Bản án về tội giết người số 172/2023/HS-PT

TÒA ÁN NHÂN DÂN CẤP CAO TẠI ĐÀ NẴNG

BẢN ÁN 172/2023/HS-PT NGÀY 30/05/2023 VỀ TỘI GIẾT NGƯỜI

Ngày 30 tháng 5 năm 2023, tại điểm cầu trung tâm trụ sở Tòa án nhân dân cấp cao tại Đà Nẵng và điểm cầu thành phần trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Phú Yên, Tòa án nhân dân cấp cao tại Đà Nẵng xét xử phúc thẩm trực tuyến công khai vụ án hình sự thụ lý số 156/2023/TLPT-HS ngày 06 tháng 4 năm 2023 đối với bị cáo Y1 và đồng phạm về tội “Giết người”. Do Bản án hình sự sơ thẩm số 07/2023/HS-ST ngày 01 tháng 3 năm 2023 của Tòa án nhân dân tỉnh Phú Yên bị kháng cáo.

- Các bị cáo có kháng cáo:

1. Y1, tên gọi khác: Ma Bưởi, sinh ngày 19/12/2000; trú tại: thôn S, xã S, huyện S1, tỉnh Phú Yên; nghề nghiệp: Làm nông; trình độ văn hóa (học vấn): 02/12; dân tộc: Chăm (H’roi); con ông (không xác định) và bà Hờ G, sinh năm 1976; sống như vợ chồng với Hờ P, sinh năm 2002; có 02 con, lớn sinh năm 2020, nhỏ sinh năm 2022; tiền án, tiền sự: Không; nhân thân: Ngày 06/12/2017, bị Công an xã S, huyện S1 xử phạt 325.000 đồng về hành vi đánh nhau, đã nộp phạt ngày 09/01/2018; bắt tạm giam từ ngày 01/6/2022. Có mặt.

2. Đặng Tấn Q, tên gọi khác: Tý Q, sinh ngày 02/11/1989; trú tại: thôn T, xã S, huyện S1, tỉnh Phú Yên; nghề nghiệp: Làm nông; trình độ văn hóa (học vấn): 12/12; con ông Đặng Tấn Q1, sinh năm 1960 và bà Trần Thị Kim L, sinh năm 1967; có vợ là Phạm Đặng Bảo H1, sinh năm 1993; có 02 con, lớn sinh năm 2011, nhỏ sinh năm 2012; tiền án, tiền sự: Không; nhân thân: Ngày 31/5/2019, bị Công an xã S, huyện S1 xử phạt 500.000 đồng về hành vi đánh nhau, đã nộp phạt; bắt tạm giam từ ngày 22/11/2022. Có mặt.

3. Y2, sinh ngày 14/3/2000; trú tại: thôn S, xã S, huyện S1, tỉnh Phú Yên; nghề nghiệp: Làm nông; trình độ văn hóa (học vấn): 4/12; dân tộc: Chăm (H’roi); con ông Y M, sinh năm 1976 và bà Hờ L1, sinh năm 1977; tiền án, tiền sự: Không; bị cáo tại ngoại. Có mặt.

- Người bào chữa cho các bị cáo theo yêu cầu của cơ quan tố tụng:

1. Người bào chữa của bị cáo Y1: Bà Lưu Thị Tuyết A - Luật sư, Văn phòng Luật sư Y3, thuộc Đoàn Luật sư tỉnh Phú Yên. Có mặt

