TÒA ÁN NHÂN DÂN CẤP CAO TẠI ĐÀ NẴNG
BẢN ÁN 194/2023/HS-PT NGÀY 16/06/2023 VỀ TỘI GIẾT NGƯỜI
Ngày 16 tháng 6 năm 2023, tại Điểm cầu trung tâm trụ sở Tòa án nhân dân cấp cao tại Đà Nẵng kết nối điểm cầu thành phần trụ sở Toà án nhân dân tỉnh Quảng Nam mở phiên tòa xét xử công khai trực tuyến vụ án hình sự phúc thẩm thụ lý số 216/2023/TLPT-HS ngày 09 tháng 5 năm 2023 đối với bị cáo Trần Duy T do có kháng cáo của bị cáo đối với Bản án hình sự sơ thẩm số 21/2023/HS-ST ngày 27 tháng 3 năm 2023 của Tòa án nhân dân tỉnh Quảng Nam.
Bị cáo có kháng cáo:
Họ và tên: Trần Duy T, sinh năm 1975 tại huyện T, tỉnh Quảng Nam; nơi đăng ký HKTT và chỗ ở hiện nay: Thôn F, xã T, huyện T, tỉnh Quảng Nam; nghề nghiệp: Nông; trình độ văn hóa: Lớp 9/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Trần Duy Đ (Đã chết) và bà Nguyễn Thị H, sinh năm 1947; bị cáo có vợ là Võ Thị L, sinh năm 1981 và có 04 con (con lớn nhất sinh năm 2008, con nhỏ sinh năm 2015); tiền án, tiền sự: Không.
Bị cáo bị bắt tạm giam từ ngày 14/7/2022; hiện đang bị tạm giam tại Trại tạm giam Công an tỉnh Quảng Nam. Có mặt.
- Người bào chữa cho bị cáo Trần Duy T theo yêu cầu của cơ quan tiến hành tố tụng: Luật sư Phạm Xuân L1 – Văn phòng L3, thuộc Đoàn Luật sư tỉnh Quảng Nam; Vắng mặt.
- Người bào chữa cho bị cáo theo yêu cầu của gia đình bị cáo: Luật sư Võ Tấn T1 – Công ty L4, thuộc Đoàn Luật sư tỉnh Bình Dương. Có đơn đề nghị xét xử vắng mặt.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Vào năm 2006, Trần Duy T mua lại mảnh đất ruộng của anh Trần Văn T2 (sinh năm 1970; trú tại: Thôn F, xã T, huyện T, tỉnh Quảng Nam) tại thửa đất số 590, tờ bản đồ số 01-LN, khu vực Hố Ông N thuộc Thôn F, xã T, huyện T, tỉnh Quảng Nam. Mảnh đất của T tiếp giáp với mảnh đất của anh Trần Duy M (em ruột của T; sinh năm 1981; trú cùng thôn), vị trí tiếp giáp có một bờ đất.
Vào sáng ngày 12/3/2022, Trần Duy T đến khu vực bờ đất để đào và sửa lại các trụ bờ rào tại phần đất ruộng của T tiếp giáp với phần đất của anh M. Lúc này, anh Đặng Văn L2 (sinh năm: 1981; trú tại: Thôn B, xã T, huyện T) được anh M thuê múc đất làm ao tại khu vực đất gần ranh giới tranh chấp. Khoảng 09 giờ cùng ngày, anh M đến và yêu cầu T không được đào trụ làm hàng rào trên phần đất mà anh M cho rằng là đất của M nhưng T không đồng ý nên anh M đi mời anh Trần Văn T2 đến để làm chứng phân định rõ ranh giới đất. Sau khi anh T2 đến thì anh T2 có nói với hai anh em: “Có chút đất mà anh em giành cái chi, có chi kêu Công an, Địa chính giải quyết”, thì lúc này anh M yêu cầu anh Lê n làm rồi cãi nhau với T. Sau đó, anh M đứng trên bờ đất nói với T: “Bờ ruộng ni của tôi, tại răng anh lại trồng cây trụ rào vô đó” và cúi người xuống đẩy, nhổ 01 (một) cây trụ mà T đã trồng. T đang đứng dưới bờ đất, cách vị trí anh M đang cúi người nhổ cây trụ gỗ theo phương tịnh tiến thẳng đứng là 1,5m đến 2m và T nói: “Ai biểu mi nhổ cây trụ của ta”, đồng thời dùng hai tay cầm cái cuốc (loại cuốc bàn, phần cán cây tre dài 1,57m, chỗ lớn nhất có đường kính 4,2cm, chỗ nhỏ nhất có đường kính 2,3cm, phần lưỡi bằng kim loại, chỗ rộng nhất 20,5cm, chỗ hẹp nhất 18cm) đưa lên, đánh mạnh một cái theo hướng vòng từ sau ra trước, từ phải sang trái trúng vào vùng đầu của anh M gây thương tích chảy máu, làm anh M ngã xuống bờ đất. Thấy vậy, anh T2 và anh L2 chở anh M đi đến Trạm Y tế xã T để sơ cứu, sau đó anh M được chuyển đến Bệnh viện Đa khoa tỉnh Quảng Nam cấp cứu, điều trị; đến ngày 28/3/2022 thì xuất viện.
