Bản án về tội giết người số 219/2024/HS-PT

TÒA ÁN NHÂN DÂN CẤP CAO TẠI HÀ NỘI

BẢN ÁN 219/2024/HS-PT NGÀY 18/03/2024 VỀ TỘI GIẾT NGƯỜI

Ngày 18 tháng 3 năm 2024, tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh V, Tòa án nhân dân cấp cao tại Hà Nội xét xử phúc thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 1315/2023/TLPT-HS ngày 10 tháng 11 năm 2023 do có kháng cáo của các bị cáo Nguyễn Văn Q, Nguyễn Quốc K đối với Bản án hình sự sơ thẩm số 109/2023/HS-ST ngày 29/9/2023 của Tòa án nhân dân tỉnh V.

* Bị cáo có kháng cáo:

1. Nguyễn Văn Q, sinh ngày 28/4/2001 tại xã B, huyện B, tỉnh V; Nơi cư trú: Tổ dân phố Đ, thị trấn B, huyện B, tỉnh V; Giới tính: Nam; Nghề nghiệp: Lao động tự do; Trình độ văn hóa: 10/12; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; con ông Nguyễn Văn D và bà Nguyễn Thị M; Vợ, con: chưa có; Tiền án, tiền sự: Không; Bị cáo bị bắt tạm giữ, tạm giam từ ngày 26/02/2022 đến nay; Hiện đang bị tạm giam tại Trại tạm giam - Công an tỉnh V. Có mặt.

2. Nguyễn Quốc K, sinh ngày 02/09/1994 tại huyện B, tỉnh V; Giới tính: Nam; nơi cư trú: Tổ dân phố Đ, thị trấn B, huyện B, tỉnh V; Nghề nghiệp: Lao động tự do; Trình độ văn hóa: 7/12; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông Nguyễn Văn L và bà Nguyễn Thị L1; Có vợ là Nguyễn Thúy Q1 và 01 con; Tiền án, tiền sự: Không; Nhân thân: Tại Bản án hình sự sơ thẩm số 10/HS-ST ngày 03/12/2014, TAND Huyện Mộc Châu, tỉnh Sơn La xử phạt bị cáo 18 tháng tù về tội “Mua bán trái phép chất ma túy”, ngoài ra K còn phải chịu 200.000 đồng tiền án phí HSST và truy thu 200.000 đồng (Ngày 02/02/2015, K nộp xong 200.000 đồng tiền truy thu và 200.000 đồng tiền án phí hình sự sơ thẩm; Ngày 06/02/2016, K đã chấp hành xong hình phạt tù về địa phương nên đã được xóa án tích). Bị cáo bị bắt tạm giữ, tạm giam từ ngày 26/02/2022 đến nay; Hiện đang bị tạm giam tại Trại tạm giam - Công an tỉnh V. Có mặt.

* Người bào chữa cho các bị cáo Nguyễn Văn Q, Nguyễn Quốc K: Luật sư Nguyễn Thị Kim Q2 thuộc Công ty L3, Đoàn luật sư tỉnh V. Có mặt.

Ngoài ra, trong vụ án còn có các bị cáo khác và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đều không có kháng cáo, không bị kháng cáo, kháng nghị nên Tòa án cấp phúc thẩm không triệu tập.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ, nội dung vụ án được tóm tắt như sau: Khoảng 17 giờ ngày 25/02/2022, Nguyễn Thành C, sinh năm 2001 (thường gọi là Cương Thỏ) nhờ Trần Quang L2, sinh ngày 12/01/2005, đều trú quán tại thôn T, xã T, huyện S, tỉnh Tuyên Quang điều khiển xe mô tô của C đi đón bạn của C làm công nhân tại Công ty TNHH K1, thuộc KCN B, thị trấn B, huyện B, tỉnh V, L2 đồng ý. Sau đó, L2 điều khiển xe mô tô của C đi đến cổng Công ty TNHH K1 thì gặp Trần Văn T, sinh năm 2003, trú tại thôn K, xã P, huyện S, tỉnh Tuyên Quang và một số người là bạn của T. T nhận ra xe mô tô L2 đang đi là của C nên chặn xe mô tô do L2 đang điều khiển lại. Khi L2 dừng xe mô tô lại thì T bảo L2 gọi C đến để giải quyết mâu thuẫn vì trước đó T bị nhóm chơi cùng với C đánh ở tổ dân phố T, thị trấn B, huyện B, tỉnh V. L2 đi quay về gặp C và nói cho C biết việc bị T chặn xe và nói lại việc T bảo C đến gặp T để giải quyết mâu thuẫn. Sau khi nghe L2 nói lại sự việc trên, C liền gọi điện thoại cho bạn của C là Nguyễn Thanh T1, sinh năm 1998 (thường gọi là Tùng Ke), trú tại thôn C, xã H, huyện B, tỉnh V; Nguyễn Tiến Đ, sinh năm 2004 (thường gọi là Đạt B), trú tại thôn T, xã S, huyện S, tỉnh Tuyên Quang; Nguyễn Văn H, sinh năm 1996 (thường gọi là Hưng B1), trú tại thôn H, xã T, huyện B, tỉnh V; Lê Đức H1, sinh năm 1999, trú tại Tổ dân phố C, thị trấn H, huyện B, tỉnh V và nói lại cho những người này biết việc T yêu cầu C đến gặp để giải quyết việc hôm trước T bị đồng bọn của C đánh, đồng thời C rủ Nguyễn Thanh T1, Nguyễn Tiến Đ, Nguyễn Văn H, Lê Đức H1 đến cổng Khu Công nghiệp B thuộc thị trấn B, huyện B, tỉnh V để đánh nhóm Trần Văn T thì T1, Đ, H, Hiệp đồng ý. Sau đó, trên đường đi đến cổng Khu Công nghiệp B, C, T1, Nguyễn Văn H gọi điện thoại rủ thêm Đỗ Mạnh H2, sinh năm 1996 (thường gọi là Hùng Cối hoặc tên khác là N), Trần Đan T2, sinh ngày 12/11/2005 (thường gọi là Trường Con), Đỗ Xuân H3, sinh ngày 02/4/2005 (thường gọi là Hưng C1), đều trú tại thôn B, xã S, huyện B, tỉnh V; Vũ Minh H4, sinh năm 2001 (thường gọi là A), trú tại Tổ dân phố T, thị trấn Đ, huyện B, tỉnh V; Vũ Anh T3, sinh năm 1998 (thường gọi là Tuấn T4) và Nguyễn Văn D1, sinh năm 2002 (thường gọi là Dũng B2), đều trú tại thôn N, xã A, huyện T, tỉnh V; Lý Văn V, sinh ngày 16/7/2007 (thường gọi là Hoàng C2), trú tại xóm Đ, xã Q, huyện Đ, tỉnh Thái Nguyên đi cùng. Sau khi gọi điện thoại và rủ T1, Đ, H3, H1 đi đánh T, C điều khiển xe mô tô của C đi đón Đ và Đỗ Xuân H3 (H). Nguyễn Văn H (H) điều khiển xe mô tô đi đón D1 (Dũng B), Vũ Minh H4 điều khiển xe mô tô chở Trần Đan T2 và Lý Văn V; T3 (Tuấn T4) một mình điều khiển xe mô tô đi cùng cả nhóm. Sau khi đón được Đ và H con, C nói cho Đ, Đỗ Xuân H3 (H) biết việc L2 vừa bị đánh. Khi đi đến khu vực trước cổng Nhà văn hóa Tổ dân phố Đ1, thị trấn B, huyện B, tỉnh V thì C, L2 nhìn thấy Nguyễn Văn Q, sinh năm 2001 điều khiển xe mô tô đi xe mô tô nhãn hiệu Honda Wave (xe mới mua, chưa có biển kiểm soát) của Q đèo Nguyễn Quốc K, sinh năm 1994, đều ở Tổ dân phố Đ, thị trấn B, huyện B, tỉnh V đi ra cổng Khu Công nghiệp B để rút tiền. C, L2 nghĩ Q và K là người trong nhóm của T đã chặn xe mô tô của L2 buổi chiều tối nên C bảo Đ điều khiển xe mô tô đuổi theo Q, K đồng thời gọi điện thoại cho Nguyễn Văn H (H) biết và thông báo cho cả nhóm biết.

