TÒA ÁN NHÂN DÂN CẤP CAO TẠI THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
BẢN ÁN 234/2024/HS-PT NGÀY 30/03/2024 VỀ TỘI GIẾT NGƯỜI
Ngày 28 tháng 3 năm 2024, tại trụ sở - Tòa án nhân dân cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh xét xử phúc thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 1038/2023/TLPT-HS ngày 27 tháng 11 năm 2023 đối với bị cáo Đỗ Lâm Tấn V và đồng phạm; Do kháng cáo của các bị cáo Hồ Chí B, Nguyễn Văn N và các bị hại Trương Văn Đ, Nguyễn Văn P, Cao Xuân Đ; đại diện hợp pháp cho bị hại Võ Văn L đối với Bản án hình sự sơ thẩm số 179/2023/HS-ST ngày 17 tháng 11 năm 2023 của Tòa án nhân dân tỉnh Đồng Nai.
Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử phúc thẩm số 167/2024/QĐ-PT ngày 05 tháng 3 năm 2024.
Bị cáo bị kháng cáo:
1. Đỗ Lâm Tấn V; sinh năm 2004, tại tỉnh Hậu Giang; nơi ĐKNKTT: ấp M, xã P, huyện P, tỉnh Hậu Giang; chỗ ở hiện nay: khu phố P, thị trấn H, huyện Nhơn Trạch, tỉnh Đồng Nai; Q tịch: Việt N; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: không; nghề nghiệp: làm thuê; trình độ học vấn: lớp 4/12; con ông: Đỗ Tấn P, sinh năm 1977, và bà: Lâm Thị N, sinh năm 1982; vợ, con: chưa có; tiền án, tiền sự: không.
Bị tạm giữ từ ngày 03/6/2022, chuyển tạm giam theo Lệnh tạm giam số 204/LTG ngày 10/6/2022 của Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an tỉnh Đồng Nai; hiện đang bị tạm giam tại Trại tạm giam-Công an tỉnh Đồng Nai. Có mặt
2. Phan Hoàng N; sinh năm 2000, tại tỉnh Long An; nơi ĐKNKTT: ấp X, xã L, huyện Cần Đước, tỉnh Long An; chỗ ở hiện nay: khu phố P, thị trấn H, huyện Nhơn Trạch, tỉnh Đồng Nai; Q tịch: Việt N; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: không; nghề nghiệp: lao động tự do; trình độ học vấn: lớp 8/12; con ông: Phạm Văn H (đã chết), và bà: Phan Ngọc M, sinh năm 1969; vợ, con: chưa có; tiền án, tiền sự: không.
Bị tạm giữ từ ngày 03/6/2022, chuyển tạm giam theo Lệnh tạm giam số 208/LTG ngày 10/6/2022 của Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an tỉnh Đồng Nai. Hiện đang bị tạm giam tại Trại tạm giam-Công an tỉnh Đồng Nai. Có mặt
3. Lê Dĩ K; sinh năm 2002, tại tỉnh Đồng Tháp; nơi ĐKNKTT: ấp L, xã L, huyện Hồng Ngự, tỉnh Đồng Tháp; chỗ ở hiện nay: khu phố P, thị trấn H, huyện Nhơn Trạch, tỉnh Đồng Nai; Q tịch: Việt N; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: không; nghề nghiệp: làm thuê; trình độ học vấn: lớp 9/12; con ông: Lê Văn P, sinh năm 1972 và bà: Nguyễn Thị Bích P, sinh năm 1977; vợ, con: chưa có; tiền án, tiền sự: không.
Bị tạm giữ từ ngày 03/6/2022, chuyển tạm giam theo Lệnh tạm giam số 205/LTG ngày 10/6/2022 của Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an tỉnh Đồng Nai. Hiện đang bị tạm giam tại Trại tạm giam-Công an tỉnh Đồng Nai. Có mặt
4. Tô Hoàng L; sinh năm 2003, tại tỉnh Hậu Giang; nơi ĐKNKTT: ấp M, xã P, huyện P, tỉnh Hậu Giang; chỗ ở hiện nay: khu phố P, thị trấn H, huyện Nhơn Trạch, tỉnh Đồng Nai; Q tịch: Việt N; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: không; nghề nghiệp: làm thuê; trình độ học vấn: lớp 9/12; con ông: Tô Trường P, sinh năm 1975 và bà: Bùi Thị N, sinh năm 1979; vợ, con: chưa có; tiền án, tiền sự: không.
Bị tạm giữ từ ngày 03/6/2022, chuyển tạm giam theo Lệnh tạm giam số 210/LTG ngày 10/6/2022 của Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an tỉnh Đồng Nai. Hiện đang bị tạm giam tại Trại tạm giam-Công an tỉnh Đồng Nai. Có mặt
5. Nguyễn Tuấn K; sinh năm 2002, tại tỉnh Hậu Giang; nơi ĐKNKTT: khu vực 06, phường L, thành phố Ngã Bảy, tỉnh Hậu Giang; chỗ ở hiện nay: khu phố P, thị trấn H, huyện Nhơn Trạch, tỉnh Đồng Nai; Q tịch: Việt N; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: không; nghề nghiệp: làm thuê; trình độ học vấn: lớp 7/12; con ông: Nguyễn Nhựt T, sinh năm 1978 và bà: Bùi Thị Cẩm H, sinh năm 1982; vợ, con: chưa có; tiền án, tiền sự: không.
Bị tạm giữ từ ngày 03/6/2022, chuyển tạm giam theo Lệnh tạm giam số 211/LTG ngày 10/6/2022 của Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an tỉnh Đồng Nai. Hiện đang bị tạm giam tại Trại tạm giam-Công an tỉnh Đồng Nai. Có mặt
6. Nguyễn Thanh L; sinh năm 2003, tại tỉnh Đồng Tháp; nơi ĐKNKTT: ấp C, xã T, huyện Tam Nông, tỉnh Đồng Tháp; chỗ ở hiện nay: khu phố P, thị trấn H, huyện Nhơn Trạch, tỉnh Đồng Nai; Q tịch: Việt N; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: không; nghề nghiệp: làm thuê; trình độ học vấn: lớp 10/12; con ông: Nguyễn Văn S, sinh năm 1981 và bà: Nguyễn Thị H, sinh năm 1979; vợ, con: chưa có; tiền án, tiền sự: không.
Bị tạm giữ từ ngày 03/6/2022, chuyển tạm giam theo Lệnh tạm giam số 209/LTG ngày 10/6/2022 của Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an tỉnh Đồng Nai. Hiện đang bị tạm giam tại Trại tạm giam-Công an tỉnh Đồng Nai. Có mặt
7. Trương Minh T; sinh năm 1993, tại tỉnh Đồng Tháp; nơi ĐKNKTT: ấp L, xã L, huyện Hồng Ngự, tỉnh Đồng Tháp; chỗ ở hiện nay: khu phố P, thị trấn H, huyện Nhơn Trạch, tỉnh Đồng Nai; Q tịch: Việt N; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: không; nghề nghiệp: làm thuê; trình độ học vấn: lớp 8/12; con ông: Trương Minh Đ (chết), sinh năm 1966 và bà: Lê Thị L, sinh năm 1969; có vợ: Nguyễn Hằng N, sinh năm 1996 và 01 người con 2019; tiền án, tiền sự: không.
