TÒA ÁN NHÂN DÂN CẤP CAO TẠI ĐÀ NẴNG
BẢN ÁN 230/2022/HS-PT NGÀY 04/07/2022 VỀ TỘI GIẾT NGƯỜI
Ngày 04 tháng 7 năm 2022, tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Kon Tum, xét xử phúc thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 177/2022/TLPT-HS ngày 16 tháng 5 năm 2022 đối với bị cáo Phạm Văn T về tội “Giết người”. Do có kháng cáo của bị cáo đối với Bản án hình sự sơ thẩm số 07/2022/HS-ST ngày 04/4/2022 của Tòa án nhân dân tỉnh Kon Tum. Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 1824/2022/QĐXXPT-HS ngày 20 tháng 6 năm 2022.
* Bị cáo có kháng cáo:
Phạm Văn T: sinh ngày 14/7/1981, tại Thái Bình; Nơi đăng ký NKTT: tỉnh Gia Lai; Nơi cư trú: Thôn 3, xã I, huyện I, tỉnh Kon Tum; Nghề nghiệp: Công nhân; Trình độ học vấn: 09/12; Dân tộc: Kinh; Giới tính: Nam; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; con ông: Phạm Văn P, sinh năm 1949 (Đã chết) và bà Phạm Thị K, sinh năm 1954; Tiền án: Không; Tiền sự: 01: Năm 2020, bị Ủy ban nhân dân huyện I, tỉnh Kon Tum xử phạt vi phạm hành chính về hành vi khai thác cát trái phép.
Bị cáo bị bắt tạm giữ, tạm giam từ ngày 23/6/2021 đến nay; có mặt.
- Người bào chữa cho bị cáo Phạm Văn T: Ông Đinh Văn H - Văn phòng Luật sư V, thuộc Đoàn Luật sư tỉnh Kon Tum; có mặt.
Địa chỉ: tỉnh Kon Tum.
- Bị hại: Anh Lê Văn Đ (Tên gọi khác: Lê Văn D), sinh năm 1973.
Địa chỉ: huyện I, tỉnh Kon Tum; vắng mặt.
- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: Chị Rơ Mah H, sinh năm 1984; vắng mặt.
Địa chỉ: Thôn 3, xã I, huyện I, tỉnh Kon Tum.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Khoảng 13 giờ ngày 24/12/2020, sau khi dự T gia và có uống rượu tại nhà người quen, Phạm Văn T đi về nhà ngủ thì nghĩ đến sự việc ngày hôm trước (Ngày 23/12/2020), khi T cho anh Hồ Nhật T lái xe đến xưởng mộc của anh Lê Văn Đ (Tên gọi khác: Lê Văn D) để nhận cặp Lục bình mà T đã thuê anh Đ làm trước đó với giá tiền công là 3.600.000 đồng, nhưng anh Đ không cho nhận vì T còn thiếu tiền công 600.000 đồng, chỉ đến khi T phải nhờ T1 trả đủ 600.000đ thì Đ mới cho nhận và chở cặp Lục bình đi. Bực tức vì chuyện này nên T gọi điện cho Đ và nói: “Sao anh làm ăn lèo phèo thế?” rồi hai bên cãi nhau. T tắt điện thoại nhưng vẫn còn bực tức nên sử dụng xe mô tô BKS 17H4-3633 đi tìm và gặp Hà Văn T2 đang ngồi chơi ở nhà anh Trần Ngọc H. Tại đây, T nói với T2 là có người dưới S thách thức T, T2 không tin nên nói T “Bốc phét” nên T lấy điện thoại gọi điện, mở loa ngoài nói chuyện và cãi nhau qua lại với anh Đ để T2 nghe. Sau khi cãi nhau qua điện thoại thì T rủ T2 đi cùng thì T2 đồng ý. Lúc này, có Hà Văn T, Đinh Xuân B, Lý Mạnh T đều là bạn của T2 cũng đang chơi ở đây, nhìn thấy T chở T2 đi và nghĩ có đánh nhau nên đã lấy xe mô tô BKS 82B 1-673.62 (xe T2 mượn của bố để đi chơi) đi theo để xem. Khi đến xưởng mộc của anh Đ tại Thôn 2, xã Ia Dom, huyện I, T dựng xe cách khu vực xưởng mộc khoảng 4m rồi đi thẳng vào chỗ anh Đ đang làm việc, còn T2 không vào theo T mà đứng ở ngoài, gần chỗ T dựng xe và dùng điện thoại chơi game; T, T, B cũng dựng xe ở phía sau, cách xe của T khoảng 4m. Lúc này, T thấy anh Đ đang ngồi tiện lục bình bằng máy mài, vị trí bên trong lán, dưới phần có che mái bạt ni lông nên đi đến gần và hỏi Đ “Mày thách tao à?”, Đ trả