2. Người bào chữa của bị cáo Đặng Tấn Q: Ông Trần H3 - Luật sư Văn phòng N, thuộc Đoàn Luật sư tỉnh Phú Yên. Có mặt

3. Người bào chữa của bị cáo Y2: Ông Trần Văn X - Luật sư Văn phòng Luật sư Y4, thuộc Đoàn Luật sư tỉnh Phú Yên. Có mặt Ngoài ra, trong vụ án còn có bị cáo Y3, Bá Thanh N4; những người bị hại, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan và người làm chứng nhưng không có kháng cáo, kháng nghị nên Tòa án không triệu tập.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa sơ thẩm, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 16 giờ ngày 14/02/2021, Đặng Tấn Q, Võ Đoàn Phúc H2, Lưu Văn C, Lê Trùng D1, Lê Anh H3, Lê Quốc T1, Nguyễn Văn T2, Sô Thị L2 và một số người khác tổ chức ăn nhậu tại khu vực hồ Suối Vực thuộc thôn S, xã S, huyện S1, tỉnh Phú Yên thì xảy ra cãi nhau giữa C với H2 và Q. H2 và Q bỏ đi về, H2 gọi điện thoại nói anh trai là Võ Hoàng Hưng đến hỏi C lý do đòi đánh H2, còn Q về nhà Mó Võ tiếp tục nhậu với Y1 và Y2. Trong quá trình nhậu, Q kể cho Y1 và Y2 nghe về mâu thuẫn giữa Q, H2 với C. Một lúc sau, H2 đến gặp Q nói C muốn kiếm chuyện với Q. Q nói “Tụi mày đi với anh ra đánh thằng C dằn mặt, có gì anh lo” và được cả ba đồng ý. Q bảo Y2 chở Y1 ra xem C còn nhậu tại bờ hồ hay không nên Y2 điều khiển xe chở Y1 đi đến vị trí C nhậu. Y1 thấy C là người quen nên vào uống 01 ly bia rồi về. Trên đường về, Y1 thấy H2 chở Q chạy ra, Q vẫy tay nên Y2 điều khiển xe chở Y1 quay lại, chạy sau H2 và Q đến chỗ nhóm của C đang nhậu. Q bước xuống xe gọi C ra nói chuyện nhưng C không ra. Q đi đến chỗ C, dùng tay đấm vào mặt C. D1, H3, T1, T2 (nhóm C) xông vào đòi đánh Q nên Y1 xông vào xô đẩy thách thức nhau với nhóm C. Y2 cũng xông vào nhưng được L2 can ngăn, H2 được Hưng giữ lại, chở về nhà. Nhóm C dùng cây đánh Q nên Q và Y1 bỏ chạy về hướng đường bê tông, Y2 thấy Q và Y1 bị rượt đánh nên cũng điều khiển xe mô tô theo. Khi về đến làng, Q lấy 01 khúc cây gỗ dài khoảng 70cm; Y1 lấy 01 cây mã tấu dài 68cm quay ra đánh lại nhóm C; Y2 thấy vậy nên cũng lấy 01 khúc cây gỗ dài khoảng 60cm với mục đích quay lại hỗ trợ Q và Y1 đánh nhóm C. Q bị T2 dùng cây đánh trúng tay trái nên Q dùng cây đánh trúng hông T2. D1 và T2 xông vào đánh Q nên Q bỏ chạy. D1 cầm mũ bảo hiểm rượt đuổi Q thì gặp Y1, D1 cầm mũ bảo hiểm đánh trúng vào lưng Y1, Y1 dùng mã tấu chém 02 cái trúng vào tay và xước da vùng cổ của D1. Thấy Y1 và D1 đánh nhau thì Y2 cầm cây xông vào đánh D1 nhưng được L2 can ngăn cầm tay kéo lại không cho đánh. D1 bỏ chạy, Y1 ném mã tấu vào lề đường rồi cầm 01 cây gỗ keo dài khoảng 70cm đuổi theo D1, gặp Lê Anh H3 đang đứng ở dưới đường bê tông, Y1 cầm cây keo đánh nhiều cái vào vùng đầu của H3 gây thương tích. Thấy H3 bị đánh, ông Lê Xuân B1 (cha của H3) chạy đến can ngăn thì Y1 tiếp tục cầm cây đánh nhiều cái vào đầu, tay của ông B1 gây thương tích. Y1 ném cây lại hiện trường rồi chạy về làng, H3 và ông B1 được mọi người đưa đi cấp cứu. Hậu quả Lê Anh H3 bị thương tích vùng đầu dài 5cm, sâu thấu xương sọ; sưng nề vùng trán (CT Scanner sọ não: dập xuất huyết nhu mô não vùng thái dương đỉnh phải). Lê Xuân B1 bị thương tích vùng đỉnh đầu phải, dập tổ chức dưới da đầu dài 7cm, sâu thấu xương sọ, vùng gò má trái có vết thương dài 02cm, sâu 01 cm, gãy xương chính mũi.