Nguyễn Văn Q điều khiển xe mô tô đèo Nguyễn Quốc K khi đi đến Tổ dân phố Đ, thị trấn B thì thấy nhóm của Đ, C, Đỗ Xuân H3 (H) đuổi theo phía sau. Q nghĩ nhóm C, L2 đuổi theo để đánh mình nên đã điều khiển xe mô tô chở K bỏ chạy quanh Khu Công nghiệp B rồi điều khiển xe đi vào khu dân cư. Khi đến gần cổng nhà anh Nguyễn Văn H5, sinh năm 1989, trú tại Tổ dân phố Đ, thị trấn B, huyện B là người quen của K thì K nói với Q: “Phi vào nhà anh H5 để lấy gậy đánh bọn này”. Q hiểu ý của K là lấy gậy để đánh lại nhóm đang đuổi theo mình nên điều khiển xe mô tô đi vào trong nhà anh H5. Khi vào trong sân nhà anh H5, Q dựng xe ở trong sân rồi nhìn thấy ở góc cổng nhà anh H5 có 01 chiếc cuốc cán bằng tre dài 1,25m, đường kính cán là 4,5cm, lưỡi cuốc bằng kim loại có kích thước 18cm x 13 cm thì Q liền cầm lấy, còn K tìm thấy và cầm 02 đoạn gậy tre dài khoảng 1,5m. Sau đó, Q, K đi ra ngoài cổng nhà anh H5 đứng ở 02 bên rệ đường mục đích chờ nhóm của C đi đến để đánh. Được khoảng 02 đến 03 phút sau Vũ Minh H4 điều khiển xe mô tô BKS: 88G1-181.80 phía sau đèo Trần Đan T2 đi theo hướng từ đường 310B về hướng cổng nhà anh H5 với vận tốc xe từ 60 – 70 km/h. Lúc này, Q cầm cuốc đứng ở phần đường bên phải theo hướng đi của Vũ Minh H4, còn K hay tay cầm hai đoạn gậy tre đứng ở bên trái đường theo hướng đi của H4. Khi xe mô tô do H4 điều khiển đèo T2 ngồi sau đi đến vị trí Q và K đang đứng thì Q vung cuốc lên cao ngang tầm vai hướng phần lưỡi cuốc về phía trước nhằm vào người H4 đập 01 nhát với lực mạnh theo chiều từ sau về trước làm phần lưỡi cuốc trúng vào mặt của H4 và mặt nạ phía trước của xe mô tô. Do bị Q vụt cuốc trúng mặt nên H4 bị mất thăng bằng làm xe mô tô bị đổ văng trượt trên mặt đường 16,10 m, H4 và T2 bị ngã trượt theo xe mô tô. Thấy H4 và T2 bị ngã, K cầm gậy chạy đến để đánh H4 và T2 nhưng chưa kịp đánh thì H4, T2 vùng dậy bỏ chạy. Thấy H4, T2 bỏ chạy thì Q, K đuổi đánh H4, T2. H4 và T2 tách nhau ra chạy xuống cánh đồng theo hai hướng khác nhau khiến Q, K không đuổi kịp nên Q, K quay lại vào nhà anh Nguyễn Văn H5.

Trước khi Q và K dùng cuốc, gậy đánh H4, T2 thì Đ điều khiển xe mô tô đèo C, Đỗ Xuân H3 (H) vượt qua nhà anh H5 khoảng 30m thì C, Đ và Đỗ Xuân H3 (H) thấy Q, K chạy vào trong cổng nhà anh H5 rồi chạy ra cầm theo gậy để đánh H4, T2 như đã nêu trên nên C gọi điện thoại cho T1 với nội dung: “Anh ơi chúng nó ở đây rồi, chúng nó có cầm cuốc và gậy đấy”. Nghe C nói vậy, T1 trả lời: “Ừ được, chúng mày tập trung ở vòng xuyến đi”, C đồng ý. Khi đến vòng xuyến Khu Công nghiệp B thì Đ chở C, còn Nguyễn Văn H (H) chở T1 và Đỗ Xuân H3 (H); V đi một mình bằng xe của Nguyễn Văn H (H), H1 chở L2 bằng xe của T1. Sau đó, Nguyễn Văn H (H) đi đón D1, còn T3 một mình đi xe mô tô, H2 một mình đi xe ô tô đến tập hợp tại rệ đường gần khu vực Nhà văn hóa Tổ dân phố Đ1, thị trấn B. Lúc này H1 chở L2 đi lấy 01 két bia, gồm có 24 vỏ chai thủy tinh đã sử dụng hết bia, loại chai bia Tiger, còn T1 và V đi lấy 02 dao phóng lợn; Nguyễn Văn H (H) đi lấy 02 tuýp sắt, 01 mã tấu (có một lưỡi, đầu và thân dao vuông rộng khoảng 5cm, dài khoảng 50cm); Đ nhặt ở rệ đường gần Nhà văn hóa Tổ dân phố Đ1 một gậy gỗ, những người còn lại nhặt gạch, đá cầm ở tay, mục đích để đánh nhau và ném vào cổng nhà anh H5. Đến khoảng 21 giờ 40 phút cùng ngày, Nguyễn Văn H (H) thấy T2, H4 sau khi bị Q, K đánh đi từ cánh đồng lên, H hô hoán cho cả nhóm của C biết việc H4 bị đánh thì cả nhóm cùng nhau lấy hung khí, đồ vật chạy đến trước nhà anh Nguyễn Văn H5 nhưng do cổng nhà anh H5 đã khóa bên trong, không vào được nên cả nhóm hô to, gọi mở cổng nhưng Q, K không mở nên nhóm của C đứng ngoài đường chửi bới, hô hào, liên tục yêu cầu anh H5 mở cổng để nhóm của C tìm đánh Q, K. Lúc này, Nguyễn Thành C to tiếng, chửi bới, ném gạch vào trong nhà anh H5; Trần Quang L2 to tiếng, chửi bới, cầm tuýp sắt vụt vào cánh cổng nhà anh H5, sau đó nhặt gạch ở rệ đường ném vào nhà anh H5; Nguyễn Tiến Đ chửi bới, cầm gậy gỗ đập vào cửa cổng nhà anh H5, sau đó cầm chai bia thủy tinh ném nhiều lần vào cổng, mái cổng nhà anh H5; Nguyễn Văn D1 cầm tuýp sắt đập vào cửa cổng, sau đó nhặt gạch ở rệ đường ném lên mái cổng nhà anh H5; Vũ Anh T3 cầm gạch ném lên mái cổng nhà anh H5; Đỗ Mạnh H2 cầm tuýp sắt đập vào cổng nhà anh H5, sau đó ném vỏ chai bia vào cổng nhà anh H5; Trần Đan T2 cầm gạch ném về phía cổng nhà anh H5; Đỗ Xuân H3 cầm phóng lợn chọc liên tiếp về phía cánh cửa cổng nhà anh H5, sau đó cầm vỏ chai bia ném vào cổng nhà anh H5; Nguyễn Thanh T1 cầm phóng lợn chọc vào cổng nhà anh H5; Vũ Minh H4 dùng vỏ chai bia ném vào trong nhà anh H5, sau đó nhặt gạch, đá ở rệ đường ném về phía nhà anh H5; Lê Đức H1 cầm phóng lợn chọc vào cửa cổng nhà anh H5; Nguyễn Văn H cầm vỏ chai bia ném vào trong nhà anh H5, sau đó nhặt gạch đá ở rệ đường ném vào sân nhà và trong nhà anh H5; Lý Văn V cầm tuýp sắt đập vào cửa cổng, sau đó nhặt gạch ném lên mái cổng nhà anh H5. Do những người trong nhà anh H5 không ra và cũng không mở cổng nên nhóm của C đi ra cổng Nhà văn hóa chờ nhóm Q, K đi ra để đánh nhưng không thấy nên nhóm của C lại tiếp tục 02 lần nữa chạy vào vị trí trước cổng nhà anh H5 dùng gậy, tuýp sắt, dao phóng lợn, gạch, đá, vỏ chai bia đập cổng và ném vào nhà anh H5 gây mất trật tự an ninh tại khu dân cư xung quanh. Đến khoảng hơn 22 giờ 00 phút cùng ngày, do không thấy Q, K đi ra nên nhóm của C mới rời khỏi khu vực cổng nhà anh H5.