Bị tạm giữ từ ngày 03/6/2022, chuyển tạm giam theo Lệnh tạm giam số 206/LTG ngày 10/6/2022 của Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an tỉnh Đồng Nai. Hiện đang bị tạm giam tại Trại tạm giam - Công an tỉnh Đồng Nai. Có mặt
8. Trần Thanh B; sinh năm 1975, tại tỉnh Hậu Giang; nơi ĐKNKTT: khu phố Phước Mỹ, thị trấn H, huyện Nhơn Trạch, tỉnh Đồng Nai; chỗ ở hiện nay: khu phố Phước Mỹ, thị trấn H, huyện Nhơn Trạch, tỉnh Đồng Nai; Q tịch: Việt N; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: không; nghề nghiệp: chủ quán karaoke Thanh V; trình độ học vấn: lớp 12/12; con ông: Trần Văn D, sinh năm 1952 và bà: Nguyễn Thị T, sinh năm 1952; có vợ: Dương Bích T, sinh năm 1976 và 02 người con; tiền án, tiền sự: không. Vắng mặt Bị bắt tạm giữ ngày 03/6/2022 đến ngày 12/6/2022, Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Đồng Nai hủy bỏ biện pháp tạm giữ và Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an tỉnh Đồng Nai ra lệnh cấm đi khỏi nơi cư trú.
9. Dương Bích T; sinh năm 1976, tại tỉnh Đồng Nai; nơi ĐKNKTT: khu phố Phước Mỹ, thị trấn H, huyện Nhơn Trạch, tỉnh Đồng Nai; chỗ ở hiện nay: khu phố Phước Mỹ, thị trấn H, huyện Nhơn Trạch, tỉnh Đồng Nai; Q tịch: Việt N; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: không; nghề nghiệp: kinh doanh karaoke; trình độ học vấn: lớp 12/12; con ông: Dương Văn Đ, sinh năm 1937 và bà: Nguyễn Thị T, sinh năm 1940; có chồng: Trần Thanh B, sinh năm 1975 và 02 người con; tiền án, tiền sự: không. Vắng mặt Bị bắt tạm giữ ngày 03/6/2022 đến ngày 12/6/2022, Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Đồng Nai hủy bỏ biện pháp tạm giữ và Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an tỉnh Đồng Nai ra lệnh cấm đi khỏi nơi cư trú.
10. Trần Dương Thanh V; sinh năm 1999, tại tỉnh Đồng Nai; nơi ĐKNKTT: khu phố Phước Mỹ, thị trấn H, huyện Nhơn Trạch, tỉnh Đồng Nai; chỗ ở hiện nay: khu phố Phước Mỹ, thị trấn H, huyện Nhơn Trạch, tỉnh Đồng Nai; Q tịch: Việt N; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: không; nghề nghiệp: kinh doanh karaoke; trình độ học vấn: lớp 12/12; con ông: Trần Thanh B, sinh năm 1975 và bà: Dương Bích T, sinh năm 1976; chồng, con: chưa có; tiền án, tiền sự: không. Vắng mặt Bị bắt tạm giữ ngày 03/6/2022 đến ngày 12/6/2022, Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Đồng Nai hủy bỏ biện pháp tạm giữ và Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an tỉnh Đồng Nai ra lệnh cấm đi khỏi nơi cư trú.
11. Trần Anh Đ; sinh năm 2004, tại tỉnh Bình Thuận; nơi ĐKNKTT: thôn S, xã S, huyện Tánh L, tỉnh Bình Thuận; chỗ ở hiện nay: thôn Suối Sâu, xã S, huyện Tánh L, tỉnh Bình Thuận; Q tịch: Việt N; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: không; nghề nghiệp: kinh doanh karaoke; trình độ học vấn: lớp 6/12; con ông: Trần Đức T, sinh năm 1967 và bà: Nguyễn Thị H, sinh năm 1968; vợ, con: chưa có; tiền án, tiền sự: không.
Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an tỉnh Đồng Nai ra lệnh cấm đi khỏi nơi cư trú đối với bị cáo. Có mặt
- Bị cáo có kháng cáo, bị kháng cáo:
12. Hồ Chí B; sinh năm 2001, tại tỉnh Cà Mau; nơi ĐKNKTT: ấp K, xã V, huyện Ngọc Hiển, tỉnh Cà Mau; chỗ ở hiện nay: khu phố P, thị trấn H, huyện Nhơn Trạch, tỉnh Đồng Nai; Q tịch: Việt N; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: không; nghề nghiệp: làm thuê; trình độ học vấn: lớp 5/12; con ông: Hồ Văn L, sinh năm 1980, và bà: Huỳnh Thị N, sinh năm 1981; vợ, con: chưa có; tiền án, tiền sự: không.
Bị tạm giữ từ ngày 03/6/2022, chuyển tạm giam theo Lệnh tạm giam số 207/LTG ngày 10/6/2022 của Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an tỉnh Đồng Nai. Hiện đang bị tạm giam tại Trại tạm giam- Công an tỉnh Đồng Nai. Có mặt
13. Nguyễn Văn N; sinh năm 2000, tại tỉnh Hậu Giang; nơi ĐKNKTT: ấp M, xã P, huyện P, tỉnh Hậu Giang; chỗ ở hiện nay: khu phố P, thị trấn H, huyện Nhơn Trạch, tỉnh Đồng Nai; Q tịch: Việt N; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: không; nghề nghiệp: làm thuê; trình độ học vấn: lớp 6/12; con ông: Nguyễn Văn K, sinh năm 1972 và bà: Nguyễn Thị Chín N, sinh năm 1973; có vợ: Hồ Thị Thanh T, sinh năm 2001 và 01 người con 2022; tiền án, tiền sự: không.
Bị tạm giữ từ ngày 03/6/2022, chuyển tạm giam theo Lệnh tạm giam số 212/LTG ngày 10/6/2022 của Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an tỉnh Đồng Nai. Hiện đang bị tạm giam tại Trại tạm giam-Công an tỉnh Đồng Nai. Có mặt.
- Người bào chữa:
1.Luật sư bào chữa cho bị cáo Đỗ Lâm Tấn V, Hồ Chí B và Phan Hoàng N: Luật sư Nguyễn Văn T, thuộc Đoàn luật Thành phố Hồ Chí Minh. Có mặt.
2.Luật sư bào chữa cho bị cáo Tô Hoàng L, Nguyễn Tuấn K, Nguyễn Thanh L, Nguyễn Văn N và Trương Minh T:
Luật sư Nguyễn Thanh Bảo D, thuộc Đoàn luật sư Thành phố Hồ Chí Minh. Có mặt
3.Luật sư bào chữa cho bị cáo Trần Thanh B, Dương Bích T, Trần Dương Thanh V và Trần Anh Đ: Luật sư Trịnh Bá Th, thuộc Đoàn luật sư Thành phố Hồ Chí Minh. Có mặt
- Bị hại:
1.Anh Võ Văn L; sinh năm 1990 (đã chết).
Đại diện hợp pháp của anh Võ Văn L là bà Nguyễn Thị L, sinh năm 1961 (mẹ anh L); địa chỉ: thôn H, xã H, huyện Phú Hòa, tỉnh Phú Yên và chị Lê Thị Q, sinh năm 1993 (vợ anh L); địa chỉ xã Đức Lân, huyện Mộ Đức, tỉnh Quảng Ngãi.
