3, là người gây thương tích chính cho T3, có vai trò là người thực hành tích cực. T2 là đồng phạm với vai trò giúp sức chở bị cáo T. Do đó xếp vai trò của bị cáo T cao hơn bị cáo T2 là phù hợp.
Hành vi “Cố ý gây thương tích”: Một mình bị cáo T3 gây thương tích cho T nên phải chịu hình phạt độc lập về hành vi này.
Hành vi “Gây rối trật tự công cộng”: Bị cáo T5 là người khởi xướng, rủ các bị cáo còn lại để đánh T3. Các bị cáo Lê Ngọc H, Lê Văn H4, Lê Văn H3 là những người trực tiếp đánh nhau bằng tay chân với T3. Do đó, xếp vai trò của bị cáo T5 là cao nhất; vai trò của các bị cáo Lê Ngọc H, Lê Văn H4, Lê Văn H3 ngang nhau và sau bị cáo T5 là phù hợp.
Tình tiết giảm nhẹ TNHS chung cho tất cả các bị cáo là thành khẩn khai báo; căn cứ điểm s khoản 1 Điều 51BLHS. Các bị cáo Ngô Tiến T, Lê Đức T2 và Lê Hữu T3 được hưởng thêm tình tiết giảm nhẹ TNHS là người phạm tội tự nguyện bồi thường thiệt hại, bị hại có đơn xin giảm nhẹ trách nhiệm hình sự; điểm b khoản 1, khoản 2 Điều 51 BLHS. Bị cáo T3 được hưởng thêm tình tiết giảm nhẹ TNHS là phạm tội trong trường hợp bị kích động về tinh thần do hành vi trái pháp luật của nạn nhân gây ra; căn cứ điểm e khoản 1 Điều 51 BLHS; Bị cáo Lê Đức T2 có thời gian tham gia quân ngũ; bố bị cáo T2 là ông Lê Đức B được tặng Huân chương chiến công; ông nội bị cáo T được tặng Huân chương kháng chiến hạng ba; ông ngoại bị cáo T5 là ông Lê Quang Q được tặng Huân chương kháng chiến; căn cứ khoản 2 Điều 51 BLHS.
Tình tiết giảm nhẹ TNHS riêng cho các bị cáo Lê Đức T5, Lê Văn H3, Lê Văn H4, Lê Ngọc H là phạm tội lần đầu thuộc trường hợp ít nghiêm trọng; quy định tại điểm i khoản 1 Điều 51 BLHS.
Do các bị cáo Ngô Tiến T, Lê Đức T2 và Lê Hữu T3 có nhiều tình tiết giảm nhẹ nên cần áp dụng Điều 54 BLHS để xử dưới mức thấp nhất của khung hình phạt để các bị cáo thấy được sự khoan hồng của pháp luật sớm cải tạo thành công dân có ích cho xã hội.
Các bị cáo Ngô Tiến T và Lê Văn H3 khi phạm tội chưa đủ 18 tuổi nên khi xử lý cần áp dụng các quy định của pháp luật về người chưa thành niên phạm tội; căn cứ Điều 91; Dieu 101 Bộ luật hình sự.
Nhân thân bị cáo Lê Đức T5 đã bị xử phạt hành chính về hành vi đánh bạc.
Với tính chất của vụ án, hành vi phạm tội của các bị cáo Lê Đức T2, Ngô Tiến T, Lê Hữu T3 và Lê Đức T5 thì việc cách ly các bị cáo này ra khỏi xã hội một thời gian là cần thiết để cải tạo, giáo dục các bị cáo và phòng ngừa chung cho xã hội.
Đối với các bị cáo Lê Văn H3, Lê Văn H4, Lê Ngọc H có nơi cư trú rõ ràng; nhân thân chưa có tiền án, tiền sự; có nhiều tình tiết giảm nhẹ, phạm một tội ít nghiêm trọng nên không cần thiết phải cách ly các bị cáo khỏi xã hội mà để các bị cáo cải tạo tại địa phương dưới sự giám sát của chính quyền địa phương để bị cáo thấy được sự khoan hồng của pháp luật sớm cải tạo thành công dân có ích cho xã hội.
[5]. Trách nhiệm dân sự: Các bị cáo Lê Đức T2, Ngô Tiến T, Lê Đức T5 đã bồi thường cho Lê Hữu T3 số tiền 70.000.000 đồng; Lê Hữu T3 không yêu cầu bồi thường gì thêm. Lê Hữu T3 đã bồi thường cho Lê Văn H4 số tiền 4.000.000 đồng; Lê Văn H4 không yêu cầu bồi thường gì thêm. Xét việc thỏa thuận bồi thường của các bên là tự nguyện, phù hợp pháp luật nên công nhận.
[6]. Vật chứng: Vật chứng là 01 con dao dạng dao phay thu của bị cáo T. Vật chứng trên đã cũ, không còn giá trị sử dụng nên tịch thu để tiêu hủy. Căn cứ khoản 1, điểm c khoản 2 Điều 106 BLTTHS.