Do thấy nhóm của C đập phá, gây mất an ninh trật tự nên người dân đã gọi điện thoại đến Công an thị trấn B báo cáo sự việc. Sau khi tiếp nhận tố giác, Công an thị trấn B cùng Công an huyện B đã tiến hành các hoạt động điều tra và triệu tập các đối tượng đến làm việc.

Ngày 26/02/2022, Nguyễn Văn Q và Nguyễn Quốc K đến Công an huyện B để đầu thú và khai nhận hành vi phạm tội của mình.

* Kết quả khám nghiệm hiện trường lúc 20h00’ ngày 26/02/2022:

Hiện trường chung: Hiện trường vụ việc xảy ra trước cổng nhà anh Nguyễn Văn H5, sinh năm 1989, trú tại tổ dân phố Đ, thị trấn B, huyện B, tỉnh V. Phía Bắc là đường liên xã. Phía Nam tiếp giáp hộ nhà H6 - Quyền. Phía Đông tiếp giáp hộ nhà T5 - H6. Phía Tây tiếp giáp hộ nhà H4 - H7.

Hiện trường cụ thể: Nhà anh Nguyễn Văn H5 có 01 cổng ra vào quay ra hướng Bắc, bên phải cổng theo hướng từ trong nhìn ra là nhà ở, bên trái là dãy trọ dạng chữ “L”, cổng có hai cánh được làm bằng kim loại, bên ngoài hàn lớp tôn màu xanh, kích thước: Cao 2,5m; mỗi cánh rộng 1,23m. Hai tấm tôn hàn ở trên 02 cánh cửa cổng (trái, phải) có đặc điểm, kích thước như nhau cao 1,85m, rộng 1,2m, dày 0,1cm, loại tôn trơn không có nhãn hiệu. Phát hiện trên cánh cửa cổng bên trái có 04 vết rách tôn, bên cánh cửa phải có 04 vết rách tôn.

Tại mặt đường phía trước cổng nhà anh H5: Mặt đường được trải nhựa áp phan bằng phẳng rộng 4,1m, trên mặt đường phát hiện 01 dấu vết chà sát dài 16,10m; rộng 02cm, kéo dài từ cổng nhà anh H5 đến cổng nhà Hải H8, hướng chà sát xuất phát từ cổng nhà anh H5. Tại cánh cửa phòng trọ số (6) phát hiện 01 dấu vết vỡ kính có kích thước (30 x 50)cm. Đo cụ thể tại cửa phòng trọ số (6), tại vùng vỡ kính (30 x 50)cm nằm trên hai ô kính, mỗi ô kính có kích thước (37 x 37)cm, trên hai ô kính đều có dấu vết vỡ kính, loại kính màu xanh dày 0,35cm.

Kết quả xác minh, mở rộng hiện trường phát hiện tại vị trí ký hiệu (1) trên sơ đồ là vết chà sát trên bền mặt đường, kích thước dài 16,10m; rộng 02cm, đầu (1) cách lề đường về phía nhà ở và nhà trọ của anh Nguyễn Văn H5 là 3,14m; cuối (1) cách lề đường về phía nhà ở và nhà trọ của anh Nguyễn Văn H5 1,5m. Phát hiện 01 lưỡi cuốc bằng kim loại, kích thước (18 x 13)cm, đã bị gãy chuôi trên cổ kim loại còn phần gỗ bị gãy, trên bề mặt lưỡi cuốc có bám dính chất dịch màu nâu, dạng bọt nhỏ li ti, tại sát mép đường bên trái hướng từ Khu công nghiệp B đi trung tâm tổ dân phố Đ, vị trí này ký hiệu (3). Vị trí (3) cách góc lối vào cổng nhà H6- Quyền 7,8m. Phát hiện vết dịch màu nâu rơi rớt một đoạn kéo dài 32,7m trên mặt đường hướng từ nhà anh Nguyễn Văn H5 đi trung tâm tổ dân phố Đ ký hiệu (4) trên sơ đồ, đầu (4) cách lề đường về phía nhà ở và nhà trọ của anh Nguyễn Văn H5 là 1,25m, cuối (4) cách lề đường về phía nhà ở và nhà trọ của anh Nguyễn Văn H5 là 2,1m. Phát hiện trên mái cổng nhà anh Nguyễn Văn H5 có 06 viên ngói bị vỡ, trụ cổng bên trái theo hướng nhìn vào nhà anh Nguyễn Văn H5 có 02 viên gạch ốp trụ cổng bị vỡ, kích thước lần lượt là (20 x 2)cm và (1,5 x 2)cm, trụ cổng bên phải theo hướng nhìn vào nhà anh Nguyễn Văn H5 có 01 vết vỡ tại ốp trụ cổng, kích thước (3 x 1)cm, loại gạch ốp hai trụ cổng đều là (60 x 60)cm.

*Về thương tích của Vũ Minh H4.