Bà Nguyễn Thị L và chị Lê Thị Q ủy quyền cho chị Võ Thị T, sinh năm 1986; địa chỉ: 165 đường Quân Sự, phường 11,Quận 11, thành phố Hồ Chí Minh. Có mặt
2.Anh Cao Xuân Đ; sinh năm 1983; nơi ĐKNKTT: thôn Minh Xuân, xã Xuân Hóa, huyện Minh Hóa, tỉnh Quảng Bình; nơi ở hiện nay: 41A đường Cầu Kinh, phường Tân Tạo A, quận Bình Tân, thành phố Hồ Chí Minh; có mặt.
3. Anh Trương Văn Đ; sinh năm 1981; địa chỉ: khối 04, thị trấn Ea Đrăng, huyện EaHleo, tỉnh Đắk Lắk; vắng mặt.
4. Anh Nguyễn Văn P; sinh năm 1983; nơi ĐKNKTT: thôn Phong Mỹ, xã Trường Xuân, huyện Thọ Xuân, tỉnh Thanh Hóa; nơi ở hiện nay: C7A/11F ấp 03, tổ 13, Vĩnh Lộc B, huyện Bình Chánh, thành phố Hồ Chí Minh; có mặt.
- Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho bị hại: Luật sư Đỗ Hải B, thuộc Đoàn luật sư Thành phố Hồ Chí Minh. Có mặt (Ngoài ra, trong vụ án còn có 02 bị hại Lê Bá L, Trần Văn Q, không có kháng cáo Toà không triệu tập)
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Khoảng 23 giờ 00 phút ngày 02/06/2022, anh Võ Văn L, sinh năm 1990, hộ khẩu thường trú: Thôn H, xã H, huyện Phú Hòa, tỉnh Phú Yên cùng với bạn là anh Lê Bá L, sinh năm 1989, hộ khẩu thường trú: Thôn 3, xã Cán Khê, huyện Như Thanh, tỉnh Thanh Hóa; anh Trần Văn Q, sinh năm 1979, hộ khẩu thường trú: Thôn Khương Hà 5, xã Hưng Trạch, huyện Bố Trạch, tỉnh Quảng Bình; anh Cao Xuân Đ, sinh năm 1983, hộ khẩu thường trú: Thôn Minh Xuân, xã Xuân Hóa, huyện Minh Hóa, tỉnh Quảng Bình; anh Trương Văn Đ, sinh năm 1981, hộ khẩu thường trú: Khối 4, thị trấn Ea Đrăng, huyện Ea Hleo, tỉnh Đắk Lắk; anh Nguyễn Văn P, sinh năm 1983, hộ khẩu thường trú: Thôn Phong Mỹ, xã Trường Xuân, huyện Thọ Xuân, tỉnh Thanh Hóa đến hát karaoke tại phòng số 12 quán Karaoke Thanh V thuộc địa chỉ khu phố P, thị trấn H, huyện Nhơn Trạch, tỉnh Đồng Nai, do vợ chồng Trần Thanh B, sinh năm 1975 và Dương Bích T, sinh năm 1976 làm chủ quán.
Trong khi hát Karaoke nhóm anh L có gọi 06 nhân viên nữ vào phục vụ gồm: Chị Võ Thị H, sinh ngày 11/3/2006, hộ khẩu thường trú: Ấp Trợ Thủ B, xã Tam Giang Tây, huyện Ngọc Hiển, tỉnh Cà Mau; Lê Nguyễn Bảo Tr, sinh năm 2003, hộ khẩu thường trú: Ấp 3, xã Bình Thới, huyện Bình Đại, tỉnh Bến Tre; Mai Thị Phương L, sinh năm 1999, hộ khẩu thường trú: Ấp B, xã Bình Châu, huyện Xuyên Mộc, tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu; Na (là dân tộc Ba Na), sinh năm 1998. Hộ khẩu thường trú: Thôn Krun, xã H, huyện Đắk Đoa, tỉnh Gia Lai; Đinh Thị Nh, sinh năm 1997, Hộ khẩu thường trú: Thôn 5, xã Đ, Kpang, tỉnh Gia Lai và Trần Thị Tr, sinh năm: 2000, hộ khẩu thường trú: phường Phong Thạnh Tây, thị xã Giá Rai, tỉnh Bạc Liêu.
Quá trình hát Karaoke, khi anh Đ đang hát thì chị H bấm qua bài nên nhóm anh L xảy ra mâu thuẫn cãi nhau với chị H. Nghe cãi nhau, Hồ Chí B (tên thường gọi là Long Lớn, bạn trai của chị H), sinh năm 2001, hộ khẩu thường trú: ấp K, xã V, huyện Ngọc Hiển, tỉnh Cà Mau vào nói chuyện với nhóm của anh L. Bảo hỏi “Sao lại chửi tiếp viên như vậy?” thì nhóm của anh L chửi Bảo nên Bảo bực tức đi ra ngoài kể lại sự việc bị nhóm của anh L chửi và rủ các đối tượng Phan Hoàng N, Đỗ Lâm Tấn V, Nguyễn Tuấn K, Lê Dĩ K, Nguyễn Thanh L, Trương Minh T, Tô Hoàng L, Nguyễn Văn N đánh dằn mặt nhóm anh L, thì tất cả đồng ý rồi N lấy 01 gậy bóng chày ở bên trái cổng quán, Khanh lấy 01 gậy bóng chày ở trong kho, 02 gậy bóng chày lấy ở khu vực quầy bán cà phê mang ra đưa cho Bảo và Long mỗi người một gậy. Khang lấy một đoạn cây tre dài 60cm ở chậu kiểng trong quán; Lâm lấy 01 đoạn cây gỗ dài 70cm ở bãi cỏ trước quán; Ng lấy một đoạn cây gỗ tròn dài 50cm cạnh bờ tường nơi bán cà phê của quán. Vũ lấy 01 chiếc rìu sắt tự chế dài khoảng 60 cm, cán tròn làm bằng kim loại, một đầu rìu bằng lưỡi để chặt, một đầu vuông để đóng đinh ở trong nhà kho của quán để đánh dằn mặt nhóm của anh L.
Khoảng 01 giờ 30 phút ngày 03/6/2022, nhóm anh L thanh toán tiền đi về. Khi anh Trương Văn Đ, anh Lê Bá L, anh Trần Văn Q và anh Cao Xuân Đ đi ra về đến khu vực cổng quán Karaoke thì bị Bảo cầm gậy bóng chày, Long cầm gậy bóng chày, N cầm gậy bóng chày, Lâm cầm đoạn cây gỗ, Vũ cầm chiếc rìu sắt, Ng cầm đoạn cây gỗ tròn, Khang cầm đoạn cây tre đuổi đánh nên nhóm anh L bỏ chạy. Anh Trương Văn Đ bị Bảo và Long dùng gậy bóng chày đánh trúng 3 cái vào tay nhưng không gây thương tích, anh Lê Bá L và anh Trần Văn Q bỏ chạy được nên không bị đánh, riêng anh Cao Xuân Đ bị Vũ dùng chiếc rìu sắt đánh trúng vào lưng 05 cái gây thương tích, anh Đ bỏ chạy thì N đuổi theo dùng gậy bóng chày đánh trúng vào lưng của anh Đ 02 cái gây thương tích. Lúc này Ng dùng 01 đoạn cây gỗ tròn đánh trúng lưng của anh Đ 01 cái gây thương tích. Anh Đ bỏ chạy thì bị N, Ng đuổi theo rồi N dùng gậy bóng chày đánh tiếp 02 cái vào lưng anh Đ, anh Đ van xin thì cả hai không đánh nữa và đi bộ quay vào quán. Thấy nhóm Bảo đánh nhóm anh L thì Trương Minh T không cầm hung khí chạy từ trong quán chạy ra cổng để giúp sức đánh nhóm anh L nhưng thấy nhóm anh L bỏ chạy nên quay lại vào trong quán.
