Bản án về tội giết người số 226/2023/HS-PT

TÒA ÁN NHÂN DÂN CẤP CAO TẠI THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

BẢN ÁN 226/2023/HS-PT NGÀY 20/04/2023 VỀ TỘI GIẾT NGƯỜI

Ngày 20 tháng 4 năm 2023, tại trụ sở Tòa án nhân dân cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh xét xử phúc thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 24/2023/TLPT- HS ngày 10/01/2023. Do có kháng cáo của bị cáo, bị hại và kháng nghị của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Vĩnh Long đối với Bản án hình sự sơ thẩm số 34/2022/HS-ST ngày 28/11/2022 của Tòa án nhân dân tỉnh Vĩnh Long.

Bị cáo có kháng cáo, kháng nghị: Bùi Hửu P, sinh năm 1963. Hộ khẩu thường trú: Ấp 7, xã Hòa Lộc, huyện T, tỉnh Vĩnh Long; nghề nghiệp: Làm thuê; trình độ học vấn: 05/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Bùi Văn A và bà Phan Thị C (chết); có vợ bà Nguyễn Thị C1 (đã ly thân) và 02 người con (01 người đã chết) tiền sự: Không; tiền án: Không. Bị cáo bị bắt, tạm giam từ ngày 30/8/2022 cho đến nay, có mặt tại phiên tòa.

Người bào chữa cho bị cáo theo yêu cầu của Tòa án: Ông Nguyễn Hồng N, luật sư của Công ty luật TNHH DL Pinnacle thuộc Đoàn luật sư Thành phố Hồ Chí Minh (có mặt).

Bị hại: Dương Thị Thúy K, sinh năm 1976; nơi cư trú: Ấp 2, xã Hòa Lộc, huyện T, tỉnh Vĩnh Long (có mặt).

Ngoài ra trong vụ án này còn có người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan nhưng không có kháng cáo, không có liên quan đến kháng cáo, không bị kháng nghị nên Tòa án không triệu tập.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Bị cáo Bùi Hửu P và bị hại Dương Thị Thúy K có mối quan hệ tình cảm và chung sống với nhau như vợ chồng không có đăng ký kết hôn; bị cáo P thuê một phòng trọ ở gần nhà của bị hại K tại ấp 2, xã Hòa Lộc, huyện T, tỉnh Vĩnh Long để thuận lợi qua lại thăm bị hại K. Đến năm 2020, bà Tống Mỹ H là mẹ của bị hại K phát hiện mối quan hệ tình cảm trên và biết bị cáo P đã từng có vợ nên nhiều lần ngăn cản. Đến năm 2022, bà H thường xuyên đi làm ở Thành phố Hồ Chí Minh nên bị cáo P qua nhà bị hại K ở. Thời gian gần đây, bị hại K nghĩ sống chung với bị cáo P không có tương lai, bị mẹ ngăn cấm và còn phải nuôi con trai lớp 8 ăn học nên bị hại K đã đề nghị chấm dứt mối quan hệ tình cảm với bị cáo P nhưng bị cáo P không đồng ý và đòi chết.