Sau khi sự việc xảy ra thì Công an xã T, huyện T đã đến ghi nhận sự việc, đồng thời tạm giữ các vật chứng để bàn giao cho Cơ quan CSĐT Công an huyện T quản lý, cụ thể như sau:
- 01 (một) đôi ủng màu xám - xanh, kiểu rằn ri, có bám dính nhiều đất, đã qua sử dụng;
- 01 (một) cái mũ lưỡi trai màu xám - xanh, kiểu rằn ri; phía bên trái phần mũ bao quanh đầu, tại vị trí cách le mũ 7cm có một vết rách vải sắc cạnh;
- 01 (một) cái cuốc bàn; cán tre dài 1,57m, đường kính cán lớn nhất 4,2cm, nhỏ nhất 2,3cm; lưỡi cuốc bằng kim loại, bản cuốc rộng nhất 20,5cm, hẹp nhất 18cm, phía cạnh bên trái có dấu vết chà xát nhẵn mịn hình tam giác kích thước các cạnh lần lượt là 7cm, 5cm, 3,5cm.
* Tại Bản giám định thương tích số: 136/GĐTT.22, ngày 12/4/2022 của Trung tâm Pháp y tỉnh Quảng Nam và kết luận tỷ lệ thương tích của anh Trần Duy M như sau:
- Thương tích chi tiết Vùng đỉnh - thái dương - chẩm trái có vết rách da và cơ đã lành sẹo dài 7,5cm, rộng 0,1cm. Vết thương do vật tày có cạnh tác động gây nên, lực tác động rất mạnh. Hướng từ trên xuống dưới, từ trái sang phải. Bệnh nhân tỉnh, tiếp xúc được, còn đau đầu, chóng mặt. Tay, chân vận động gấp, duỗi và đi lại được bình thường. Khuyết sọ vùng đỉnh - thái dương trái dài 8cm, rộng 5cm, tổ chức não dập nhẹ dưới da đầu tại chỗ khuyết sọ.
Vùng đỉnh - thái dương - chẩm bên trái có vết mổ hình vòng cung đã lành sẹo dài 20cm, rộng 0,1cm.
Vùng đỉnh trái có vết mổ dẫn lưu đã lành sẹo dài 0,8cm, rộng 0,5cm.
- Kết luận:
Tổn thương chủ yếu hiện tại còn thấy được ở trên bệnh nhân là vết rách da, cơ và vết mổ như đã nêu ở trên.
Chấn thương sọ não gây vỡ xương hộp sọ vùng đỉnh thái dương bên trái, tụ máu dưới màng cứng đã được phẫu thuật gặm bỏ sọ lún và lấy máu tụ ngoài màng cứng tạm ổn. Hiện tại khuyết sọ vùng đỉnh - thái dương trái dài 8cm, rộng 5cm, tổ chức não đập nhẹ dưới da đầu tại chỗ khuyết sọ.
Không thấy dấu hiệu thần kinh khu trú.
Hiện tại bệnh nhân còn đau đầu, chóng mặt nhất là khi thay đổi thời tiết và thay đổi tư thế.
Theo giải phẫu học, vùng đầu là vùng trọng yếu vì liên quan tương ứng giải phẫu bên trong hộp sọ là tổ chức não. Trong trường hợp này vết thương vùng đỉnh thái dương chẩm trái gây vỡ xương hộp sọ, tụ máu dưới màng cứng nếu không được cấp cứu điều trị kịp thời thì có khả năng nguy hiểm đến tính mạng vì máu tụ dưới màng cứng tăng dần lên dẫn đến chèn ép não, tổn thương não thì hậu quả rất khó lường.
Tỷ lệ thương tích 31% (ba mươi mốt phần trăm).
* Về dân sự: quá trình điều tra Cơ quan CSĐT Công an tỉnh Quảng Nam chưa làm việc được với bị hại Trần Duy M về phần yêu cầu bồi thường dân sự do bị hại không có mặt tại địa phương. Quá trình truy tố, anh Trần Duy M có gửi đơn trình bày đến Cơ quan CSĐT Công an tỉnh Quảng Nam thống kê tổng chi phí điều trị là 110.000.000 đồng gồm tiền thuốc men 50.000.000 đồng và chi phí đi lại 60.000.000 đồng kèm các tài liệu chứng từ liên quan.