- Kết quả xác minh ngày 26/02/2022, tại Bệnh viện đa khoa tỉnh V: Bệnh nhân Vũ Minh H4 nhập viện hồi 10h30’ ngày 26/02/2022, trên người có các vết thương: Vết thương phức tạp kéo dài từ mũi xuống môi dưới. Sang chấn và gãy nhóm răng cửa hàm trên, há ngậm bình thường, gãy 03 răng cửa hàm trên. Kết quả chụp cắt lớp vi tính sọ não thấy: Vỡ xương hàm trên, gãy thành trước và thành ngoài xoang hàm trái, gãy xương chính mũi và vách ngăn mũi.

- Tại Bệnh án số 168/2022 ngày 21/4/2022 của Bệnh viện đa khoa tỉnh V: Bệnh nhân Vũ Minh H4 vào viện lúc 10h47’ ngày 26/4/2022, ra viện 18h30’ ngày 26/4/2022. Bệnh nhân có các vết thương: Vết thương phức tạp kéo dài từ mũi xuống môi dưới. Sang chấn và gãy nhóm răng cửa hàm trên, há ngậm bình thường. Kết quả chụp cắt lớp vi tính sọ não thấy: Vỡ xương hàm trên, gãy thành trước và thành ngoài xoang hàm trái, gãy xương chính mũi và vách ngăn mũi.

* Về thương tích của Trần Đan T2.

Tại Biên bản kiểm tra dấu vết trên thân thể Trần Đan T2 hồi 20 giờ 55 phút ngày 26/02/2022 của Cơ quan điều tra Công an huyện B thể hiện: Tại mặt ngoài đùi trái có vết xây sát ra đã khô kích thước 01 x 1,5cm, ngoài ra không phát hiện dấu vết thương tích nào khác.

* Về vật chứng của vụ án:

- Ngày 26/02/2022, Cơ quan CSĐT - Công an huyện B thu giữ của anh Nguyễn Văn H5: 01 cán cuốc bằng gỗ tre không có lưỡi cuốc, chiều dài 1,25m, đường kính lớn nhất 4,5cm, đường kính nhỏ nhất 3,5cm; 01 đoạn gậy gỗ tre, đường kính lớn nhất 4cm, đường kính nhỏ nhất 3,5cm, chiều dài 01m; 01 đoạn gậy gỗ dài 1,33m, đường kính lớn nhất 3,5cm, đường kính nhỏ nhất 3cm; 01 lưỡi cuốc bằng kim loại, kích thước (18 x 13)cm; 04 đoạn vi deo được lưu giữ trong 01 USB và 05 đoạn video được thu giữ từ camera hành trình ô tô và các camera an ninh của gia đình anh Nguyễn Văn H5.

- Ngày 26/02/2022, Trần Đan T2 tự nguyện giao nộp xe 01 mô tô BKS 88G1-181.80 mà H4 và T2 sử dụng tối ngày 25/02/2022.

- Ngày 26/02/2022, chị Dương Thị H9, sinh năm 1991, trú tại Tổ dân phố Đ, thị trấn B, huyện B, tỉnh V giao nộp cho Cơ quan CSĐT - Công an huyện B: 01 mảnh nhựa màu trắng, có chiều dài lớn nhất là 20,5cm, chiều rộng lớn nhất là 8,5cm, có hai cạnh nham nhở, mảnh nhựa này phù hợp với các dấu vết vỡ nhựa phần đầu xe mô tô do Trần Đan T2 giao nộp.

- Ngày 27/02/2022, Cơ quan CSĐT - Công an huyện B tạm giữ 01 điện thoại di động nhãn hiệu Iphone 6, bên trong lắp 01 thẻ sim Viettel có in hàng số:

8984048000336628508 của Nguyễn Tiến Đ.

* Kết quả giám định:

1/ Ngày 28/02/2022, Cơ quan CSĐT - Công an huyện B ra Quyết định trưng cầu giám định số 127, trưng cầu Trung tâm pháp y tỉnh V giám định thương tích đối với Vũ Minh H4. Tại Bản kết luận giám định pháp y về thương tích số 57 ngày 07/3/2022, Trung tâm pháp y tỉnh V kết luận: “Dấu hiệu chính qua giám định: - Sẹo vết thương phần mềm từ sống mũi lệch phải xuống tới bờ trên môi trái, kích thước nhỏ, xếp 03%.

- Sẹo vết thương phần mềm nằm chéo từ mép môi dưới lệch trái, xuống tới cằm trái, kích thước nhỏ, xếp 03%.

- Sẹo vết thương phần mềm niêm mạc môi trên đã khâu, kích thước nhỏ, xếp 01%.

- Sẹo vết thương phần mềm niêm mạc môi dưới đã khâu, kích thước nhỏ, xếp 01%.

- Mất răng 2.1; 2.2; 2.3 mỗi răng xếp 02%; 02%; 02%.

- Hiện tại nạn nhân đang điều trị các vết thương các thương tích đã mô tả trên và các tổn thương vỡ xương hàm trên, gãy thành trước + thành ngoài xoang hàm trái, gãy xương chính mũi, vách ngăn mũi. Đương sự xin được làm cận lâm sàng sau, do đang cách ly. Khi nào điều trị ổn định tiến hành giám định bổ sung.

- Cơ chế hình thành thương tích: Các thương tích đã mô tả trên có thể là do vật sắc gây nên.

- Chiều hướng các vết thương đã được mô tả trên có chiều hướng từ trên xuống dưới, từ phải qua trái, từ ngoài vào trong và từ trước ra sau.

- Các thương tích đã mô tả trên không có trong danh mục đánh giá để lại cố tật.

Căn cứ Thông tư số 22/2019/TT-BYT ngày 28/8/2019 quy định tỷ lệ phần trăm tổn thương cơ thể sử dụng trong Giám định pháp y, Giám định Pháp y Tâm thần, tổng tỷ lệ phần trăm tổn thương cơ thể xếp 13%”.

2/ Ngày 12/4/2022, Cơ quan CSĐT - Công an tỉnh V ra Quyết định trưng cầu giám định bổ sung số 09 trưng cầu Trung tâm pháp y tỉnh V giám định bổ sung thương tích của Vũ Minh H4. Tại Bản kết luận giám định bổ sung pháp y về thương tích số 110 ngày 15/9/2022, Trung tâm pháp y tỉnh V kết luận: “Dấu hiệu chính qua giám định: - Sẹo vết thương phần mềm từ sống mũi lệch phải xuống tới bờ trên môi trái, kích thước nhỏ, xếp 03%.

- Sẹo vết thương phần mềm nằm chéo từ mép môi dưới lệch trái, xuống tới cằm trái, kích thước nhỏ, xếp 03%.

- Sẹo vết thương phần mềm niêm mạc môi trên đã khâu, kích thước nhỏ, xếp 01%.

- Sẹo vết thương phần mềm niêm mạc môi dưới đã khâu, kích thước nhỏ, xếp 01%.

- Mất răng 2.1; 2.2; 2.3; 2.4 mỗi răng xếp 02%; 02%; 02%; 02%.

- Vỡ xương hàm trên xếp 09%.

- Gãy xoang hàm trên xếp 08%.

- Gãy xương chính mũi, vách ngăn mũi xếp 08%.