Đến tối ngày 22 và rạng sáng ngày 23/8/2022, bị cáo P và bị hại K cùng ngủ tại phòng ngủ trong nhà của bị hại K tại ấp 2, xã Hòa Lộc, huyện T, tỉnh Vĩnh Long. Đến khoảng 03 giờ 30 phút ngày 23/8/2022, bị cáo P thức dậy và lấy 01 sợi dây điện ở trong nhà bị hại K, dây điện có đặc điểm: có hai lõi kim loại, vỏ nhựa bên ngoài màu đỏ chiều dài 2,72m; một đầu dây điện có chuôi cắm điện, đầu còn lại có hai lõi kim loại lòi ra bên ngoài; bị cáo P dùng tay phải cắm đầu có chuôi cắm vào ổ điện trong phòng ngủ, còn tay trái cầm đầu dây điện còn lại có vỏ nhựa gần hai lõi kim loại đi lại chỗ bị hại K ngủ, bị cáo P dùng tay phải kéo mùng lên chui vào trong và đưa đầu dây điện có hai lõi kim loại vào mu bàn tay trái của bị hại K, đồng thời dùng tay trái của bị cáo P đè áp chặt tay mình lên mu bàn tay của bị hại K để cố định đầu dây điện và bị cáo P ngã mình đè lên trên người của bị hại K để cả hai cùng chết, bị hại K bị giật mình thức dậy và nhìn thấy bị cáo P dùng dây điện chích vào tay của mình nhưng do nhà của bị hại K có sử dụng cầu dao tự động chống giật dẫn đến cúp điện, trước khi dùng dây điện chích bị hại K để cả hai cùng chết thì bị cáo P không biết trong nhà có sử dụng hệ thống này, bị hại K giật mình thức dậy thì bị bị cáo P bóp cổ, bị hại K la lên nên bị cáo P không bóp cổ nữa mà bỏ đi ra khỏi phòng ngủ. Lúc này, bị hại K biết là bị cáo P dùng dây điện chích mình chết nên hỏi “Tại sao chích điện vào người tôi”, bị cáo P trả lời “Tôi muốn chết chung”, bị hại K nói “Chết thì chết một mình, để tôi sống tôi nuôi con tôi”, cự cãi qua lại bị hại K đuổi bị cáo P ra khỏi nhà. Sau đó, bị cáo P ra khỏi nhà về phòng trọ của bị cáo P cách nhà bị hại K 02 căn, dùng dây điện tiếp tục cắm vào ổ điện hai lần nữa để tự sát nhưng không chết, tiêp tục bị cáo P đi đến miếu cụ Sung Biện Chì dùng dây điện tự tử nhưng không chết, sau đó bị cáo P về nhà của con ruột Bùi Hữu T.

Sáng ngày 24/8/2022, bị hại K đến Công an xã Hòa Lộc trình báo sự việc và giao nộp tang vật là một đoạn dây điện dài 2,72 mét; vỏ nhựa màu đỏ; một đầu có chuôi cắm, một đầu để hở lõi kim loại.

Về trách nhiệm dân sự: bị hại K không yêu cầu bị cáo P bồi thường; tuy nhiên con ruột bị cáo là Bùi Hữu T bồi thường thay cho bị cáo số tiền 20.000.000 đồng; bị hại K không yêu cầu gì thêm.

Về vật chứng:

- 01 sợi dây điện màu đỏ có chiều dài 2,72m, lõi kim loại màu vàng đồng, sợi dây điện đôi, một đầu gắn chui cắm màu trắng có 02 chấu, đầu còn lại lòi hai lõi kim loại ra ngoài.

- 01 đoạn dây điện màu xanh, có chiều dài 1.44m, một đầu gắn chui cắm màu trắng có 02 chấu, đầu còn lại lòi 02 lõi kim loại ra bên ngoài (kèm theo 02 đoạn nhựa màu xanh, mỗi đoạn 03cm, rỗng - phần vỏ dây điện).

Tại Bản cáo trạng số 33/CT-VKS-P1 ngày 02 tháng 11 năm 2022 của Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Vĩnh Long đã truy tố Bùi Hửu P về tội “Giết người” theo điểm q khoản 1 Điều 123 của Bộ luật Hình sự.

Tại Bản án hình sự sơ thẩm số 34/2022/HS-ST ngày 28/11/2022 của Tòa án nhân dân tỉnh Vĩnh Long đã tuyên xử:

Tuyên bố bị cáo Bùi Hửu P phạm tội “Giết người”.

Căn cứ điểm q khoản 1 Điều 123; các điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51, Điều 57, Điều 38 của Bộ luật Hình sự.

Xử phạt bị cáo Bùi Hửu P 16 (mười sáu) năm tù. Thời gian chấp hành hình phạt tù của bị cáo được tính từ ngày 30/8/2022.

Ngoài ra, bản án còn tuyên về xử lý vật chứng, án phí và quyền kháng cáo theo quy định.

Sau khi xét xử sơ thẩm, ngày 29/11/2022 bị cáo Bùi Hửu P có đơn kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt. Ngày 09/12/2022, Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Vĩnh Long có Quyết định kháng nghị số 174/QĐ-VKS-P1 có nội dung đề nghị giảm nhẹ hình phạt đối với bị cáo. Ngày 12/12/2022, bị hại Dương Thị Thúy K có đơn kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt đối với bị cáo.

Tại phiên tòa phúc thẩm, bị cáo Bùi Hửu P, bị hại Dương Thị Thúy K giữ nguyên yêu cầu kháng cáo. Đại diện Viện kiểm sát giữ nguyên kháng nghị.

