TÒA ÁN NHÂN DÂN CẤP CAO TẠI THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
BẢN ÁN 176/2022/HSPT NGÀY 13/04/2022 VỀ TỘI GIẾT NGƯỜI
Ngày 13 tháng 04 năm 2022, tại trụ sở Tòa án nhân dân cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh xét xử phúc thẩm vụ án hình sự thụ lý số: 614/2021/TLPT-HS ngày 31 tháng 12 năm 2021 đối với bị cáo Hoàng Trọng D, do có kháng cáo của bị cáo và đại diện hợp pháp của bị hại là bà Trần Thị S (mẹ ruột), đối với Bản án hình sự sơ thẩm số: 242/2021/HS-ST ngày 24 tháng 11 năm 2021 của Toà án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh.
Bị cáo có kháng cáo:
Hoàng Trọng D, sinh năm 1983; tại Thành phố Hồ Chí Minh;
Thường trú: C39A Ấp M 2, xã X, huyện H, Thành phố Hồ Chí Minh; tạm trú: B69/13C đường N, ấp M 2, xã X, huyện H, Thành phố Hồ Chí Minh; nghề nghiệp: Buôn bán; trình độ học vấn: 12/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Hoàng Văn K và bà Đinh Thị T; bị cáo có vợ là Trần Thị Mai L và có 03 con lớn sinh năm 2013, nhỏ nhất sinh ngày 21/5/2021; tiền án, tiền sự: Không;
Bị cáo bị bắt giam từ ngày 25/11/2020 (có mặt). Bị hại: Anh Trần Ngọc Q, sinh năm 1973 (chết) Đại diện hợp pháp của bị hại: Bà Trần Thị S (mẹ ruột), sinh năm 1950;
Thường trú: 172A/T3 Tổ 15, Khu phố 1, phường T, Quận 12, Thành phố Hồ Chí Minh; chỗ ở: 38/2 Tổ 14, M 1, xã T, huyện H, Thành phố Hồ Chí Minh (có mặt)
Người bào chữa cho bị cáo: Bà Nguyễn Thị Xuân Hương, luật sư của Trung tâm tư vấn pháp luật cho người nghèo, thuộc Hội bảo trợ tư pháp cho người nghèo Việt Nam tại Thành phố Hồ Chí Minh (có mặt).
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Hoàng Trọng D và anh Trần Ngọc Q trước đây có mâu thuẫn với nhau trong việc chơi cờ tướng. Vào khoảng 09 giờ 15 phút ngày 25/11/2020, khi D điều khiển xe gắn máy hiệu Airblade màu đen, biển số 59Y1-308.53 lưu thông đi ngang qua quán cà phê Mario, địa chỉ số 1473/1 Tổ 79, Khu phố 3, phường T, Quận 12 thì nhìn thấy anh Q nên đến nói chuyện rồi xảy ra cự cãi. D dùng tay phải đấm vào mặt anh Q một cái, sau đó lên xe định bỏ đi thì anh Q đứng chặn trước đầu xe. Thấy vậy, D xuống xe và lấy từ dưới yên xe gắn máy một con dao bầu (có kích thước dài 34,5cm, lưỡi dao bằng kim loại màu trắng dài 19cm, dạng hình bầu dục, mũi nhọn, bản lưỡi chỗ rộng nhất là 7,5cm), cầm trên tay phải, xông đến đâm một nhát trúng vào ngực trái của anh Q. Anh Q bỏ chạy vào tiệm may Thu Hiền địa chỉ số 760B Tổ 71, Khu phố 3, phường T, Quận 12 thì D đuổi theo thấy anh Q bị ngã ngồi xuống đất, liền cầm con dao bầu trên tay phải đâm anh Q vào vùng lưng bên phải hai nhát chém vào vùng gáy bên trái một nhát. Anh Q quay người bỏ chạy, D tiếp tục chém từ trên xuống, trúng vào bàn tay phải và đâm một nhát vào cổ tay phải của anh Q. Sau khi bị đâm chém nhiều nhát, anh Q bỏ chạy ra khỏi tiệm may, đến trước nhà số 316A Tổ 78, Khu phố 3, phường T, Quận 12 thì gục xuống tử vong. Khi thấy anh Q gục xuống, D quay lại quán cà phê lấy xe gắn máy hiệu Airblade màu đen đi về nhà, thay quần áo, rửa sạch con dao rồi đến Công an phường T, Quận 12 đầu thú và giao nộp con dao.