Tại Kết luận giám định pháp y về thương tích số: 108, 109, 110 ngày 19/4/2021 của Trung tâm Pháp Y tỉnh Phú Yên kết luận: Lê Anh H3 bị thương tích 54%, do vật tày + vật có cạnh sắc gây nên; Lê Xuân B1 bị thương tích 17% do vật tày có cạnh gây nên; Lê Quốc T1 bị thương tích 17%, do vật tày gây nên.

Tại Bản án hình sự sơ thẩm số 07/2023/HS-ST ngày 01/3/2023, Tòa án nhân dân tỉnh Phú Yên đã quyết định:

Tuyên bố: Các bị cáo Y1, Đặng Tấn Q và Y2 phạm tội “Giết người.

1. Về hình phạt:

Áp dụng điểm a, n khoản 1 Điều 123; điểm b, s khoản 1 Điều 51; Điều 15; Khoản 3 Điều 57 Bộ luật hình sự đối với các bị cáo; thêm khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự đối với các bị cáo Y1, Y2; Điều 54 Bộ luật hình sự đối với bị cáo Y2; xử phạt:

- Bị cáo Y1 14 (Mười bốn) năm tù. Thời hạn tù tính từ ngày bắt tạm giam, ngày 01/6/2022.

- Bị cáo Đặng Tấn Q 13 (Mười ba) năm tù. Thời hạn tù tính từ ngày bắt tạm giam, ngày 22/11/2022.

- Bị cáo Y2 07 (Bảy) năm tù. Thời hạn tù tính từ ngày bắt thi hành án.

2. Về trách nhiệm bồi thường dân sự:

2.1. Buộc các bị cáo Y1, Đặng Tấn Q và Y2 phải liên đới bồi thường thiệt hại về sức khỏe bị xâm phạm cho bị hại Lê Anh H3 số tiền 232.862.316 đồng (hai trăm ba mươi hai triệu, tám trăm sáu mươi hai nghìn, ba trăm mười sáu đồng), cụ thể:...Y2 phải bồi thường 61.862.316 đồng (sáu mươi mốt triệu, tám trăm sáu mươi hai nghìn, ba trăm mười sáu đồng)...bị cáo Y2 đã nộp bồi thường 2.000.000, nên còn tiếp tục bồi thường cho bị hại Lê Anh H3 59.862.316đ (Năm mươi chín triệu, tám trăm sáu mươi hai nghìn, ba trăm mười sáu đồng) Tuyên trả cho bị hại Lê Anh H3...2.000.000 đồng trong số tiền 4.000.000 đồng mà bị cáo Y2 đã nộp tại Biên lai số 0002907 ngày 23/02/2023 của Cục Thi hành án dân sự tỉnh Phú Yên.

2.2. Buộc các bị cáo Y1, Đặng Tấn Q và Y2 phải liên đới bồi thường thiệt hại về sức khỏe bị xâm phạm cho bị hại Lê Xuân B1 số tiền 61.376.340đ (sáu mươi mốt triệu, ba trăm bảy mươi sáu nghìn, ba trăm bốn mươi đồng), cụ thể:...Y2 phải bồi thường 16.376.340đ (mười sáu triệu, ba trăm bảy mươi sáu nghìn, ba trăm bốn mươi nghìn)...bị cáo Y2 đã nộp bồi thường 2.000.000 đồng, nên còn tiếp tục bồi thường cho bị hại Lê Xuân B1 14.376.340đ (mười bốn triệu, ba trăm bảy mươi sáu nghìn, ba trăm bốn mươi đồng).