[7]. Án phí: Các bị cáo Ngô Tiến T, Lê Đức T2, Lê Hữu T3, Lê Đức T5, Lê Ngọc H, Lê Văn H3, Lê Văn H4; mỗi bị cáo phải nộp 200.000đ án phí HSST. Căn cứ Điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội quy định về án phí, lệ phí Tòa án.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ vào Khoản 2 Điều 155; điểm a khoản 1 Điều 282 BLTTHS đình chỉ xét xử đối với Lê Hữu T3 về hành vi Cố ý gây thương tích đối với Lê Văn H4.
Tuyên bố: Các bị cáo Ngô Tiến T, Lê Đức T2 phạm tội “Giết người”. Bị cáo Lê Hữu T3 phạm tội “Cố ý gây thương tích”. Các bị cáo Lê Đức T5, Lê Văn H3, Lê Văn H4, Lê Ngọc H phạm tội “Gây rối trật tự công cộng”.
1. Căn cứ vào Điểm n khoản 1 Điều 123; điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 17; Điều 58; Điều 15; Điều 57; Điều 91; khoản 1 Điều 101; khoản 3 Điều 102; Điều 54; Điều 38 BLHS.
Xử phạt: Bị cáo Ngô Tiến T 06 (sáu) năm tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 24/3/2023; nhưng được trừ thời gian tạm giam trước từ ngày 13/4/2021 đến ngày 30/8/2021.
2. Căn cứ vào Điểm n khoản 1 Điều 123; điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 17; Điều 58; Điều 15; Điều 57; Điều 54; Điều 38 BLHS.
Xử phạt: Bị cáo Lê Đức T2 06 (sáu) năm tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 24/3/2023; nhưng được trừ thời gian tạm giam trước từ ngày 09/4/2021 đến ngày 30/8/2021.
3. Căn cứ vào: Điểm đ khoản 2 Điều 134; điểm b, e, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 54; Điều 38 BLHS.
Xử phạt: Bị cáo Lê Hữu T3 01 (một) năm tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 24/7/2023.
4. Căn cứ vào: Khoản 1 Điều 318; điểm i, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 17; Điều 58; Điều 38 BLHS.
Xử phạt: Bị cáo Lê Đức T5 15 (mười lăm) tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt thi hành án; nhưng được trừ thời gian tạm giam trước từ ngày 24/3/2023 đến ngày 20/7/2023.
Căn cứ vào: Khoản 1 Điều 318; điểm i, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 17; Điều 58; khoản 1,2 Điều 65 BLHS. (Áp dụng cho các bị cáo Lê Ngọc H, Lê Văn H3, Lê Văn H4). (Điều 91; khoản 1 Điều 101 áp dụng cho bị cáo Lê Văn H3).
5. Xử phạt: Bị cáo Lê Ngọc H 09 (chín) tháng tù cho hưởng án treo. Thời gian thử thách là 18 tháng, tính từ ngày tuyên án sơ thẩm.
6. Xử phạt: Bị cáo Lê Văn H3 06 (sáu) tháng tù cho hưởng án treo; thời gian thử thách là 12 tháng, tính từ ngày tuyên án sơ thẩm.
7. Xử phạt: Bị cáo Lê Văn H4 09 (chín) tháng tù cho hưởng án treo; thời gian thử thách là 18 tháng, tính từ ngày tuyên án sơ thẩm.
Giao các bị cáo Lê Ngọc H, Lê Văn H3, Lê Văn H4 cho Ủy ban nhân dân xã X, huyện T, tỉnh Thanh Hóa để giám sát, giáo dục trong thời gian thử thách.
Trường hợp người được hưởng án treo thay đổi nơi cư trú thì thực hiện theo quy định tại Điều 92 của Luật Thi hành án hình sự.
Trong thời gian thử thách, nếu người được hưởng án treo cố ý vi phạm nghĩa vụ theo quy định của Luật Thi hành án hình sự 02 lần trở lên, thì Tòa án có thể quyết định buộc người được hưởng án treo phải chấp hành hình phạt tù của bản án đã cho hưởng án treo.
Áp dụng: Khoản 1, điểm c khoản 2 Điều 106; Khoản 2 Điều 136 của BLTTHS. Điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội quy định về án phí, lệ phí Tòa án.
- Trách nhiệm dân sự: Công nhận các bên đã bồi thường xong phần trách nhiệm dân sự.
- Vật chứng: Tịch thu để tiêu hủy vật chứng đang tạm giữ tại Chi cục thi hành án dân sự huyện Triệu Sơn, tỉnh Thanh Hóa theo Biên bản giao nhận vật chứng ngày 29/3/2022.
- Án phí: Các bị cáo Ngô Tiến T, Lê Đức T2, Lê Hữu T3, Lê Đức T5, Lê Ngọc H, Lê Văn H3, Lê Văn H4; mỗi bị cáo phải nộp 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm. Nhưng được trừ 200.000 án phí hình sự sơ thẩm bị cáo T đã nộp theo Biên lai thu tiền số 3647 ngày 09/8/2022 của Chi cục thi hành án huyện Triệu Sơn, tỉnh Thanh Hóa.
Người phải thi hành án dân sự có quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại Điều 7 và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.
Các bị cáo, bị hại có mặt có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án./.
Bản án về tội giết người số 24/2024/HS-ST
Số hiệu: | 24/2024/HS-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Thanh Hoá |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 27/02/2024 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về