Kết luận giám định pháp y tử thi số 1995-20/KLGĐ-PY ngày 21/12/2020 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an Thành phố Hồ Chí Minh kết luận nguyên nhân chết của anh Trần Ngọc Q: “Do vết thương đâm thủng tĩnh mạch cảnh trong bên trái”.
Kết luận giám định pháp y bổ sung số 1972-21/KLGĐ-PY ngày 19/5/2021 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an Thành phố Hồ Chí Minh giải thích pháp y về hung khí và cơ chế hình thành các thương tích trên người nạn nhân Trần Ngọc Q: Vết thương ngực trái tại đầu trong xương đòn trái, do vật sắc nhọn gây ra theo cơ chế đâm, là nguyên nhân gây ra tử vong. Con dao dài 34,5cm, lưỡi dao bằng kim loại màu trắng 19cm, dạng hình bầu dục, mũi nhọn, bản lưỡi chỗ rộng nhất là 7.5cm là vật sắc nhọn, có thể gây ra được các vết thương trên người nạn nhân Trần Ngọc Q.
Tại Cơ quan Cảnh sát điều tra, Hoàng Trọng D đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội như đã nêu trên.
Vật chứng vụ án:
- 01 chiếc xe gắn máy hiệu Honda Airblade đen, xám biển số 59Y1- 308.53, số máy JF27E1408746, số khung RLHJF2708BY340733 do Hoàng Trọng D là chủ sở hữu.
- 01 con dao dài 34,5cm, lưỡi dao bằng kim loại màu trắng dài 19cm, dạng hình bầu dục, mũi nhọn, bãn lưỡi chỗ rộng nhất là 7,5cm.
- 01 túi nilon màu đen đựng con dao sau khi gây án.
- 02 nón bảo hiểm (một cái màu xám có chữ Andes Helmets, một cái màu xám) - 01 đôi giày bata màu xanh đen, có chữ Vento màu xanh.
- 01 cái áo - 01 cái quần - 01 đôi dép nhựa màu xám
- 01 nón lưỡi trai bằng vải màu đen.
Về trách nhiệm dân sự: Tại Cơ quan điều tra và trước phiên tòa sơ thẩm, gia đình Hoàng Trọng D tự nguyện khắc phục thiệt hại cho gia đình anh Q số tiền 230.000.000 đồng. Bà S có đơn xin giảm nhẹ hình phạt cho Hoàng Trọng D.
Tại Bản án hình sự sơ thẩm số: 242/2021/HS-ST ngày 24/11/2021 của Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh đã quyết định:
Căn cứ điểm n khoản 1 Điều 123; điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 39 của Bộ luật hình sự năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017;
Xử phạt: Bị cáo Hoàng Trọng D tù chung thân tội “Giết người”. Thời hạn tù tính từ ngày 25/11/2020.
Ngoài ra bản án còn tuyên về trách nhiệm dân sự, xử lý vật chứng, án phí và quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.
Sau khi xét xử sơ thẩm, ngày 30/11/2021 bị cáo D kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt; ngày 29/11/2021 bà Trần Thị S đại diện hợp pháp của bị hại (mẹ ruột) kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo D.
Trong phần tranh luận tại phiên tòa phúc thẩm, đại diện Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh có quan điểm như sau: Chỉ vì mâu thuẫn nhỏ trong quá trình chơi cờ tướng, nhưng bị cáo đã cố tình dùng dao đâm bị hại nhiều nhất, dẫn đến bị hại tử vong, Tòa án cấp sơ thẩm xét xử bị cáo về tội: “Giết người” theo điểm n khoản 1 Điều 123 Bộ luật hình sự và áp dụng đầy đủ các tình tiết giảm nhẹ, xử phạt bị cáo tù chung thân là phù hợp. Tuy nhiên tại cấp phúc thẩm, bị cáo và đại diện hợp pháp bị hại cung cấp tài liệu, chứng cứ mới có thể xem là căn cứ giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo. Cụ thể, bị cáo có hoàn cảnh đặc biệt khó khăn, sau khi xét xử sơ thẩm gia đình bị cáo tiếp tục hỗ trợ thêm 50.000.000 đồng, làm giảm bớt khó khăn cho gia đình bị hại; bà Trần Thị S là đại diện bị hại làm đơn tha thiết xin giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo. Từ những căn cứ mới nêu trên, đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt xuống cho bị cáo hưởng mức án 20 năm tù; cho bị cáo có cơ hội trở về lo cho gia đình và có điều kiện chăm lo cho gia đình bị hại, đồng thời cũng thể hiện được sự khoan hồng của pháp luật.