Đại diện Viện Kiểm sát nhân dân cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh tham gia phiên tòa phát biểu: Về thủ tục tố tụng: Người tiến hành tố tụng và người tham gia tố tụng thực hiện đúng theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Kháng cáo của bị cáo, bị hại, kháng nghị của Viện kiểm sát trong hạn luật định. Về nội dung vụ án đúng như chủ tọa phiên tòa tóm tắt. Quá trình điều tra, xét xử ở cấp sơ thẩm và tại phiên tòa hôm nay, cho thấy: Bị cáo đã thừa nhận hành vi phạm tội như bản án sơ thẩm đã nêu. Tòa án cấp sơ thẩm áp dụng điểm q khoản 1 Điều 123 tuyên bố bị cáo phạm tội “Giết người” là đúng. Tuy nhiên, việc áp dụng mức hình phạt 16 năm tù là chưa xem xét, đánh giá một cách toàn diện với tính chất, mức độ, hành vi phạm tội của bị cáo. Bị cáo có nhiều tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51 nên cần được áp dụng khoản 1 Điều 54 Bộ luật Hình sự để xem xét khi quyết định hình phạt. Về hậu quả, bị hại K chưa chết, cũng không bị tổn thương về sức khỏe nên thuộc trường hợp phạm tội chưa đạt theo quy định tại khoản 3 Điều 57 Bộ luật hình sự. Tại phiên tòa hôm nay, bị cáo và bị hại xin giảm nhẹ hình phạt, Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Vĩnh Long cũng kháng cáo một phần bản án sơ thẩm về phần hình phạt. Đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận kháng cáo, kháng nghị, tuyên phạt bị cáo mức án 7 – 8 năm tù là phù hợp với hành vi của bị cáo.

Người bào chữa cho bị cáo là Luật sư Nguyễn Hồng N trình bày: Thống nhất với quan điểm của Đại diện Viện kiểm sát và phân tích toàn bộ các chứng cứ có trong hồ sơ vụ án, Luật sư cho rằng bị cáo có các tình tiết giảm nhẹ gồm: sau khi phạm tội bị cáo thành thà khai báo, ăn năn hối cải, có tác động gia đình bồi thường thiệt hại cho bị hại, đồng thời bị hại cũng có đơn kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo. Đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận Quyết định kháng nghị và đơn kháng cáo của bị cáo, bị hại, áp dụng điểm b,s khoản 1,2 Điều 51, khoản 1 Điều 54, khoản 3 Điều 57 Bộ luật Hình sự, để giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo mức án thấp nhất có thể, để bị cáo sớm trở về với xã hội.

Bị cáo đồng ý với lời bào chữa, không bổ sung.

Bị cáo nói lời sau cùng: Bị cáo đã hối lỗi, sẽ không giám tái phạm. Mong Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra, xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về thủ tục tố tụng: Đơn kháng cáo của bị cáo Bùi Hửu P, bị hại Dương Thị Thúy K và Quyết định kháng nghị số 174/QĐ-VKS-P1 của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Vĩnh Long trong hạn luật định, đủ điều kiện để giải quyết theo thủ tục phúc thẩm.

[2] Xét kháng cáo, kháng nghị:

[2.1] Về tội danh: Tại phiên tòa, bị cáo thừa nhận toàn bộ hành vi phạm tội, lời nhận tội của bị cáo phù hợp với lời khai của bị hại, tang vật thu giữ, biên bản thực nghiệm điều tra và các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án, có đủ căn cứ kết luận: Bị cáo Bùi Hửu P chung sống như vợ chồng với bị hại Dương Thị Thúy K khoảng 05 năm, thời gian gần đây bị hại K nói lời chia tay với bị cáo P, bị cáo P không đồng ý. Do bị cáo ghen và nghi bị hại K có người khác nên bị cáo P nảy sinh ý định giết chết bị hại K và bị cáo cùng chết chung với bị hại K.