Tuyên trả cho bị hại Lê Xuân B1...2.000.000 đồng trong số tiền 4.000.000 đồng mà bị cáo Y2 đã nộp tại Biên lai số 0002907 ngày 23/02/2023 của Cục Thi hành án dân sự tỉnh Phú Yên.”.

Ngoài ra, bản án sơ thẩm còn quyết định về tội danh và hình phạt đối với các bị cáo Y3, Bá Thanh N4, quyết định về phần trách nhiệm bồi thường dân sự, về xử lý vật chứng, án phí và quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.

Ngày 07/3/2023, bị cáo Y2 có đơn kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt và mức bồi thường.

Ngày 09/3/2023, bị cáo Y1 kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt.

Ngày 13/3/2023, bị cáo Đặng Tuấn Q kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt.

Tại phiên tòa, các bị cáo Y2, Y1, Đặng Tấn Q giữ nguyên kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt và mức bồi thường.

Luật sư Lưu Thị Tuyết A: bị cáo Y1 đã được hưởng 2 tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự, đề nghị HĐXX áp dụng Điều 54 Bộ luật hình sự để giảm hình phạt cho bị cáo.

Luật sư Trần H: Bị cáo Đặng Tấn Q khi rủ Y1, Y2 đi đánh nhau với nhóm anh C, thì lúc đó không có ý định đánh ông Lê Xuân B1 nên bị cáo không phải chịu trách nhiệm hình sự đối với hành vi Y1 đánh ông B1. Đề nghị HĐXX không áp dụng tình tiết định khung quy định tại điểm a khoản 1 Điều 123 Bộ luật hình sự đối với bị cáo Q, từ đó giảm cho bị cáo một phần hình phạt.

Luật sư Trần Văn X: bị cáo Y2 có nhân thân tốt, bị cáo không có hành vi đánh anh H3, ông B1, bị Đặng Tấn Q rủ rê nên đề nghị HĐXX giảm hình phạt và mức bồi thường thiệt hại cho bị cáo.

Đại diện VKS cấp cao tại Đà Nẵng có ý kiến: Quá trình giải quyết vụ án, Hội đồng xét xử phúc thẩm đã thực hiện đúng quy định pháp luật tố tụng hình sự. Tòa án cấp sơ xét xử bị cáo Y1, Đặng Tuấn Q và Y2 về tội “Giết người” theo điểm a, n khoản 1 Điều 123 Bộ luật hình sự là đúng người, đúng pháp luật, mức hình phạt và mức bồi thường là tương xứng. Căn cứ vào điểm a khoản 1 Điều 355 Bộ luật tố tụng hình sự, đề nghị Hội đồng xét xử không chấp nhận kháng cáo của các bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Căn cứ vào các tài liệu, chứng cứ đã được thẩm tra tại phiên tòa; căn cứ kết quả tranh luận tại phiên tòa và trên cơ sở xem xét đầy đủ toàn diện các chứng cứ, ý kiến của Kiểm sát viên, trình bày của bị cáo, luật sư.