Người bào chữa cho bị cáo, nhất trí với quan điểm của đại diện Viện kiểm sát, đề nghị Hội đồng xét xử căn cứ vào tài liệu mới, giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.
Đại diện hợp pháp gia đình bị hại bà Trần Thị S trình bày: Qua tìm hiểu, bà S biết được bị hại con của bà cũng có phần lỗi, bị hại xúc phạm gia đình, cha mẹ bị cáo nên bị cáo mới nóng giận không kìm chế, dẫn đến hành động giết người; hoàn cảnh gia đình bị cáo quá khó khăn, bị cáo là lao động chính, cha mẹ già yếu bệnh tật, phải nuôi 3 con nhỏ trong đó có đứa lớn nhất bị bệnh tự kỉ nặng, đứa nhỏ mới sinh 5 tháng tuổi, nếu bị cáo phải chịu mức án chung thân thì các con của bị cáo phải xa cha quá lâu, dẫn tới thiếu sự quan tâm, giáo dục của người cha; hơn nữa, bị cáo tác động gia đình tự nguyện đến nhà lo ma chay, bồi thường tổn thất tinh thần đầy đủ, nay người nhà bị cáo vẫn thường xuyên qua lại, thay mặt cho bị cáo quan tâm, động viên tinh thần và tự nguyện bồi thường thêm. Bà nhận thấy bị cáo thật sự hối hận, tha thiết xin gia đình bà tha thứ, dù sao con trai của bà cũng đã mất nên bà đề nghị Hội đồng xét xử cho bị cáo được hưởng mức án 15 năm tù, để bị cáo sớm về lo cho các con nhỏ dại, bệnh tật.
Bị cáo nhất trí lời bào chữa của luật sư cho bị cáo, không tham gia tranh tụng. Bị cáo có lời nói sau cùng bị cáo rất hối hận về hành vi của mình, mong gia đình bị hại tha thứ cho bị cáo, bị cáo xin Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo, để bị cáo sớm được trở về lo cho gia đình và chuộc lỗi, bù đắp cho gia đình của bị hại.
NHẬN ĐỊNH CỦA HỘI ĐỒNG XÉT XỬ
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
- Đơn kháng cáo của bị cáo Hoàng Trọng D, đại diện hợp pháp bị hại bà Trần Thị S (mẹ ruột của bị hại) đúng luật định, nên được xem xét theo trình tự phúc thẩm.
[1]. Từ mâu thuẫn nhỏ trong khi chơi cờ tướng, bị cáo D dùng tay đấm vào mặt của bị hại Q; sau đó, bị cáo D dùng dao đâm nhiều nhát trên người bị hại, dẫn đến bị hại tử vong. Tòa án cấp sơ thẩm quy kết bị cáo phạm tội: “Giết người” là đúng người, đúng tội.
[2]. Hành vi phạm tội của bị cáo D rất nguy hiểm cho xã hội, chỉ vì một mâu thuẫn nhỏ trong quá trình chơi cờ tướng, hai bên gặp và cãi nhau, bị cáo dùng tay đấm vào mặt của bị hại và khi bị hại chặn đầu xe, bị cáo tiếp tục lấy con dao để sẳn dưới yên xe Hon da, đâm một nhát vào vùng ngực trái của bị hại. Như vậy, bị cáo D đã có sự chuẩn bị hung khí từ trước, là phạm tội có tính chất côn đồ theo quy định tại điểm n khoản 1 Điều 123 của Bộ luật hình sự năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017. Khi bị hại bỏ chạy, bị cáo không dừng lại mà rượt theo đâm, chém nhiều nhát vào vùng lưng, gáy bên trái, bàn tay phải và cổ tay phải của bị hại, dẫn đến bị hại tử vong, bị cáo cố tình thực hiện tội phạm đến cùng là tình tiết tăng nặng được quy định tại điểm e khoản 1 Điều 52 Bộ luật hình sự năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017. Xét tính chất, mức độ hành vi phạm tội của bị cáo, Tòa án cấp sơ thẩm đã áp dụng các tình tiết giảm nhẹ tại điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51 của Bộ luật hình sự năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017, xử phạt bị cáo D tù chung thân là phù hợp.