Căn cứ Thông tư số 22/2019/Thị trấn-BYT ngày 28/8/2019 quy định tỷ lệ phần trăm tổn thương cơ thể sử dụng trong Giám định pháp y, Giám định Pháp y Tâm thần, tổng tỷ lệ phần trăm tổn thương cơ thể xếp 34%”.

3/ Ngày 01/3/2022, Cơ quan CSĐT - Công an huyện B ra Quyết định trưng cầu giám định số 130 trưng cầu Phòng K2 Công an tỉnh V giám định kỹ thuật số điện tử đối với 05 đoạn video thu giữ tại các camera an ninh của nhà anh Nguyễn Văn H5 và diễn giải nội dung sự việc xuất hiện trên các đoạn video từ thời điểm 21 giờ 41 phút 35 giây đến 21 giờ 44 phút 50 giây. Tại Bản kết luận giám định số 706 ngày 28/3/2022 của Phòng K2 Công an tỉnh V đã kết luận: “- Không trích xuất được hình ảnh từ tệp tin video có tên “2334610601015896295.mp4” do tập tin video này bị hỏng, không lên hình.

- Trích xuất được 24 ảnh diễn biến của người và phương tiện xuất hiện trên 04 tệp tin video gửi giám định theo yêu cầu giám định, chi tiết được thể hiện trong bản ảnh giám định”.

Nghiên cứu nội dung Bản ảnh giám định kèm theo Kết luận giám định nêu trên thấy rằng bản ảnh thể hiện hành vi của Nguyễn Văn Q cầm cuốc, Nguyễn Quốc K cầm gậy đánh về phía xe mô tô do Vũ Minh H4 điều khiển lai Trần Đan T2 ngồi sau làm xe mô tô, H4, T2 ngã trượt dài trên mặt đường.

4/ Ngày 05/3/2022, Cơ quan CSĐT - Công an huyện B ra Quyết định trưng cầu giám định số 144 trưng cầu Phòng K2 Công an tỉnh V giám định kỹ thuật số điện tử đối với 04 đoạn video trong 05 đoạn video thu giữ tại các camera an ninh của nhà anh Nguyễn Văn H5 yêu cầu diễn giải, in hình ảnh diễn biến sự việc xuất hiện trên các đoạn video ở các thời điểm cụ thể. Tại bản Kết luận giám định số 654 ngày 22/3/2022, Phòng K2 Công an tỉnh V kết luận: “- Chụp được 95 ảnh diễn biến sự việc xuất hiện trên các tệp tin video gửi giám định theo các khoảng thời gian như yêu cầu giám định. Ảnh chụp và thuyết minh được in vào 01 bản ảnh giám định.

- 02 tệp tin video có tên: XVR _ch2_main_ 20220225212520_ 20220225220000. dav và XVR _ch3_main_ 20220225212143_ 20220225220000. dav gửi giám định được sao lưu vào 01 đĩa DAV”.

Nghiên cứu nội dung Bản ảnh giám định kèm theo Kết luận giám định nêu trên thấy rằng: Đối với hình ảnh trích xuất từ camerra an ninh phía ngoài cổng nhà anh Nguyễn Văn H5: Hình ảnh chụp được thể hiện trong ảnh xuất hiện một số người đi bộ, chạy, điều khiển phương tiện,... có hành động cầm các hung khí (gồm: vật dạng thanh dài và các vật không rõ đặc điểm) đập, vung, ném về phía trước mặt (cổng nhà anh H5). Đối với hình ảnh trích xuất từ camerra an ninh phía trong nhà anh Nguyễn Văn H5: Hình ảnh chụp được thể hiện trong ảnh xuất hiện 02 người không rõ đặc điểm cầm hung khí (cầm vật dạng thanh dài, một tay cầm theo vật dạng con dao; cầm vật không xác định) di chuyển đi lại trong tầm quan sát camerra và xuất hiện một số vật không rõ đặc điểm rơi từ trên cao vào phía trong rơi xuống sân, vỡ thành các mảnh nhỏ, văng dưới sân.

5/ Ngày 02/3/2022, Cơ quan CSĐT - Công an huyện B ra Quyết định trưng cầu giám định 134 trưng cầu Phòng K2 Công an tỉnh V giám định kỹ thuật số điện tử đối với chiếc điện thoại di động Iphone 6 của Nguyễn Tiến Đ. Tại bản kết luận giám định số 633 ngày 21/3/2022, Phòng K2 Công an tỉnh V, kết luận: “- Khôi phục, trích xuất được dữ liệu trong điện thoại và thẻ sim gửi giám định, qua phân tích dữ liệu trong khoảng thời gian từ ngày 24/02/2022 đến hết ngày 26/02/2022 có: 16 cuộc gọi trong lịch sử cuộc gọi, 26 tin nhắn SMS và 81 tin nhắn Zalo. Toàn bộ dữ liệu nêu trên được in trong Bản tin dữ liệu kèm theo Kết luận giám định.

- Chụp được 47 ảnh màn hình tin nhắn ứng dụng Mesenger trong khoảng thời gian từ ngày 24/02/2022 đến hết ngày 26/02/2022. Toàn bộ ảnh chụp được in trong bản ảnh giám định kèm theo Kết luận giám định”.

Kiểm tra nội dung tại các bản in, bản ảnh kèm theo kết luận giám định nêu trên thấy rằng không có nội dung gì liên quan đến vụ án này.

6/ Ngày 01/4/2022, Cơ quan CSĐT - Công an tỉnh V ra Quyết định trưng cầu giám định số 132 trưng cầu Viện pháp y quân đội giám định AND trên cuốc do Cơ quan CSĐT - Công an huyện B đã thu giữ được. Tại bản Kết luận giám định AND số HT115/22 ngày 08/4/2022 của V1 Kết luận: “Dấu vết màu nâu trên lưỡi cuốc gửi giám định (ký hiệu A1) có sinh phẩm của người, có AND nhiễm sắc thể thường trùng khớp với AND nhiễm sắc thể thường từ mẫu tóc của Vũ Minh H4 (ký hiệu M1)”.

7/ Ngày 28/3/2022, Cơ quan CSĐT - Công an tỉnh V yêu cầu Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự tỉnh V định giá thiệt hại đối với chiếc xe mô tô BKS 88G1-181.80. Tại bản Kết luận định giá tài sản số 1164 ngày 27/5/2022 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự tỉnh V kết luận: “- Giá trị khôi phục lại tình trạng ban đầu của tài sản trước khi bị hủy hoại của 01 xe mô tô nhãn hiệu Honda, loại xe Wave, màu sơn trắng đen, số máy HC12E2558303, số khung 1208AY058485, BKS 88G1- 181.80 tại thời điểm định giá (tháng 2/2022) là 498.000 đồng”.

8/ Ngày 28/3/2022, Cơ quan CSĐT - Công an tỉnh V yêu cầu Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự tỉnh V định giá thiệt hại đối với tài sản bị thiệt hại của gia đình anh Nguyễn Văn H5. Tại bản Kết luận định giá tài sản số 1165 ngày 27/5/2022, Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự tỉnh V kết luận: “- Giá trị khôi phục lại tình trạng của tài sản trước khi bị hủy hoại, tổng cộng là 1.153.000 đồng. Cụ thể: Cửa kính bị vỡ tại phòng trọ số 06 thời điểm định giá tháng 02/2022 là 447.000đ; Hư hỏng trên 02 cánh cổng cửa sắt thời điểm định giá tháng 02/2022 là 393.000đ; 06 viên ngói ở trên mái cổng bị gãy vỡ thời điểm định giá tháng 02/2022 là 60.000đ; 04 viên gạch ốp trụ cổng bị vỡ thời điểm định giá tháng 02/2022 là 253.000đ”.