Qua quá trình điều tra, truy tố bị cáo Trần Duy T đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình phù hợp với các chứng cứ, tài liệu mà Cơ quan điều tra đã thu thập được, phù hợp với kết quả thực nghiệm điều tra.
Tại Bản án hình sự sơ thẩm số 21/2023/HS-ST ngày 27 tháng 3 năm 2023 của Toà án nhân dân tỉnh Quảng Nam đã quyết định:
Về trách nhiệm hình sự: Tuyên bố bị cáo Trần Duy T phạm tội “Giết người”. Áp dụng: điểm n khoản 1 Điều 123; điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51;
Điều 15; khoản 3 Điều 57; khoản 1 Điều 54 của Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017).
Xử phạt: Bị cáo Trần Duy T 07 (B) năm tù; thời hạn chấp hành hình phạt tù được tính từ ngày bị bắt tạm giam (ngày 14/7/2022).
Ngoài ra, Bản án sơ thẩm còn tuyên về phần trách nhiệm dân sự, về xử lý vật chứng, về án phí và thông báo về quyền kháng cáo.
Ngày 31/3/2023, bị cáo Trần Duy T kháng cáo giảm hình phạt.
Tại phiên tòa phúc thẩm bị cáo thừa nhận hành vi phạm tội như Tòa án cấp sơ thẩm đã quy kết nhưng giữ nguyên nội dung kháng cáo và đề nghị Hội đồng xét xử phúc thẩm giảm hình phạt cho bị cáo. Luật sư bào chữa cho bị cáo có văn bản đề nghị Hội đồng xét xử phúc thẩm xem xét loại bỏ tình tiết định khung hình phạt “Có tính chất côn đồ” và giảm hình phạt cho bị cáo.
Đại diện Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Đà Nẵng phát biểu quan điểm giải quyết vụ án và đề nghị Hội đồng xét xử phúc thẩm không chấp nhận kháng cáo của bị cáo, giữ nguyên bản án hình sự sơ thẩm.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra, xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1] Về thủ tục tố tụng: Các hành vi, quyết định tố tụng trong quá trình điều tra, truy tố xét xử sơ thẩm, đã được cơ quan và người tiến hành tố tụng thực hiện đúng thẩm quyền, trình tự, thủ tục theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự, không có ý kiến khiếu nại. Bị cáo có đơn kháng cáo trong thời hạn luật định nên được xem xét theo quy định của pháp luật. Tại phiên toà phúc thẩm hôm nay, bị cáo từ chối luật sư chỉ định và đề nghị Hội đồng xét xử tiếp tục tiến hành giải quyết vụ án. Do vậy, Hội đồng xét xử quyết định xét xử vụ án theo quy định pháp luật.
[2] Xét kháng cáo của bị cáo: Tại phiên toà hôm nay, bị cáo đã thừa nhận hành vi phạm tội của mình, những lời khai nhận của bị cáo là phù hợp với biên bản khám nghiệm hiện trường, biên bản thực nghiệm điều tra, vật chứng thu giữ, kết luận giám định khoa học hình sự, lời khai của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan, người làm chứng và các chứng cứ khác, Hội đồng xét xử có đủ cơ sở kết luận: Xuất phát từ mâu thuẫn về tranh chấp đất đai với em trai ruột của mình chưa được giải quyết, lẽ ra bị cáo Trần Duy T phải có cách xử sự phù hợp, đúng pháp luật nhưng bị cáo lại có hành vi dùng cái cuốc đánh vào phần đầu của anh Trần Duy M, gây thương tích với tỷ lệ 31%. Bị cáo nhận thức được việc dùng cái cuốc, có lưỡi bằng kim loại là hung khí nguy hiểm đánh vào vùng đầu là vùng trọng yếu trên cơ thể con người có thể gây ra khả năng chết người rất cao, nhưng bị cáo lại bất chấp và bỏ mặc cho hậu quả xảy ra, thể hiện tính côn đồ; việc bị hại Trần Duy M bị thương tích mà không chết là do được cấp cứu kịp thời và nằm ngoài ý muốn của bị cáo. Vì vậy, với hành vi và hậu quả nêu trên của bị cáo Trần Duy T đã phạm vào tội “Giết người” với tình tiết định khung “Có tính chất côn đồ” theo quy định tại điểm n khoản 1 Điều 123 của Bộ luật Hình sự năm 2015 như nhận định của Toà án cấp sơ thẩm là đúng người, đúng tội, đúng pháp luật. Do đó, luận cứ của người bào chữa về đề nghị loại bỏ tình tiết định khung hình phạt “Có tính chất côn đồ” là không có cơ sở chấp nhận.