Đêm ngày 22 và rạng sáng ngày 23/8/2022, bị cáo P và bị hại K cùng ngủ tại phòng ngủ trong nhà của bị hại K tại ấp 2, xã Hòa Lộc, huyện T, tỉnh Vĩnh Long. Đến khoảng 03 giờ 30 phút ngày 23/8/2022, bị cáo P thức dậy và lấy 01 sợi dây điện từ nhà trọ của bị cáo đem qua nhà của bị hại K, dây điện có đặc điểm: có hai lõi kim loại, vỏ nhựa bên ngoài màu đỏ chiều dài 2,72m; một đầu dây điện có chuôi cắm điện, đầu còn lại có hai lõi kim loại lòi ra bên ngoài; bị cáo P cắm chuôi vào ổ điện, đầu dây còn lại có lõi đồng lòi ra đưa vào mu bàn tay trái của bị hại K, đồng thời dùng tay trái của bị cáo P đè áp chặt tay mình lên mu bàn tay của bị hại K để cố định dầu dây điện và bị cáo P ngã mình đè lên trên người của bị hại K để cả hai cùng chết, bị hại K bị giật mình thức dậy và nhìn thấy bị cáo P dùng dây điện chích vào tay của mình nhưng do nhà của bị hại K có sử dụng cầu dao tự động chống giật dẫn đến cúp điện. Bị hại K giật mình thức dậy thì bị bị cáo P bóp cổ, bị hại K la lên nên bị cáo P không bóp cổ nữa mà bỏ đi ra khỏi phòng ngủ. Lúc này, bị hại K biết là bị cáo P dùng dây điện chích mình chết nên hỏi “Tại sao chích điện vào người tôi”, bị cáo P trả lời “Tôi muốn chết chung”, bị hại K nói “Chết thì chết một mình, để tôi sống tôi nuôi con tôi”, cự cãi qua lại bị hại K đuổi bị cáo P ra khỏi nhà. Sau đó, bị cáo P ra khỏi nhà về phòng trọ của bị cáo P cách nhà bị hại K 02 căn dùng dây điện tiếp tục cắm vào ổ điện hai lần nữa để tự sát nhưng không chết, tiếp tục bị cáo P đi đến miếu cụ Sung Biện Chì dùng dây điện tự tử nhưng không chết, sau đó bị cáo P về nhà của con ruột Bùi Hữu T.

Với hành vi nêu trên, Tòa án cấp sơ thẩm xét xử bị cáo Bùi Hửu P về tội “Giết người” theo điểm q khoản 1 Điều 123 Bộ luật hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) là có căn cứ, đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.

[2.2] Xét tính chất, mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội:

Hành vi của bị cáo P đã xâm phạm đến tính mạng sức khỏe của người khác được pháp luật bảo vệ, ảnh hưởng xấu đến trật tự trị an tại địa phương nên cần phải xử phạt bị cáo mức án tương xứng với hành vi phạm tội của bị cáo, nhằm để răn đe giáo dục và phòng ngừa chung cho toàn xã hội.

[2.3] Về tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự:

Khi lượng hình, Tòa án cấp sơ thẩm đã xem xét bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự. Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, xét bị cáo chưa có tiền án, tiền sự, sau khi phạm tội bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, tác động gia đình khắc phục bồi thường một phần cho người bị hại và bị hại cũng thiết tha xin giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo. Hội đồng xét xử xét thấy mức án 16 năm tù về tội “Giết người” mà cấp sơ thẩm áp dụng đối với bị cáo là quá nghiêm khắc, chưa xem xét và đánh giá hết tính chất, mức độ hành vi phạm tội của bị cáo.

Bởi lẽ mâu thuẫn giữa bị cáo và bị hại xuất phát từ tình cảm giữa hai bên, vì mù quáng trong chuyện tình cảm với bị hại K nên khi bị hại K nói lời chia tay thì bị cáo ghen mới nảy sinh ý định giết chết bị hại K. Ngoài ra bị cáo còn khai trong quá trình sống chung bị cáo làm kiếm tiền đưa cho bị hại K quản lý hết, nay bị cáo tuổi già làm không có tiền, bị hại nói lời chia tay nên bị cáo tức giận không kiềm chế được cảm xúc của bản thân. Mặc dù bị cáo P biết điện là nguồn nguy hiểm cao độ, nếu dùng điện chích vào người khác sẽ dẫn đến chết người. Tuy nhiên Hội đồng xét xử nhận thấy bản chất của vụ án là bị cáo cũng muốn chết chung với bị hại, việc bị hại K và cả bị cáo không chết là ngoài ý muốn của bị cáo. Hơn nữa, khi bị hại K giật mình thức dậy thì bị bị cáo P bóp cổ, bị hại K la lên nên bị cáo P không bóp cổ nữa mà bỏ đi ra khỏi phòng ngủ thể hiện bị cáo không thực sự quyết liệt phạm tội đến cùng. Thậm chí bị cáo nhiều lần tự làm tổn thương bản thân tự tử nhiều lần nhưng bất thành.