Khi Ng và N đuổi đánh anh Đ thì Đỗ Lâm Tấn V cầm chiếc rìu sắt chạy vào hướng khu vực nhà để xe mô tô của quán Karaoke Thanh V thấy Nguyễn Tuấn K đang dùng gậy bóng chày đánh nhau với anh Nguyễn Văn P và anh Võ Văn L rồi Nguyễn Tuấn K bị anh L dùng tay kẹp cổ thì Đỗ Lâm Tấn V cầm chiếc rìu sắt chạy đến phía sau đánh một cái trúng vào đầu của anh L làm anh L ngã gục xuống nền nhà bất tỉnh. Lúc này, Lê Dĩ K cũng cầm một đoạn cây tre chạy vào tham gia đánh nhau nhưng thấy anh L bị Vũ đánh trúng vào đầu bất tỉnh nên dừng lại không đánh nữa. Nguyễn Văn N, Trương Minh T vừa chạy từ cổng vào để giúp sức đánh nhóm anh L thì thấy anh L đang nằm bất tỉnh tại nhà để xe mô tô, có vết thương ở đầu chảy nhiều máu nên cũng dừng lại. Sau đó, Thanh, Bảo, Long cùng nhau điều khiển xe mô tô chở anh L đến Bệnh viện đa khoa khu vực Long Thành để cấp cứu nhưng do thương tích nặng nên anh L đã tử vong.
Sau khi xảy ra sự việc, Trần Thanh B là chủ quán Karaoke Thanh V chỉ đạo Khanh và Trần Anh Đ sử dụng vòi nước xịt rửa xóa dấu vết máu, sau đó đi cùng con gái Trần Dương Thanh V đến Bệnh viện đa khoa khu vực Long Thành xem thương tích của anh L. Đến khoảng 03 giờ ngày 03/6/2022, biết anh L đã tử vong nên Bình cùng con gái V đã tập trung toàn bộ nhân viên quán gồm: Đỗ Lâm Tấn V, Trương Minh T, Lê Dĩ K, Nguyễn Tuấn K, Tô Hoàng L, Trần Anh Đ, Nguyễn Vũ Trường Giang tập trung tại phòng hát Vip 6 của quán để họp. Tại cuộc họp Bình và V thông báo cho tất cả các nhân viên là anh L - người bị Vũ dùng búa đánh bị thương ở đầu đã tử vong tại bệnh viện, yêu cầu các nhân viên không được nói cho ai biết sự việc trên, khi được cơ quan công an mời làm việc thì khai báo rằng không biết, không liên quan đến sự việc và khai là khi thấy anh L bị thương nằm trước cổng quán nên Thanh quản lý đã đưa đi cấp cứu, còn Dương Bích T (là vợ Trần Thanh B) đã gọi điện cho anh Trần Minh Thông, sinh năm 1984, hộ khẩu thường trú: ấp Bến Sắn, xã Phước Thiền, huyện Nhơn Trạch, tỉnh Đồng Nai xóa dữ liệu Camera của quán Karaoke Thanh V nhằm mục đích để che giấu hành vi phạm tội của nhân viên quán, gây khó khăn cho Cơ quan Công an trong quá trình điều tra vụ án.
Qua điều tra, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an tỉnh Đồng Nai đã khởi tố vụ án, khởi tố bị can đối với Đỗ Lâm Tấn V, về tội “Giết người và Cố ý gây thương tích”, quy định tại điểm n khoản 1 Điều 123, khoản 2 Điều 134 Bộ luật hình sự; Khởi tố bị can đối với Lê Dĩ K, Hồ Chí B, Phan Hoàng N, Nguyễn Thanh L, Tô Hoàng L, Nguyễn Tuấn K, Nguyễn Văn N, Trương Minh T, về tội Cố ý gây thương tích, quy định tại điểm a khoản 4 Điều 134 Bộ luật hình sự; Khởi tố bị can đối với Trần Thanh B, Trần Dương Thanh V, Dương Bích T, Trần Anh Đ, về tội “Che dấu tội phạm”, quy định tại điểm b khoản 1 Điều 389 Bộ luật hình sự để điều tra, xử lý.
Vật chứng thu giữ:
- 01 đầu thu Camera hiệu HIKVISION model: DS – 7208HQHI-F1/N số serial 725034702, màu đen trắng.
- 01 đầu thu Camera hiệu HIK VISION model: DS – 7224HQHI-K2, số serial 225928758, màu đen trắng.
- 01 đầu thu Camera hiệu HD PARAGON, model: HDS – 7216TVI-HDMI/NE số serial 758335630.
- 01 cục sạc màu đen.
- 01 bộ đồ vải dính máu màu nâu đỏ.
- 01 gậy bóng chày bằng kim loại màu đen, dài 80 cm, đường kính 03 cm.
- 01 ống tuýp bằng kim loại dài 75 cm, đường kính 3,5 cm.
- 02 cổ bô xe bằng kim loại dài 50 cm.
- 01 cây cơ bida bằng gỗ dài 105cm.
- 01 vết màu nâu đỏ nghi là máu.
- 01 cái rìu tự chế bằng kim loại dài 80cm, lưỡi dài 07cm, rộng 16cm, cán dài 73cm.
Những vật chứng trên do các bị can sử dụng vào việc phạm tội.
Tại Bản kết luận giám định pháp y về tử thi số: 1217/KL-KTHS ngày 13/7/2022 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Đồng Nai đối với Võ Văn L kết luận:
- Dấu hiệu chính: Vết rách da, cơ vùng thái dương phải, hình chữ “V mép tương đối gọn, tụ máu có các tổ chức cầu nối tổn thương bên dưới. Vỡ lún xương hộp sọ thái dương phải, nứt xương thái dương- đỉnh phải, nứt xương thái dương - chẩm phải, nứt xương nền sọ giữa bên phải. Dập xuất huyết não thùy thái dương phải, xuất huyết dưới nhện trán - thái dương trái.
- Nguyên nhân tử vong: Chấn thương sọ não nặng: Vỡ lún xương hộp sọ thái dương phải, nứt xương thái dương - đỉnh phải, nứt xương thái dương - chẩm phải, nứt xương nền sọ giữa bên phải. Dập xuất huyết não thùy thái dương phải, xuất huyết dưới nhện trán - thái dương trái.
- Hung khí: Vật tày có cạnh.
- Cơ chế hình thành thương tích: Nạn nhân bị tác động trực tiếp bởi vật tày có cạnh vào vùng thái dương phải gây vỡ lún xương hộp sọ, dập xuất huyết não và tử vong.