[3]. Tại phiên tòa phúc thẩm, bị cáo D và đại diện hợp pháp của gia đình bị hại đã cung cấp thêm tài liệu thể hiện bị cáo là lao động chính trong gia đình, đang phải nuôi cha mẹ già yếu, 3 con nhỏ, trong đó có một con bị tự kỉ; dù hoàn cảnh đặc biệt khó khăn, bị cáo vẫn tác động gia đình tiếp tục hỗ trợ thêm một phần tiền cho phía bị hại, nhằm khắc phục những khó khăn trước mắt cho gia đình bị hại. Bà S là mẹ của bị hại có đơn kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo và sau đó tiếp tục gửi đơn khẩn cầu Hội đồng xét xử xem xét cho bị cáo hưởng mức án nhẹ hơn mức án sơ thẩm tuyên phạt. Bà cũng trình bày gia đình bà hoàn toàn tha thứ cho hành động của bị cáo bởi vì thực tế thì con trai bà cũng có một phần lỗi dẫn tới hành động giết người của bị cáo, bị cáo đã thực sự ăn năn hối cải, bồi thường và bù đắp tổn thất tinh thần cho phía gia đình bà, xét tới tính nhân văn của pháp luật, bà tha thiết đề nghị Hội đồng xét xử cho bị cáo được hưởng mức án 15 năm tù để bị cáo sớm trở về, có trách nhiệm với gia đình, con nhỏ; đề nghị của bà là hoàn toàn tự nguyện, thể hiện lòng vị tha của gia đình bị hại đối với bị cáo. Hội đồng xét xử xét thấy ngoài các tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51 của Bộ luật hình sự mà tòa án cấp sơ thẩm đã áp dụng, có thể áp dụng thêm các tình tiết giảm nhẹ: dù lời nói của bị hại chưa đến mức để bị cáo thực hiện hành vi giết người nhưng lời nói xúc phạm tới bị cáo và cha mẹ bị cáo cũng tạo ra phản ứng kích động tinh thần bị cáo dẫn tới hành vi trái pháp luật; bị cáo tác động gia đình tự nguyện bồi thường thêm số tiền 50.000.000đ ngoài số tiền 230.000.000đ đã bồi thường tại cấp sơ thẩm; đồng thời cân nhắc, xem xét đơn kháng cáo và yêu cầu tha thiết xin giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo của đại diện hợp pháp bị hại tại phiên tòa phúc thẩm, cho bị cáo hưởng mức án tù có thời hạn cũng đủ giáo dục, cải tạo, răn đe phục thiện bị cáo trở thành người có ích cho xã hội, đồng thời cũng thể hiện được tính khoan hồng của pháp luật.
[4]. Từ những phân tích và nhận định nêu trên, Hội đồng xét xử thấy quan điểm của đại diện Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh phù hợp với nhận định của Hội đồng xét xử nên được chấp nhận; chấp nhận lời bào chữa của vị luật sư cho bị cáo, chấp nhận đơn kháng cáo của bị cáo và đại diện hợp pháp của gia đình bị hại, sửa bản án sơ thẩm về phần hình phạt. Bị cáo không phải chịu án phí hình sự phúc thẩm.
Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.
Vì các lẽ trên;
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ vào điểm b khoản 1 Điều 355 Bộ luật tố tụng hình sự.
1. Chấp nhận đơn kháng cáo của bị cáo Hoàng Trọng D, đại diện hợp pháp gia đình bị hại; sửa một phần Bản án hình sự sơ thẩm số 242/2021/HS-ST ngày 24/11/2021 của Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh như sau:
Căn cứ điểm n khoản 1 Điều 123; điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; điểm e khoản 1 Điều 52; Điều 38 Bộ luật hình sự năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017.
Xử phạt: Bị cáo Hoàng Trọng D 20 (hai mươi) năm tù, về tội: “Giết người”. Thời hạn tù tính từ ngày 25/11/2020. Tiếp tục tạm giam bị cáo Hoàng Trọng D 45 ngày để đảm bảo thi hành án.
Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không bị kháng cáo, kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật.
2. Về án phí hình sự phúc thẩm: Áp dụng điểm h khoản 2 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.
Bị cáo Hoàng Trọng D không phải chịu án phí.
3. Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án./
Bản án về tội giết người số 176/2022/HSPT
Số hiệu: | 176/2022/HSPT |
Cấp xét xử: | Phúc thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân cấp cao |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 13/04/2022 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về