lời T “Gì mày?”, thì T nhìn thấy ở bên cạnh Đ có chiếc rìu liền dùng tay phải cầm lấy chiếc rìu (có đặc điểm: thanh gỗ ở đầu có gắn lưỡi được liên kết với cán rìu bởi khớp mộng, tạo thành hình dấu cộng; cán rìu bằng tre dài 70,2cm, đường kính 3,4cm; lưỡi rìu dài 66,6cm, có hai phần: phần lưỡi bằng kim loại dài 13cm, rộng nhất 7,1 cm sắc bén, phần thanh gỗ dẹp dài 53,6cm), T đứng ở vị trí đối diện Đ, cách nhau khoảng 1m. Lúc này, Đ đã bỏ máy mài xuống và vừa đứng dậy, trên đầu đang đội chiếc mũ lưỡi trai bằng vải, màu xanh thì bị T dùng cả hai tay cầm cán rìu (vị trí cầm cách lưỡi rìu khoảng 40cm), vung rìu lên cao qua đầu, rìu chạm vào làm rách tấm bạt cách đầu T khoảng 30 cm rồi bổ một nhát theo chiều, hướng từ trên xuống dưới, từ phải qua trái, Đ chỉ kịp cúi đầu, hơi khom người định quay về sau để né tránh thì bị lưỡi rìu bổ trúng đầu, Anh Đ bị lưỡi rìu bổ trúng đầu nên dùng hai tay ôm đầu, ngồi xuống đất và nói T: “Trả lại cho tao cây rìu”, T nói “không”, rồi bỏ mặc T với vết thương trên đầu, tay cầm chiếc rìu đi ra ngoài, lấy xe máy bỏ đi. Lúc này T2, T, T đi một xe, T chở B đi một xe. Khi đi đến cầu S, T ném rìu xuống sông và đi về nhà còn T2, T, T, B về lại nhà anh H chơi. Sau khi T bỏ đi, anh Lê Văn Đ được hàng xóm đưa đi cấp cứu.
- Tại Bản kết luận giám định pháp y về thương tích số 195/TgT-TTPY ngày 31/12/2020 của Trung tâm pháp y tỉnh Kon Tum, kết luận:
Tổng tỷ lệ tổn thương cơ thể tại thời điểm giám định là 16%. Trong đó:
+ Vết thương vùng đỉnh chẩm phải hình chữ (C) ngược, sưng nề, còn chỉ khâu, kích thước lớn: 03%.
+ Vỡ xương hộp sọ vùng đỉnh chẩm phải, kích thước từ 3 đến 5 cm, đã phẫu thuật, đang theo dõi điều trị, không có dấu hiệu liệt thần kinh khu trú: 13%.
Quá trình điều tra, bị cáo Phạm Văn T đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình.
Tại Bản án hình sự sơ thẩm số 07/2022/HSST ngày 04/4/2022 của Tòa án nhân dân tỉnh Kon Tum đã quyết định:
Căn cứ điểm n khoản 1 Điều 123; điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; khoản 1 Điều 54; khoản 3 Điều 57; Điều 38 Bộ luật hình sự năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017.
Tuyên bố: Bị cáo Phạm Văn T phạm tội “Giết người”.
Xử phạt bị cáo Phạm Văn T 10 (Mười) năm tù. Thời hạn tù tính từ ngày tạm giữ, tạm giam 23/6/2021, trừ đi thời hạn tạm giữ tạm giam trước đó, từ ngày 24/12/2020 đến ngày 20/5/2021.
Ngoài ra, bản án sơ thẩm còn quyết định về phần xử lý vật chứng, án phí và quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.
Ngày 13/4/2022, bị cáo Phạm Văn T kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt.
Tại phiên tòa phúc thẩm: Bị cáo giữ nguyên yêu cầu kháng cáo.
Kiểm sát viên đại diện cho Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Đà Nang phát biểu quan điểm về việc giải quyết vụ án: Tòa án sơ thẩm đã xử phạt bị cáo 10 năm tù về tội giết người là đứng pháp luật; bị cáo kháng cáo xin giảm nhẹ nhưng không có tình tiết mới, đề nghị áp dụng khoản 1 Điều 355 BLTTHS bác kháng cáo của bị cáo giữ nguyên bản án sơ thẩm.
Người bào chữa cho bị cáo T trình bày: Thống nhất về tội danh đối với bị cáo, hành vi của bị cáo là bột phát, mức án sơ thẩm xử phạt bị cáo 10 năm tù là nghiêm khắc, thương tích của bị hại chỉ có 16 %, đề nghị xét giảm án cho bị cáo.