- Kết quả xác minh tại Tổ dân phố Đ và UBND thị thấn Bá Hiến, huyện B xác định: Hành vi tập trung đông người, dồn đuổi, chạy đi chạy lại, hô hào, sử dụng hung khí đập phá cổng nhà anh Nguyễn Văn H5, là nơi tập trung đông dân cư, nhà trọ, có nhiều người đi lại đã làm ảnh hưởng xấu đến tình hình an ninh, trật tự, trên địa bàn.

- Đối với Lê Đức H1, sau khi Cơ quan CSĐT - Công an tỉnh V ra Quyết định khởi tố bị can và thi hành Lệnh bắt bị can để tạm giam nhưng bị can H1 đã bỏ trốn, không xác định được H1 ở đâu, làm gì, ngày 27/3/2023, Cơ quan CSĐT - Công an tỉnh V đã ra Quyết định tách vụ án hình sự đối với hành vi của Lê Đức H1, đồng thời ra Quyết định truy nã đối với bị can Lê Đức H1, khi nào bắt được H1 sẽ xử lý sau.

- Đối với Lý Văn V, sinh ngày 16/7/2007 (tên thường gọi là Hoàng C2): Kết quả điều tra xác định: V có hành vi cầm gạch, đá ném vào nhà anh H5, hành vi này của V có dấu hiệu phạm tội Gây rối trật tự công cộng. Tuy vậy, tại thời điểm thực hiện hành vi phạm (ngày 25/02/2022), V mới được 14 tuổi 07 tháng 09 ngày (chưa đủ 16 tuổi) nên hành vi của V chưa đủ tuổi chịu trách nhiệm hình sự.

- Đối với xe mô tô BKS 88G1-181.80, kết quả điều tra xác định chiếc xe này là tài sản hợp pháp của anh Dương Văn T6, sinh năm 1992, trú tại Tổ dân phố T, thị trấn B, huyện B, tỉnh V. Tuy nhiên giá trị thiệt hại không đủ yếu tố cấu thành tội Hủy hoại hoặc Cố ý làm hư hỏng tài sản, bản thân anh T6 cũng không yêu cầu đề nghị bồi thường gì. Ngày 22/6/2022, Cơ quan CSĐT - Công an tỉnh V đã ra Quyết định xử lý vật chứng, trả xe mô tô trên cho anh T6, nhận lại tài sản anh T6 không có đề nghị gì khác.

- Đối với tài sản gia đình anh Nguyễn Văn H5 bị thiệt hại là 1.153.000 đồng (dưới 2.000.000 đồng). Quá trình điều tra, anh H5 không đề nghị các bị cáo trên phải bồi thường dân sự.

- Đối với chiếc cuốc mà bị cáo Nguyễn Văn Q sử dụng làm hung khí đánh anh Vũ Minh H4 đã bị gãy lưỡi cuốc khỏi cán, anh H5 trình bày do không còn nhu cầu sử dụng nên anh H5 không đề nghị Q phải bồi thường và không đề nghị trả lại chiếc cuốc trên, nên cần tịch thu tiêu huỷ.

- Đối với 01 cán cuốc bằng gỗ tre, 01 đoạn gậy gỗ tre, 01 đoạn gậy gỗ, M1 nhựa đầu xe mô tô; 01 lưỡi cuốc cần tịch thu tiêu huỷ.

- Đối với 01 điện thoại di động nhãn hiệu Iphone 6 thu giữ của Nguyễn Tiến Đ, kết quả điều tra xác định: chiếc điện thoại trên là của Đ, Đ không sử dụng vào việc thực hiện hành vi phạm tội. Do vậy cần trả lại Đ, nhưng cần tạm giữ để đảm bảo công tác thi hành án.

* Về trách nhiệm dân sự: Sau khi xảy ra sự việc trên, Vũ Minh H4 yêu cầu Nguyễn Văn Q và Nguyễn Quốc K phải bồi thường số tiền 170.000.000 đồng (mỗi bị cáo là 85.000.000 đồng), đến nay gia đình Nguyễn Văn Q và Nguyễn Quốc K đã bồi thường cho Vũ Minh H4 tổng số tiền là 30.000.000 đồng (gia đình Q = 15.000.000 đồng, gia đình K = 15.000.000 đồng), số tiền còn lại các bị cáo đề nghị bồi thường sau. Ngày 13/6/2022, Vũ Minh H4 có đơn xin giảm nhẹ trách nhiệm hình sự cho Nguyễn Văn Q và Nguyễn Quốc K.

Tại Cáo trạng số 66/VKS-P2 ngày 17/5/2022, Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tỉnh V đã truy tố các bị cáo Nguyễn Văn Q, Nguyễn Quốc K về tội “Giết người” theo quy định tại điểm n khoản 1 Điều 123 Bộ luật Hình sự; truy tố các bị cáo Nguyễn Thành C, Trần Quang L2, Nguyễn Tiến Đ, Đỗ Mạnh H2, Đỗ Xuân H3, Nguyễn Văn H, Trần Đan T2, Nguyễn Văn D1, Vũ Anh T3, Nguyễn Thanh T1, Vũ Minh H4 về tội “Gây rối trật tự công cộng” theo quy định tại điểm b khoản 2 Điều 318 Bộ luật Hình sự.

Tại Bản án hình sự sơ thẩm số 109/2023/HS-ST ngày 29/9/2023, Tòa án nhân dân tỉnh V đã quyết định:

Tuyên bố các bị cáo Nguyễn Văn Q, Nguyễn Quốc K phạm tội “Giết người”.

- Áp dụng điểm n khoản 1 Điều 123; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51, Điều 15; khoản 3 Điều 57 Bộ luật Hình sự. Xử phạt bị cáo Nguyễn Văn Q 11 (Mười một) năm tù, thời hạn tù tính từ ngày bắt tạm giam ngày 26/02/2022.

- Áp dụng điểm n khoản 1 Điều 123; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 15; khoản 3 Điều 57 Bộ luật Hình sự. Xử phạt bị cáo Nguyễn Quốc K 10 (M2) năm tù, thời hạn tù tính từ ngày bắt tạm giam ngày 26/02/2022.

Ngoài ra, Tòa án cấp sơ thẩm còn quyết định về tội danh, hình phạt đối với các bị cáo khác trong vụ án, về trách nhiệm dân sự, về xử lý vật chứng, án phí và thông báo quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.

Sau khi xét xử sơ thẩm, trong các ngày 07, 09/10/2023, các bị cáo Nguyễn Văn Q và Nguyễn Quốc K có đơn kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt.