Tại Bản kết luận giám định pháp y về thương tích số 1137/TgT/2022 ngày 24/10/2022 của Trung tâm pháp y tỉnh Đồng Nai đối với thương tích của anh Cao Xuân Đ kết luận:
Dấu hiệu chính qua giám định:
- Tổn thương gãy xương trụ phải, can gồ, trục thẳng. Tỷ lệ: 10% - Sẹo vùng trán trong chân tóc kích thước 04x0,3cm. Tỷ lệ: 02% - Không định tỷ lệ cho chấn thương mông phải hiện tại không để lại dấu vết, không để lại di chứng và không ảnh hưởng chức năng.
Kết luận: Căn cứ Thông tư số 22/2019/TT-BYT ngày 28/8/2019, của Bộ trưởng Bộ Y tế Quy định tỷ lệ tổn thương cơ thể sử dụng trong giám định Pháp y, tỷ lệ tổn thương cơ thể do thương tích gây nên tại thời điểm giám định của nạn nhân Cao Xuân Đ - 1983 áp dụng theo phương pháp cộng tại thông tư là: 12% (Mười hai phần trăm). Vật gây thương tích như sau: thương tích trán vật tày có cạnh. Chấn thương mông phải và tay phải: vật tày.
Về biện pháp tư pháp : Căn cứ Điều 47 Bộ luật hình sự, Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự, đề nghị Tòa án nhân dân tỉnh Đồng Nai tuyên:
- Tịch thu tiêu hủy: 01 bộ đồ vải dính máu màu nâu đỏ; 01 gậy bóng chày bằng kim loại màu đen, dài 80 cm, đường kính 03 cm; 01 ống tuýp bằng kim loại dài 75 cm, đường kính 3,5 cm; 02 cổ bô xe bằng kim loại dài 50 cm; 01 cây cơ bida bằng gỗ dài 105cm; 01 vết màu nâu đỏ nghi là máu và 01 cái rìu tự chế bằng kim loại dài 80cm, lưỡi dài 07cm, rộng 16cm, cán dài 73cm do các bị can sử dụng vào việc phạm tội.
- Tịch thu sung quỹ nhà nước: 01 đầu thu Camera hiệu HIKVISION model: DS – 7208HQHI-F1/N số serial 725034702, màu đen trắng; 01 đầu thu Camera hiệu HIK VISION model: DS – 7224HQHI-K2, số serial 225928758, màu đen trắng; 01 đầu thu Camera hiệu HD PARAGON, model: HDS – 7216TVI-HDMI/NE số serial 758335630; 01 cục sạc màu đen do các bị can sử dụng vào việc phạm tội.
Về trách nhiệm dân sự: Đại diện nạn nhân Võ Văn L là chị Võ Thị T, sinh năm 1986, nơi cư trú: 165 đường Quân Sự, phường 11, Quận 11, thành phố Hồ Chí Minh (chị gái của bị hại) yêu cầu bồi thường số tiền 3.032.000.000 đồng và anh Cao Xuân Đ bị đánh thương tích 12% yêu cầu bồi thường số tiền 20.000.000 đồng, ngoài ra không yêu cầu gì thêm. Anh Trần Văn Q, Nguyễn Văn P, Trương Văn Đ, Lê Bá L bị thương tích nhẹ không điều trị tại bệnh viện nên đã có đơn từ chối giám định và không yêu cầu bồi thường. Hiện tại các bị can chưa bồi thường thiệt hại. Do đó, Căn cứ Điều 48 Bộ luật hình sự, Điều 590, Điều 591 Bộ luật dân sự, đề nghị Tòa án nhân dân tỉnh Đồng Nai tuyên buộc các bị can Đỗ Lâm Tấn V, Lê Dĩ K, Trương Minh T, Hồ Chí B, Phan Hoàng N, Nguyễn Thanh L, Tô Hoàng L, Nguyễn Tuấn K, Nguyễn Văn N liên đới bồi thường thiệt hại cho chị Võ Thị T và anh Cao Xuân Đ theo quy định của pháp luật.
Tại Bản án hình sự sơ thẩm số 179/2023/HS-ST ngày 17 tháng 11 năm 2023, Tòa án nhân dân tỉnh Đồng Nai đã quyết định:
* Căn cứ điểm n khoản 1 Điều 123; điểm d khoản 2 Điều 134; điểm s khoản 1 khoản 2 Điều 51 Điều 55 Bộ luật hình sự. Tuyên bố bị cáo Đỗ Lâm Tấn V phạm tội “Giết người” và “Cố ý gây thương tích”.
Xử phạt bị cáo Đỗ Lâm Tấn V 19 (mười chín) năm tù về tội “Giết người” 3 (ba) năm tù về tội “Cố ý gây thương tích” buộc bị cáo phải chấp hành hình phạt chung của hai tội là 22 (hai mươi hai) năm tù. Thời hạn tù tính từ ngày 03/6/2022.
* Căn cứ khoản 1 điểm d, khoản 2 điểm a, khoản 4 Điều 134; điểm s khoản 1 khoản 2 Điều 51, Điều 58 Bộ luật hình sự.
Tuyên bố các bị cáo Hồ Chí B, Phan Hoàng N, Tô Hoàng L, Nguyễn Tuấn K, Lê Dĩ K, Nguyễn Thanh L, Nguyễn Văn N và Trương Minh T phạm tội “Cố ý gây thương tích”.
Xử phạt các bị cáo mức án như sau:
- Bị cáo Hồ Chí B: 14 (mười bốn) năm tù.
- Bị cáo Phan Hoàng N: 11 (mười một) năm tù.
- Bị cáo Nguyễn Văn N: 11 (mười một)năm tù.
- Bị cáo Nguyễn Thanh L: 10 (mười) năm tù.
- Bị cáo Nguyễn Tuấn K:10 (mười)năm tù.
- Bị cáo Tô Hoàng L: 9 (chín) năm tù.
- Bị cáo Lê Dĩ K: 9 (chín) năm tù.
- Bị cáo Trương Minh T: 8 (tám)năm tù.
Thời hạn tù của các bị cáo tính từ ngày 03/6/2022.
* Căn cứ điểm b khoản 1 Điều 389; điểm s khoản 1 khoản 2 Điều 51 Điều 65 Bộ luật hình sự.
Tuyên bố các bị cáo Trần Thanh B,Trần Dương Thanh V, Dương Bích T và Trần Anh Đ phạm tội “Che giấu tội phạm” .
- Xử phạt bị cáo Trần Thanh B 3 (ba) năm tù nhưng cho bị cáo được hưởng án treo. Thời gian thử thách là 5 (năm) năm. Tính từ ngày tuyên án sơ thẩm.
- Xử phạt bị cáo Dương Bích T 2 (hai) năm tù nhưng cho bị cáo được hưởng án treo thời gian thử thách là 4 (bốn) năm. Tính từ ngày tuyên án sơ thẩm.
- Xử phạt bị cáo Trần Dương Thanh V 01 (một) năm tù nhưng cho bị cáo được hưởng án treo thời gian thử thách là 2 (hai) năm. Tính từ ngày tuyên án sơ thẩm.