Bị cáo T thống nhất với lời bào chữa của người bào chữa, đề nghị xin giảm án tù.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án, kết quả tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1] Lời khai nhận tội của bị cáo Phạm Văn T tại phiên tòa phù hợp với các tài liệu có tại hồ sơ vụ án, Hội đồng xét xử có cơ sở nhận định: Khoảng 13 giờ ngày 24/12/2020, Phạm Văn T vì bực tức việc ngày hôm trước anh Đ không cho nhận cặp lục bình vì T còn thiếu tiền công làm 600.000 đồng nên T gọi điện cãi nhau với Đ, sau đó T điều khiển xe mô tô biển số 17H4-3633 đi đến xưởng mộc của anh Đ tại Thôn 2, xã I, huyện I, T thấy anh Đ đang ngồi tiện lục hình bên trong lán, dưới phần có che mái bạt ni lông nên đi đến gần và hỏi Đ: “Mày thách tao à?”, Đ trả lời T: "Gì mày? ”, T nhìn thấy cạnh Đ có chiếc rìu liền dùng tay phải cầm lấy, dùng cả hai tay cầm cán rìu vung lên cao qua đầu rồi bổ một nhát theo chiều, hướng từ trên xuống dưới, từ phải qua trái, Đ khom người định quay về sau để né tránh thì bị lưỡi rìu bổ trúng đầu, tỷ lệ tổn thương cơ thể là 16%. Tòa án sơ thẩm đã xét xử bị cáo về tội “Giết người” theo điểm n khoản 1 Điều 123 BLHS là có căn cứ và đúng pháp luật.
[2] Xét kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt tù của bị cáo Phạm Văn T, thấy: Hành vi của bị cáo thể hiện tính côn đồ, xem thường tính mạng, sức khỏe người khác, gây mất trật tự trị an tại địa phương, ảnh hưởng xấu an ninh xã hội; phạm tội thuộc trường hợp quy định tại điểm n khoản 1 Điều 123 BLHS năm 2015. Tòa án cấp sơ thẩm đã căn cứ quy định tại điểm n khoản 1 Điều 123 Bộ luật hình sự, tính chất và mức độ hành vi phạm tội của bị cáo, hậu quả bị cáo gây ra, nhân thân của bị cáo, áp dụng đầy đủ các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sụ xử phạt bị cáo 10 (mười) năm tù về tội “giết người” là có căn cứ và đúng pháp luật. Tại cấp phúc thẩm bị cáo không có tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sụ nào mới; do vậy, không chấp nhận kháng cáo của bị cáo T về việc xin giảm nhẹ hình phạt tù, giữ nguyên quyết định của bản án sơ thẩm.
[3] Các quyết định khác của bản án sơ thẩm về trách nhiệm dân sự, về xử lý vật chứng, về án phí hình sự sơ thẩm và dân sự sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.
[4] Về án phí: Bị cáo Phạm Văn T kháng cáo nhưng không được chấp nhận; do đó phải chịu án phí hình sự phúc thẩm theo quy định của pháp luật.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ điểm a khoản 1 Điều 355, Điều 356 Bộ luật tố tụng hình sự;
Căn cứ khoản 2 Điều 135, Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý, sử dụng án phí và lệ phí Toà án.
1. Không chấp nhận kháng cáo của bị cáo Phạm Văn T và giữ nguyên bản án sơ thẩm.
Áp dụng điểm n khoản 1 Điều 123; điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; khoản 1 Điều 54; khoản 3 Điều 57; Điều 38 Bộ luật hình sự năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017.
Xử phạt bị cáo Phạm Văn T 10 (Mười) năm tù về tội “Giết người Thời hạn tù tính từ ngày tạm giữ, tạm giam 23/6/2021, trừ đi thời hạn tạm giữ tạm giam trước đó, từ ngày 24/12/2020 đến ngày 20/5/2021.
2. Các quyết định khác của Bản án hình sự sơ thẩm số 07/2022/HSST ngày 04/4/2022 của Tòa án nhân dân tỉnh Kon Tum về trách nhiệm dân sự, về xử lý vật chứng, về án phí hình sự và dân sự sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.
3. Về án phí: Bị cáo Phạm Văn T phải chịu 200.000, đồng (Hai trăm ngàn đồng) án phí hình sự phúc thẩm.
Bản án hình sự phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.
Bản án về tội giết người số 230/2022/HS-PT
Số hiệu: | 230/2022/HS-PT |
Cấp xét xử: | Phúc thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân cấp cao |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 04/07/2022 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về