Tại phiên tòa phúc thẩm, các bị cáo Nguyễn Văn Q, Nguyễn Quốc K thừa nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình như bản án sơ thẩm mô tả; xác định việc Tòa án cấp sơ thẩm xét xử bị cáo về tội “Giết người” theo quy định tại điểm n khoản 1 Điều 123 Bộ luật Hình sự là đúng pháp luật và giữ nguyên nội dung kháng cáo đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Hà Nội sau khi phân tích, đánh giá về nội dung vụ án và các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ, phân tích tính chất, mức độ, hậu quả do hành vi phạm tội của bị cáo gây ra đã xác định: Về tội danh, cơ quan tiến hành tố tụng cấp sơ thẩm đã truy tố, xét xử Nguyễn Văn Q, Nguyễn Quốc K về tội “Giết người” theo quy định tại điểm n khoản 1 Điều 123 Bộ luật Hình sự là đúng pháp luật. Về mức hình phạt, các bị cáo phạm tội thuộc trường hợp phạm tội chưa đạt và ngoài các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự mà Tòa án cấp sơ thẩm đã áp dụng thì trong vụ án này người bị hại có lỗi, là nguyên nhân dẫn đến việc các bị cáo phạm tội; sau khi phạm tội các bị cáo ra đầu thú và đã tác động đến gia đình bồi thường cho bị hại tổng số tiền 30.000.000 đồng nên các bị cáo được hưởng thêm các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự theo quy định tại khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự. Vì vậy, đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận kháng cáo của các bị cáo Nguyễn Văn Q, Nguyễn Quốc K; sửa bản án sơ thẩm theo hướng giảm hình phạt cho cả hai bị cáo từ 06 đến 12 tháng tù.

Luật sư bào chữa cho các bị cáo Nguyễn Văn Q, Nguyễn Quốc K: Luật sư đồng ý với quan điểm của đại diện Viện kiểm sát và đề nghị Hội đồng xét xử xem xét vì mức hình phạt mà Tòa án cấp sơ thẩm đã tuyên đối với các bị cáo là quá nặng, trong khi các bị cáo có tuổi đời còn trẻ, nhân thân tốt. Ngoài ra Tòa án cấp sơ thẩm không xem xét đến các tình tiết các bị cáo phạm tội có lỗi của người bị hại; sau khi phạm tội đã ra đầu thú và tác động gia đình bồi thường khắc phục một phần hậu quả, được bị hại có đơn xin giảm nhẹ hình phạt. Đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận kháng cáo của các bị cáo Nguyễn Văn Q, Nguyễn Quốc K; sửa bản án sơ thẩm theo hướng giảm hình phạt cho các bị cáo xuống mức thấp nhất có thể.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra công khai và kết quả tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Kháng cáo của các bị cáo Nguyễn Văn Q, Nguyễn Quốc K trong thời hạn luật định và hợp lệ, được chấp nhận xem xét, giải quyết theo thủ tục phúc thẩm.

[2] Lời khai nhận tội của các bị cáo Nguyễn Văn Q, Nguyễn Quốc K tại phiên tòa phúc thẩm là phù hợp với chính lời khai của các bị cáo tại cơ quan điều tra và tại phiên tòa sơ thẩm; phù hợp với lời khai của các bị cáo khác trong vụ án, lời khai của những người làm chứng về diễn biến hành vi phạm tội của các bị cáo, về thời gian, không gian, địa điểm nơi xảy ra vụ án; phù hợp với Sơ đồ, bản ảnh hiện trường, vật chứng thu giữ, kết quả nhận dạng, kết quả thực nghiệm điều tra, các kết luận giám định cùng các tài liệu, chứng cứ khác được thu thập hợp pháp có trong hồ sơ vụ án. Do đó, đủ cơ sở xác định:

Do bực tức về việc Trần Văn T chặn xe mô tô và yêu cầu đến gặp để giải quyết mâu thuẫn, Nguyễn Thành C đã gọi điện thoại cho bạn là Nguyễn Thanh T1, Nguyễn Tiến Đ, Nguyễn Văn H, Lê Đức H1 đi đến cổng Khu công nghiệp B thuộc thị trấn B, huyện B, tỉnh V để đánh nhóm Trần Văn T. Vì thế vào hồi 17 giờ ngày 25/2/2022, Nguyễn Văn H gọi điện thoại rủ thêm Đỗ Mạnh H2, Trần Đan T2, Đỗ Xuân H3, Vũ Minh H4, Vũ Anh T3 và Nguyễn Văn D1, Lý Văn V đi cùng. Khi cả nhóm đi đến khu vực trước cổng Nhà văn hóa Tổ dân phố Đ1, thị trấn B, huyện B, tỉnh V thì C, L2 nhìn thấy Nguyễn Văn Q điều khiển xe mô tô đèo Nguyễn Quốc K đi ra cổng Khu Công nghiệp B. Do lầm tưởng Q, K là nhóm của T nên C, Đ điều khiển xe mô tô đuổi theo Q, K để đánh. Q, K điều khiển xe bỏ chạy vào nhà anh Nguyễn Văn H5 ở tổ dân phố Đ, thị trấn B, huyện B, tỉnh V. Khi vào trong nhà anh H5, Q cầm 01 chiếc cuốc cán bằng tre dài 1,25m, đường kính cán là 4,5cm, lưỡi cuốc bằng kim loại có kích thước 18cm x 13 cm, K cầm 02 đoạn gậy tre dài khoảng 1,5m rồi đi ra ngoài cổng nhà anh H5 đứng ở 02 bên rệ đường chờ nhóm của C đi đến để đánh. Khoảng 02 đến 03 phút sau, Vũ Minh H4 điều khiển xe mô tô chạy với vận tốc khoảng 60 - 70km/h, phía sau xe là Trần Đan T2 đi đến cổng nhà anh H5. Q vung cuốc lên cao ngang tầm vai hướng phần lưỡi cuốc về phía trước nhằm vào mặt H4 đập 01 nhát theo chiều từ sau về trước làm phần lưỡi cuốc trúng vào mặt của H4 và mặt nạ phía trước của xe mô tô làm xe mô tô bị đổ văng trượt trên mặt đường 16,10m, H4 và T2 bị ngã trượt theo xe mô tô và bị thương tích (H4 bị thương tích: Vết thương phức tạp kéo dài từ mũi xuống môi dưới. Sang chấn và gãy nhóm răng cửa hàm trên, vỡ xương hàm trên, gãy thành trước và thành ngoài xoang hàm trái, gãy xương chính mũi và vách ngăn mũi, tổn hại 34% sức khoẻ. T2 bị thương tích: xây sát da đùi trái). K cầm gậy chạy đến định đánh tiếp thì H4, T2 vùng dậy bỏ chạy xuống cánh đồng. Q, K đuổi theo H4, T2 để đánh nhưng không đuổi kịp nên quay lại vào nhà anh H5.

Như vậy, Nguyễn Văn Q đã có hành vi sử dụng cuốc là hung khí nguy hiểm bổ phần lưỡi cuốc vào phần mặt, đầu của Vũ Minh H4 trong khi H4 đang điều khiển xe mô tô đi với tốc độ nhanh, đèo Trần Đan T2 ngồi sau là hết sức nguy hiểm, có thể dẫn đến chết người. Việc H4 không chết mà chỉ bị tổn hại 34% sức khỏe là ngoài ý chí chủ quan của Q. Còn Nguyễn Quốc K có hành vi cầm gậy cùng Q đứng chặn đánh H4, T2 khi H4 điều khiển xe mô tô đi đến vị trí cổng nhà anh H5 nên K có vai trò là đồng phạm giúp sức cho Q.