Từ đó nhận thấy hành vi phạm tội của bị cáo có nguyên nhân khách quan là bị ảnh hưởng từ quyết định chấm dứt chuyện tình cảm của bị hại đối với bị cáo. Nhận định của cấp sơ thẩm về việc bị cáo tiêu cực, ích kỷ có phần thiếu bản lĩnh, thiếu sự kiềm chế cảm xúc mới dẫn đến hành vi phạm tội xảy ra là đúng. Nhưng cần phải nhìn nhận sự việc trong toàn cảnh khi bị cáo bị mù quáng vì đã dồn rất nhiều tâm sức vào chuyện tình cảm với bị hại, đến nay bị cáo đã lớn tuổi phải đối mặt với thất bại trong chuyện tình cảm, không còn tiền, do đó việc bị hại chủ động chia tay với bị cáo là một đả kích mà bị cáo không thể đủ lý trí để vượt qua được.

Bị cáo đã phạm tội nên phải chịu trách nhiệm đối với hành vi của mình, tuy nhiên thời hạn 16 năm tù giam là quá nghiêm khắc. Xét thấy Quyết định kháng nghị của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Vĩnh Long, kháng cáo của bị cáo, kháng cáo của bị hại Dương Thị Thúy K cùng xin giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo P cũng như ý kiến của vị Luật sư bào chữa cho bị cáo; Hội đồng xét xử xét thấy có cơ sở chấp nhận, cần thiết sửa một phần bản án sơ thẩm về phần hình phạt cho bị cáo nhằm thể hiện tính nhân đạo của pháp luật để giảm nhẹ một phần hình phạt đối với bị cáo Bùi Hửu P.

Từ những phân tích nêu trên, Hội đồng xét xử chấp nhận đề nghị của Kiểm sát viên, chấp nhận Quyết định kháng nghị của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Vĩnh Long, kháng cáo của bị cáo, kháng cáo của bị hại Dương Thị Thúy K. Sửa một phần bản án sơ thẩm, giảm nhẹ một phần hình phạt đối với bị cáo Bùi Hửu P.

[3] Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết hạn kháng cáo, kháng nghị.

[4] Về án phí hình sự: Do kháng cáo được chấp nhận nên bị cáo không phải chịu án phí hình sự phúc thẩm.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ điểm b khoản 1 Điều 355, điểm c khoản 1 Điều 357 của Bộ luật Tố tụng hình sự 2015, Chấp nhận Quyết định kháng nghị số 174/QĐ-VKS-P1 ngày 09/12/2022 của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Vĩnh Long; Chấp nhận kháng cáo của bị cáo Bùi Hửu P; Chấp nhận kháng cáo của người bị hại Dương Thị Thúy K.

Sửa một phần Bản án hình sự sơ thẩm số 34/2022/HS-ST ngày 28/11/2022 của Tòa án nhân dân tỉnh Vĩnh Long.

Tuyên xử:

1/ Tuyên bố bị cáo Bùi Hửu P phạm tội “Giết người”.

Căn cứ điểm q khoản 1 Điều 123; các điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51, khoản 3 Điều 57, Điều 38, khoản 1 Điều 54 của Bộ luật Hình sự.

Xử phạt bị cáo Bùi Hửu P 08 (tám) năm tù. Thời gian chấp hành hình phạt tù của bị cáo được tính từ ngày 30/8/2022.

Hội đồng xét xử tiếp tục tạm giam bị cáo để đảm bảo cho việc thi hành án.

2/ Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết hạn kháng cáo, kháng nghị.

3/ Án phí: Bị cáo Bùi Hửu P không phải chịu án phí hình sự phúc thẩm.

Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án./.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

72
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội giết người số 226/2023/HS-PT

Số hiệu:226/2023/HS-PT
Cấp xét xử:Phúc thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân cấp cao
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 20/04/2023
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về