[3] Bị cáo là người có đủ năng lực hành vi, năng lực pháp luật để hiểu, nhận thức về điều đó, nhưng do xem thường quy định của pháp luật, quyền được sống của người khác, từ những mâu thuẫn về đất đai với em ruột của mình, lẽ ra bị cáo phải có cách xử sự phù hợp, đúng pháp luật nhưng trong lúc nóng nảy, bị cáo đã dùng cái cuốc là hung khí nguy hiểm đánh vào vùng đầu của bị hại, bất chấp và bỏ mặt hậu quả xảy ra. Hành vi phạm tội của bị cáo là đặc biệt nguy hiểm cho xã hội, gây bất bình trong quần chúng nhân dân, làm xấu đi tình hình trật tự xã hội ở địa phương nên cần áp dụng mức hình phạt nghiêm, tương xứng với mức độ và hậu quả do hành vi phạm tội gây ra.
Bị cáo có nhân thân tốt, không có tiền án, tiền sự; trong quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải; tác động gia đình tới thăm hỏi và bồi thường cho bị hại nhưng bị hại không đồng ý nhận nên gia đình bị cáo đã tới Cơ quan thi hành án dân sự nộp số tiền 15 triệu đồng để khắc phục hậu quả; bị cáo trước đây làm Trưởng thôn và có nhiều thành tích trong phong trào thi đua, hoàn thành tốt nhiệm vụ công tác, được UBND huyện T tặng Giấy khen (năm 2020-2021); ngoài ra, gia đình bị cáo được Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng tặng Bảng gia đình vẻ vang chống Mỹ cứu nước; cha của bị cáo là ông Trần Duy Đ được Hội đồng nhà nước tặng Huân chương kháng chiến hạng Nhất, được tặng Huy hiệu 60 năm tuổi Đảng và UBND xã T xác định bị cáo là lao động duy nhất với 06 nhân khẩu; tại phiên toà, người bị hại xin giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo. Do vậy, Toà án cấp sơ thẩm áp dụng các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51 của Bộ luật Hình sự để xem xét giảm nhẹ khi quyết định hình phạt. Đồng thời, hành vi phạm tội của bị cáo thuộc trường hợp phạm tội chưa đạt (bị hại bị thương tích 31 %) nên khi quyết định hình phạt bị cáo còn được áp dụng Điều 15; khoản 3 Điều 57 Bộ luật Hình sự năm 2015. Do bị cáo được hưởng 03 tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự nên Toà án cấp sơ thẩm áp dụng Điều 54 Bộ luật Hình sự, xử bị cáo dưới mức thấp nhất của khung hình phạt mà điều luật quy định là phù hợp, đúng quy định pháp luật.
[4] Tại phiên tòa phúc thẩm, bị cáo không có thêm tình tiết mới, nên Hội đồng xét xử xét thấy không có cơ sở để chấp nhận nội dung kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt của bị cáo và ý kiến đề nghị của Luật sư bào chữa cho bị cáo. Quan điểm của đại diện Viện kiểm sát phát biểu tại phiên tòa là có căn cứ và phù hợp với nhận định của Hội đồng xét xử nên được chấp nhận.
[5] Về án phí: Do kháng cáo của bị cáo không được chấp nhận nên bị cáo phải chịu án phí hình sự phúc thẩm theo quy định.
[6] Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, không bị kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.
Vì các lẽ trên;
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ vào điểm a khoản 1 Điều 355, Điều 356 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015.
1. Không chấp nhận kháng cáo của bị cáo Trần Duy T. Giữ nguyên Bản án hình sự sơ thẩm số 21/2023/HS-ST ngày 27 tháng 3 năm 2023 của Toà án nhân dân tỉnh Quảng Nam.
Áp dụng: điểm n khoản 1 Điều 123; điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 15; khoản 3 Điều 57; khoản 1 Điều 54 của Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017).
Xử phạt: Bị cáo Trần Duy T 07 (B) năm tù về tội “Giết người”; thời hạn chấp hành hình phạt tù được tính từ ngày bị bắt tạm giam (ngày 14/7/2022).
2. Án phí phúc thẩm: Áp dụng điểm b khoản 2 Điều 23 Nghị quyết 326/2016/NQ-UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội về án phí và lệ phí Tòa án.
Bị cáo Trần Duy T phải chịu 200.000 đồng tiền án phí hình sự phúc thẩm.
3. Các quyết định khác của Bản án hình sự sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật và được thực hiện theo quyết định của Bản án hình sự sơ thẩm số 21/2023/HS-ST ngày 27 tháng 3 năm 2023 của Toà án nhân dân tỉnh Quảng Nam.
Bản án về tội giết người số 194/2023/HS-PT
Số hiệu: | 194/2023/HS-PT |
Cấp xét xử: | Phúc thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân cấp cao |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 16/06/2023 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về