Với các hành vi nêu trên các cơ quan tiến hành tố tụng cấp sơ thẩm đã truy tố, xét xử các bị cáo Nguyễn Văn Q, Nguyễn Quốc K về tội “Giết người” theo quy định tại điểm n khoản 1 Điều 123 của Bộ luật Hình sự là đúng người, đúng tội và đúng pháp luật. Hành vi phạm tội của Nguyễn Văn Q, Nguyễn Quốc K thuộc trường hợp phạm tội chưa đạt theo quy định tại Điều 15 Bộ luật Hình sự.

[3] Hành vi phạm tội của các bị cáo Nguyễn Văn Q, Nguyễn Quốc K là nguy hiểm cho xã hội, thuộc trường hợp đặc biệt nghiêm trọng, đã trực tiếp xâm phạm đến khách thể là tính mạng, sức khỏe người khác. Bản thân các bị cáo là người có đầy đủ năng lực trách nhiệm hình sự, nhận thức rõ về hành vi phạm tội của mình có thể làm nạn nhân chết nhưng vẫn cố ý thực hiện. Do đó, hành vi phạm tội của các bị cáo cần phải được xử lý nghiêm minh trước pháp luật và cần cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời gian tương xứng, như vậy mới có tác dụng giáo dục riêng và phòng ngừa chung.

Tuy nhiên, khi quyết định mức hình phạt cụ thể đối với từng bị cáo, Hội đồng xét xử xét thấy cần xem xét, đánh giá đến các yếu tố, tình tiết sau:

- Về vai trò trong đồng phạm: Bị cáo Q có vai trò chính, trực tiếp gây ra thương tích cho bị hại, còn K có vai trò giúp sức cho Q thực hiện hành vi phạm tội. Vì vậy Q sẽ phải chịu mức hình phạt cao hơn so với K.

- Về nhân thân, bị cáo Q có nhân thân tốt, không có tiền án, tiền sự, đã có thời gian tham gia quân ngũ; bị cáo K trước đây đã từng bị Tòa án nhân dân huyện Mộc Châu, tỉnh Sơn La xử phạt 18 tháng tù về tội “Mua bán trái phép chất ma túy” tại Bản án hình sự sơ thẩm số 10/HS-ST ngày 03/12/2014 nhưng đã được xóa án tích.

- Hành vi phạm tội của các bị cáo thuộc trường hợp phạm tội chưa đạt, vì vậy được áp dụng quy định tại khoản 3 Điều 57 Bộ luật Hình sự khi quyết định mức hình phạt đối với các bị cáo.

- Các bị cáo đều không phải chịu tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự. Quá trình điều tra và tại các phiên tòa, các bị cáo thành khẩn khai báo, tỏ rõ thái độ ăn năn hối cải; người bị hại có đơn xin giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo. Bị cáo Q đã có thời gian tham gia quân ngũ. Do đó, Tòa án cấp sơ thẩm xác định các bị cáo được hưởng các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự theo quy định tại điểm s khoản 1 và khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự (bị cáo Q được hưởng 02 tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự theo quy định tại khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự).

Ngoài ra, xét về diễn biến sự việc xảy ra thì chính hành vi trái pháp luật của người bị hại Vũ Minh H4 cùng nhóm của H4 là nguyên nhân dẫn đến hành vi phạm tội của các bị cáo Q, K. Ngay sau khi vụ án xảy ra, các bị cáo Q, K đã ra đầu thú (tình tiết này đã được nêu rõ trong Kết luận điều tra, Cáo trạng và phần tóm tắt nội dung vụ án của bản án sơ thẩm). Đồng thời, tài liệu hồ sơ còn thể hiện gia đình các bị cáo đã bồi thường cho bị hại Vũ Minh H4 tổng số tiền 30.000.000 đồng (gia đình mỗi bị cáo bồi thường 15.000.000 đồng). Do đó, các bị cáo Q, K còn được hưởng thêm 03 tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự theo quy định tại khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự. Khi giải quyết vụ án, Tòa án cấp sơ thẩm không xem xét, đánh giá, nhận định gì về các tình tiết nêu trên, là có thiếu sót, không đảm bảo quyền lợi cho các bị cáo.

Đánh giá khách quan, toàn diện các yếu tố nêu trên, đồng thời trên cơ sở nguyên tắc xử lý khoan hồng, nhân đạo của pháp luật, Hội đồng xét xử xét thấy việc tạo điều kiện, cơ hội cho các bị cáo được cải tạo, sửa chữa lỗi lầm, sớm được trở lại với xã hội để trở thành công dân tốt là cần thiết. Do đó, kháng cáo của các bị cáo và đề nghị của Luật sư, đại diện Viện kiểm sát tại phiên tòa về việc sửa bản án sơ thẩm, giảm nhẹ một phần hình phạt cho các bị cáo là có cơ sở, được chấp nhận.

[4] Về án phí: Do kháng cáo được chấp nhận nên các bị cáo Nguyễn Văn Q, Nguyễn Quốc K không phải chịu án phí hình sự phúc thẩm.

[5] Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

Vì các lẽ trên, căn cứ vào điểm b khoản 1 và khoản 2 Điều 355, điểm c khoản 1 Điều 357 Bộ luật Tố tụng hình sự; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án;

QUYẾT ĐỊNH

1. Chấp nhận kháng cáo của các bị cáo Nguyễn Văn Q, Nguyễn Quốc K; Sửa Bản án hình sự sơ thẩm số 109/2023/HS-ST ngày 29 tháng 9 năm 2023 của Tòa án nhân dân tỉnh V về phần hình phạt đối với các bị cáo Nguyễn Văn Q, Nguyễn Quốc K, cụ thể như sau:

Tuyên bố các bị cáo Nguyễn Văn Q, Nguyễn Quốc K phạm tội “Giết người”.

- Áp dụng điểm n khoản 1 Điều 123; điểm s khoản 1 và khoản 2 Điều 51; Điều 38; Điều 15; khoản 3 Điều 57 Bộ luật Hình sự.

Xử phạt bị cáo Nguyễn Văn Q 10 (M2) năm tù, thời hạn tù tính từ ngày bắt tạm giam ngày 26/02/2022.

- Áp dụng điểm n khoản 1 Điều 123; điểm s khoản 1 và khoản 2 Điều 51; Điều 38; Điều 15; khoản 3 Điều 57 Bộ luật Hình sự.

Xử phạt bị cáo Nguyễn Quốc K 09 (C3) năm tù, thời hạn tù tính từ ngày bắt tạm giam ngày 26/02/2022.

2. Về án phí: Các bị cáo Nguyễn Văn Q và Nguyễn Quốc K không phải chịu án phí hình sự phúc thẩm.

3. Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

4. Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

180
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội giết người số 219/2024/HS-PT

Số hiệu:219/2024/HS-PT
Cấp xét xử:Phúc thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân cấp cao
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 18/03/2024
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về