- Xử phạt bị cáo Trần Anh Đ 1 (một) năm tù nhưng cho bị cáo được hưởng án treo thời gian thử thách là 2 (hai) năm. Tính từ ngày tuyên án sơ thẩm.
Giao bị cáo Trần Thanh B, Dương Bích T và Trần Dương Thanh V cho Ủy ban nhân dân thị trấn H,huyện Nhơn Trạch, tỉnh Đồng Nai nơi các bị cáo cư trú để quản lý, giáo dục trong thời gian thử thách.
Giao bị cáo Trần Anh Đ cho Ủy ban nhân dân xã Suối Kết, huyện Tánh L, tỉnh Bình Thuận nơi bị cáo cư trú để quản lý, giáo dục trong thời gian thử thách.
Trong thời gian thử thách, nếu người được hưởng án treo cố ý vi phạm nghĩa vụ theo quy định Luật thi hành án hình sự 02 lần trở lên, thì Tòa án có thể quyết định buộc người đó phải chấp hành hình phạt tù của bản án đã được hưởng án treo. Trường hợp thực hiện hành vi phạm tội mới thì Tòa án buộc người đó phải chấp hành hình phạt của bản án trước và tổng hợp hình phạt của bản án mới theo quy định tại Điều 56 của Bộ luật hình sự.
Trường hợp các bị cáo thay đổi nơi cư trú thì thực hiện quy định tại Điều 87 và khoản 1 Điều 92 của Luật thi hành án hình sự năm 2019.
Áp dụng Điều 47 Bộ luật hình sự Điều 591 Bộ luật Dân sự: Buộc các bị Đỗ Lâm Tấn V, Hồ Chí B, Phan Hoàng N, Lê Dĩ K, Tô Hoàng L, Nguyễn Tuấn K, Nguyễn Thanh L, Nguyễn Văn N và Trương Minh T phải liên đới bồi thường cho gia đình bị hại Võ Văn L và bị hại Cao Xuân Đ như sau:
* Bồi thường cho gia đình nạn nhân Võ Văn L tổng cộng 318.000.000đ (Ba trăm mười tám triệu đồng), cụ thể:
- Đỗ Lâm Tuấn V : 54.000.000đ (năm mươi tư triệu đồng).
- Hồ Chí B: 54.000.000đ (năm mươi tư triệu đồng).
- Phan Hoàng N: 30.000.000đ (ba mươi triệu đồng).
- Lê Dĩ K: 30.000.000đ (ba mươi triệu đồng).
- Tô Hoàng L: 30.000.000đ (ba mươi triệu đồng).
- Nguyễn Văn K : 30.000.000đ (ba mươi triệu đồng).
- Nguyễn Thanh L: 30.000.000đ (ba mươi triệu đồng).
- Nguyễn Văn N: 30.000.000đ (ba mươi triệu đồng).
- Trương Minh Th: 30.000.000đ (ba mươi triệu đồng).
- Buộc bị cáo Đỗ Lâm Tấn V phải có trách nhiệm trợ cấp nuôi con bị hại là cháu Võ Phương Tuệ A sinh ngày 15/4/2021 đến tuổi trưởng thành (18 tuổi) và có khả năng lao động mức cấp dưỡng mỗi tháng là 2.000.000đ. Thời điểm cấp dưỡng tính từ ngày 02/6/2022.
- Buộc bị cáo buộc bị cáo Hồ Chí B phải có trách nhiệm trợ cấp nuôi con bị hại là cháu Võ Giang Tuệ Mẫn sinh ngày 17/7/2017 đến tuổi trưởng thành (18 tuổi) và có khả năng lao động mức cấp dưỡng mỗi tháng là 2.000.000đ. Thời điểm cấp dưỡng tính từ ngày 02/6/2022.
Ngoài ra, Toà án cấp sơ thẩm còn tuyên về trách nhiệm dân sự đối với ông Cao Xuân Đ, tuyên về xử lý vật chứng, án phí và quyền kháng cáo vụ án theo luật định.
Sau khi xét xử sơ thẩm, ngày 24/11/2023 các bị cáo Hồ Chí B, Nguyễn Văn N có đơn kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt. Vào ngày 21/11/2023 bà Võ Thị T – đại diện hợp pháp cho bị hại Võ Văn L có đơn kháng cáo đề nghị xét xử tất các các bị cáo phạm tội giết người, tăng hình phạt đối với các bị cáo, tăng mức bồi thường; vào các ngày 26, 27 và 28/11/2023 các bị hại Cao Xuân Đ, Trương Văn Đ và Nguyễn Văn P có đơn kháng cáo đề nghị xét xử tất cả các bị cáo phạm tội giết người và tăng hình phạt đối với tất cả các bị cáo.
Tại phiên tòa phúc thẩm;
Các bị cáo thừa nhận toàn bộ hành vi phạm tội như án sơ thẩm quy kết, các bị cáo Bảo và Ng giữ nguyên yêu cầu kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt vì mức án như toá án cấp sơ thẩm tuyên là quá nặng.
Các bị hại giữ nguyên yêu cầu kháng cáo đề nghị xử phạt tất cả các bị cáo về tội giết người và tăng hình phạt đối với tất cả các bị cáo. Trong đó cần xem xét các bị cáo Bình, Truyền và V là kẻ chủ mưu, cầm đầu vì quá trình các bị cáo và người bị hại gây sự, cãi nhau thì có mặt những bị cáo này, các bị cáo này là chủ quán chuẩn bị sẵn hung khí tại quán nên các bị cáo sử dụng đánh bị hại thì phải được sự đồng ý của chủ quán thì những nhân viên này mới dám đánh bị hại. Riêng bị cáo Đức thì các bị hại không kháng cáo.
Đại diện hợp pháp cho bị hại L đề nghị tăng tiền bồi thường về mai táng phí, tiền cấp dưỡng nuôi con và tổn thất tinh thần.
Đại diện Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh phát biểu quan điểm về việc giải quyết vụ án:
Căn cứ vào chứng cứ có tại hồ sơ và được xét hỏi công khai tại phiên tòa thì có đủ cơ sở để kết luận bị cáo Đỗ Lâm Tấn V sử dụng chiếc rìu sắt đập vào đầu anh L và chém 05 nhát vào lưng anh Đ, hậu quả làm anh L tử vong, anh Đ bị thương tích 12%, hành vi của của bị cáo Vũ đã cấu thành tội “giết người” và tội “cố ý gây thương tích” theo điểm n khoản 1 Điều 123; điểm đ khoản 2 Điều 134 Bộ luật hình sự như án sơ thẩm đã tuyên là có căn cứ đúng pháp luật.
Các bị cáo Hồ Chí B, Phan Hoàng N, Tô Hoàng L, Nguyễn Tuấn K, Lê Dĩ K, Nguyễn Thanh L, Nguyễn Văn N, Trương Minh T tham gia đánh nhóm anh L với mục đích đánh đánh dằn mặt, các bị cáo đều biết và thống nhất đánh nhóm bị hại, các bị cáo chuẩn bị sẵn hung khí và khi nhóm bị cáo đi ra thì tất cả các bị cáo đều tham gia đánh, trong đó bị cáo Vũ sử dụng rìu đánh chết bị hại L vì vậy các bị cáo phải chịu chung hậu quả do Vũ gây ra. Vì vậy có căn cứ để xác định các bị cáo N, Khang, Lâm, Bảo, Khanh, Long, Thanh, Ng đồng phạm với Vũ về tội giết người đối với bị hại L. Đối với các bị cáo Bình, V, Truyền và Đức cũng có dấu hiệu đồng phạm về tội giết người. Do đó, đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận kháng cáo của bị hại huỷ toàn bộ Bản án sơ thẩm, chuyển hồ sơ cho cấp sơ thẩm điều tra, truy tố, xét xử lại.
Luật sư bào chữa cho bị cáo Vũ, Bảo, N, Khang phát biểu: Cấp sơ thẩm xét xử bị cáo Vũ về tội giết người là đúng. Luật sư không thống nhất với quan điểm của kiểm sát viên cho rằng các bị cáo này đồng phạm về tội giết người, các bị cáo chỉ phạm tội cố ý gây thương tích vì các bị cáo nay không nhằm đánh chết bị hại các bị cáo chỉ đồng ý với Bảo là đánh dằn mặt (gây thương tích) việc Vũ dùng rìu đánh chất anh L là nằm ngoài ý thức của các bị cáo này. Đề nghị không chấp nhận kháng cáo của bị hại.
Luật sư bào chữa cho các bị cáo Bình, Truyền, V và Đức phát biểu: Các chứng cứ có tại hồ sơ chỉ đủ cơ sở kết luận bị cáo Bảo nhằm mục đích đánh dằn mặt nhóm bị hại, tức là đánh gây thương tích, không có ý thức tước đoạt mạng sống của bị hại. Vũ dùng rìu đánh chất bị hại là hành vi thái của của Vũ nên chỉ một mình Vũ phải chịu. Không có chứng nào xác định các bị cáo Bình, Truyền và V đồng phạm về tội giết người, do đó Toà án cấp sơ thẩm kết án các bị cáo này về tội che giấu tội phạm là có căn cứ. Kiểm sát viên tại phiên toà cho rằng có dấu hiệu đồng phạm với các bị cáo khác về tội giết người là chưa đủ căn cứ.
Luật sư bào chữa cho các bị cáo Lâm, Thanh, Long, Ng, Thanh phát biểu: Thống nhất như quan điểm của các luật sư đồng nghiệp, vì các chứng cứ có tại hồ sơ chỉ thể hiện các bị cáo này đánh dằn mặt bị hại tức gây thương tích chứ không phải đánh chết. Việc Vũ dùng rìu đánh chết bị hại L thì chỉ một mình bị cáo Vũ phải chịu.
Luật sư bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho bị hại phát biểu: Các chứng cứ có tại hồ sơ thì đủ căn cứ kết luận các bị cáo đều thống nhất ý chí đánh nhóm bị hại cùng chuẩn bị hung khí để đánh bị hại nên hậu quả đến đâu thì phải chịu đến đó. Các bị cáo Bình, Truyền, V có dấu hiệu đồng phạm giết người vì trước đó chính nhóm bị hại gây gổ với chủ quán và sau đó nhóm bị cáo (nhân viên quán) đánh bị hại. Đề nghị huỷ toàn bộ Bản án sơ thẩm đề điều tra, xét xử lại.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1] Quá trình điều tra đã xác định được; Vào khoảng 01 giờ 30 phút, ngày 03/6/2022 tại quán Karaoke Thanh V, địa chỉ: Khu phố P, thị trấn H, huyện Nhơn Trạch, tỉnh Đồng Nai, do mâu thuẫn trong quá trình hát Karaoke giữa nhóm anh Võ Văn L, anh Lê Bá L, anh Trần Văn Q, anh Cao Xuân Đ, anh Trương Văn Đ, anh Nguyễn Văn P với chị Võ Thị H là nhân viên nữ phục vụ bia của quán, khi bị khách chửi thì H kể lại sự việc cho Hồ Chí B nghe. Sau đó Bảo đi vào phòng hát Karaoke để nói chuyện với nhóm anh L thì bị nhóm anh L chửi. Bảo bực tức vì bị chửi nên Bảo đã rủ Đỗ Lâm Tấn V, Phan Hoàng N, Nguyễn Tuấn K, Lê Dĩ K, Nguyễn Thanh L, Trương Minh T, Tô Hoàng L, Nguyễn Văn N đánh dằn mặt gây thương tích, không có mục đích nhằm tước đoạt tính mạng cho người của nhóm anh L, thì tất cả đồng ý. N cầm 01 gậy bóng chày, Khanh cầm 01 gậy bóng chày và đưa 02 gậy bóng chày cho Bảo và Long mỗi người một gậy, Khang cầm một đoạn cây tre dài 60cm, Lâm cầm 01 đoạn cây gỗ dài 70cm, Ng cầm một đoạn cây gỗ tròn dài 50cm, Vũ cầm 01 chiếc rìu sắt tự chế dài khoảng 60 cm, cán tròn làm bằng kim loại, một đầu rìu bằng lưỡi để chặt, một đầu vuông để đánh dằn mặt nhóm của anh L. Khi thấy nhóm của Bảo đánh nhóm anh L thì Nguyễn Văn N, Tô Hoàng L và Trương Minh T cũng chạy ra giúp sức để đánh nhóm của anh L. Hậu quả làm anh Võ Văn L bị đánh tử vong, anh Cao Xuân Đ bị đánh gây thương tích 12%.
[3] Xét cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Đồng Nai truy tố các bị cáo Hồ Chí B, Phan Hoàng N, Tô Hoàng L, Nguyễn Tuấn K, Lê Dĩ K, Nguyễn Thanh L, Nguyễn Văn N, Trương Minh T về tội “Cố ý gây thương tích” với tình tiết định khung là "Gây thương tích dẫn đến chết người”, quy định tại điểm a khoản 4 Điều 134 Bộ luật hình sự (áp dụng theo án lệ số 01/2016/AL được Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao thông qua ngày 06/4/2016) là không chính xác bởi lẽ: Căn cứ vào lời khai của các bị cáo và lời thừa nhận của bị cáo Bảo đã thể hiện rõ sau khi bị cáo Bảo bị nhóm bị hại chửi tại phòng karaoke thì Bảo bực tức đi ra nói với các bị cáo Đỗ Lâm Tuấn V, Nguyễn Tuấn K, Lê Dĩ K, Nguyễn Thanh L và Phan Hoàng N đánh nhóm bị hại; có lời khai bị cáo Bảo khai "mấy thằng này bố láo quá, chút ra hỏi thăm sức khỏe tụi nó"; “"mấy thằng này bố láo quá, chút đánh dằn mặt bọn nó" lúc lại khai “"mấy thằng này bố láo quá, chút ra đập chết mẹ tụi nó" thì tất cả các bị cáo khác đều đồng ý. Sau đó chính bị cáo Bảo chỉ bị cáo Long, Khanh đi chuẩn bị hung khí, Bảo, Long, Khanh đi lấy gậy bóng chày bằng sắt còn các bị cáo Khang lấy đoạn cây tre, Ng lấy cây gỗ, Vũ lấy cây rìu sắt...đây đều là các loại hung khí nguy hiểm, việc các bị cáo sử dụng các hung này thì tất cả các bị cáo khác đều nhìn thấy, đều biết. Điều đó cho thấy tất cả các bị cáo cùng chung mục đích đánh nhóm người anh L, đánh vào vị trí nào trên cơ thể bị hai, đánh mức độ nào thì các bị cáo không bàn bạc rõ, do đó, hậu quả đến đâu thì tất cả các bị cáo đều phải chịu chung đến đó như nhận định của Toà án cấp sơ thẩm là có căn cứ, đúng pháp luật. Không có chứng cứ nào thể hiện rằng các bị cáo chỉ đánh gây thương tích nhóm bị hại, Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Đồng Nai cho rằng câu nói của Bảo rủ các bị cáo khác đánh “dằn mặt” nhóm bị là là đánh gây thương tích, còn hành vi của bị cáo Vũ dùng rìu đánh bị hại là hành vi thái quá của Vũ, nhận định này là mang tính chủ quan, không phù hợp với diễn biến khách quan và các chứng cứ có tại hồ sơ, tình huống trong vụ án này không giống như tình huống trong an lệ số 01 mà Viện kiểm sát viện dẫn.
[4] Trên thực tế xảy ra khi nhìn thấy nhóm bị hại đi ra thì nhóm bị cáo đồng loạt rượt đánh nhóm bị hại, các bị cáo thực hiện một chuỗi hành vi liên tục, xuyên suốt và chỉ dừng lại khi anh L bị đánh nằm gục chết. Trong đó bị cáo Vũ sử dụng rìu sắt đánh 5 cái liên tiếp vào lưng anh Đ gây thương tích cho anh Cao Xuân Đ 12%, sau đó bị cáo tiếp tục cầm rìu chạy vào khu vực nhà để xe để hỗ trợ các đồng phạm là Nguyễn Tuấn K, Lê Dĩ K đang đánh nhau với các anh Nguyễn Văn P và Võ Văn L, bị cáo Vũ dùng rìu đánh vào đầu anh L, hậu quả làm anh L tử vong. Đối với các bị cáo Nguyễn Văn N, Tô Hoàng L và Trương Minh T, khi thấy nhóm của Bảo đánh nhóm anh L thì các bị cáo này cũng chạy ra giúp sức để đánh nhóm của anh L, tiếp nhận ý chí của Bảo và các bị cáo khác cùng đánh nhóm bị hại. Với diễn biến hành vi phạm tội nêu trên có đủ cơ sở kết luận cả 09 bị cáo này đều phạm tội “giết người” và tội “Cố ý gây thương tích”, trong đó bị cáo Vũ có dấu hiệu của hành vi giết nhiều người. Bị cáo Bảo có vai trò là kẻ chủ mưu cầm đầu, khởi sướng việc đánh nhóm bị hại, chỉ đạo các bị cáo khác chuẩn bị hung khí, đóng cổng không cho nhóm bi hại chạy thoát.
[5] Quá trình giải quyết vụ án Toà án cấp sơ thẩm đã quyết định trả hồ sơ để điều tra bổ sung để điều tra làm rõ dấu hiệu các bị cáo Hồ Chí B, Phan Hoàng N, Tô Hoàng L, Nguyễn Tuấn K, Lê Dĩ K, Nguyễn Thanh L, Nguyễn Văn N và Trương Minh T đồng phạm với bị cáo Đỗ Lâm Tấn V về tội “Giết người”. Tại văn bản số 2335/VKS-P2 ngày 02/10/2023 của Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Đồng Nai vẫn giữ nguyên quan điểm truy tố các bị cáo như cáo trạng số 94/CT-VKS-P2 ngày 08/5/2023. Do đó Toà án cấp sơ thẩm đã kiến nghị Toà án cấp cao xem xét hành vi của các bị cáo Hồ Chí B, Phan Hoàng N, Lê Dĩ K, Tô Hoàng L, Nguyễn Tuấn K, Nguyễn Thanh L, Nguyễn Văn N và Trương Thanh M đồng phạm với bị cáo Đỗ Lâm Tấn V về tội “Giết người” đối với nạn nhân Võ Văn L.
[6] Xét cấp sơ thẩm đã bỏ tội phạm và người phạm tội, đồng thời để làm rõ vai trò của các bị cáo Trần Thanh B, Dương Bích T, Trần Dương Bảo V và Trần Anh Đ nên Hội đồng xét xử chấp nhận kiến nghị của Toà án cấp sơ thẩm, chấp nhận kháng cáo của bị hại Đ, đại diện của bị hại L huỷ toàn bộ Bản án sơ thẩm về tội danh và hình phạt đối với tất cả các bị cáo Hồ Chí B, Phan Hoàng N, Lê Dĩ K, Tô Hoàng L, Nguyễn Tuấn K, Nguyễn Thanh L, Nguyễn Văn N, Trương Thanh M, Đỗ Lâm Tấn V, Trần Thanh B, Dương Bích T, Trần Dương Bảo V và Trần Anh Đ. Chuyển hồ sơ cho Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Đồng Nai để điều tra truy tố xét xử lại, Trong trường hợp huỳ án này Toà án cấp sơ thẩm không có lỗi.
[7] Quá trình điều tra thì các anh Trần Văn Q, Nguyễn Văn P, Trương Văn Đ và Lê Bá L bị thương tích nhẹ và từ chối giám định nhưng cấp sơ thẩm vẫn xác định những người này là bị hại trong vụ án là không đúng pháp luật mà cần xác định là người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan, vì vậy Hội đồng xử không xét kháng cáo của anh Đ và anh Phương. Toà án cấp sơ thẩm cần rút kinh nghiệm.
[8] Do huỷ án sơ thẩm nên Hội đồng xét xử không xét nội dung kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt của bị cáo Bảo, bị cáo Ng, không xét nội dung kháng cáo của bà Thiếc và anh Đ về yêu cầu tăng hình phạt đối với các bị cáo cũng như tiền bồi thường cho bị hại L.
[9] Quan điểm của đại diện Viện kiểm sát xét xử phúc thẩm đề nghị huỷ toàn bộ Bản án sơ thẩm là có căn cứ, được chấp nhận.
[10] Các bị cáo không phải chịu tiền án phí hình sự phúc thẩm.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ vào điểm c khoản 1 Điều 355; Điều 358 của Bộ luật Tố tụng Hình sự.
Chấp nhận kháng cáo của bà Võ Thị Thiếc – đại diện bị hại Võ Văn L. Chấp nhận kháng cáo của bị hại Cao Xuân Đ.
Huỷ toàn bộ Bản án sơ thẩm số 179/2023/HS-ST ngày 17/11/2023 của Tòa án nhân dân tỉnh Đồng Nai.
Chuyển hồ sơ cho Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Đồng Nai để điều tra truy tố xét xử lại theo đúng quy định của pháp luật.
Tiếp tục tạm giam các bị cáo Hồ Chí B, Phan Hoàng N, Lê Dĩ K, Tô Hoàng L, Nguyễn Tuấn K, Nguyễn Thanh L, Nguyễn Văn N, Trương Thanh M và Đỗ Lâm Tấn V cho đến khi Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Đồng Nai thụ lý lại vụ án.
Các bị cáo không phải chịu tiền án phí hình sự phúc thẩm.
Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.
Bản án về tội giết người số 234/2024/HS-PT
Số hiệu: | 234/2024/HS-PT |
Cấp xét xử: | Phúc thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân cấp cao |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 30/03/2024 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về