[1]. Theo bản án hình sự sơ thẩm và tài liệu có trong hồ sơ vụ án, lời khai nhận tội của các bị cáo Y1, Đặng Tấn Q và Y2 tại phiên tòa phúc thẩm, phù hợp với lời khai bị hại, người làm chứng; các Biên bản, sơ đồ, bản ảnh hiện trường; bản kết luận giám định, tang vật thu giữ, Hội đồng xét xử phúc thẩm thấy có đủ cơ sở xác định: Khoảng 16 giờ ngày 14/02/2021, Đặng Tấn Q phát sinh mâu thuẫn với nhóm anh Lưu Văn C, Võ Đoàn Phúc H2, Lê Trùng D1, Lê Anh H3, Lê Quốc T1, Nguyễn Văn T2, Sô Thị L2. Đặng Tấn Q kể cho Y1, Y2 nghe chuyện mâu thuẫn và nói “Tụi mày đi với anh ra đánh thằng C dằn mặt, có gì anh lo”, Y1 và Y2 đồng ý. Quá trình đánh nhau thì Y1 cầm cây gỗ keo dài khoảng 70cm đánh nhiều nhát vào đầu Lê Anh H3, thấy H3 bị đánh, ông Lê Xuân B1 (cha của Lê Anh H3) chạy đến can ngăn thì Y1 tiếp tục cầm gậy đánh nhiều nhát vào đầu, tay của ông B1, sau đó Y1 ném cây gỗ lại rồi chạy về làng. Lê Anh H3 và ông B1 được mọi người đưa đi cấp cứu. Bị hại Lê Anh H3 khi vào bệnh viện phải “Rạch da đường Question Mark phải, bộ lộ sọ, khoan sọ 06 lỗ, mở nắp sọ. Trét sáp xương, treo màng cứng các góc. Mở màng cứng hình chữ C, lấy máu tụ dưới màng cứng và não dập vùng thái dương, đốt cầm máu, lót Surgicel lên vỏ não dập. Não phù nhẹ, có xuất huyết dưới nhện, không còn chảy máu. Lấy cân cơ thái dương vá kín màng cứng. Đặt dẫn lưu ông ra ngoài cố định. Đóng vết mổ từng lớp. Nắp sọ gửi khoa xét nghiệm” và được Trung tâm pháp y Sở Y tế tỉnh Phú Yên kết luận “Tại thời điểm giám định thương tích của nạn nhân Lê Anh H3 là 54%”. Bị hại Lê Xuân B1 thì bị “Vùng đỉnh đầu có vết thương dập tổ chức dưới da đầu dài 07cm, sâu thấu xương sọ, vùng gò má trái có vết thương dài 02cm, sau 01 cm”, tỷ lệ tổn thương cơ thể là 17%. Như vậy, Y1 không có mâu thuẫn với anh H3, ông B1, nhưng đã dùng gậy gỗ đánh nhiều nhát, với lực rất mạnh vào đầu làm anh H3 vỡ hộp sọ, ông B1 bị tổn thương xương sọ và hệ thần kinh, việc anh H3, ông B1 không chết là nằm ngoài ý muốn của bị cáo. Khi rủ đi đánh nhóm anh C thì bị cáo Đặng Tấn Q không nói rõ đánh như thế nào, bị cáo Y1, Y2 đều thống nhất ý chí với Q nên Q và Y2 phải chịu trách nhiệm hình sự với hành vi của Y1. Do đó, Tòa án cấp sơ thẩm đã xét xử bị cáo Y1, Đặng Tấn Q, Y2 về tội “Giết người” quy định tại điểm a, n khoản 1 Điều 123 Bộ luật hình sự là có căn cứ, đúng người, đúng tội.

[2] Trong vụ án này có 3 bị cáo gồm Y1, Đặng Tấn Q và Y2 đã phạm tội “Giết người”. Các bị cáo không có bàn bạc mà chỉ nhằm “đánh rằn mặt anh C” nên các bị cáo thuộc trường hợp đồng phạm giảm đơn. Bị cáo Y1 là người trực tiếp có hành vi dùng cây gỗ đánh vào đầu anh H3, ông B1 nên cần phải có mức hình phạt cao nhất, bị cáo Tấn Q là người rủ rê, lôi kéo nên có mức hình phạt thấp hơn bị cáo Y1 và cao hơn hình phạt đối với bị cáo Y2. Bị cáo Y2 chỉ phạm tội với vai trò đồng phạm, giúp sức nên có mức hình phạt thấp hơn bị cáo Y1, Tấn Q.

[3]. Xét kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt của bị cáo Y1, Hội đồng xét xử thấy: Bị cáo với bị hại Lê Anh H3 không có mâu thuẫn gì nhưng khi nghe Đặng Tấn Q rủ đi đánh nhóm anh C thì bị cáo đã đồng ý và chủ động lấy 01 cây mã tấu dài 68cm, trước khi đánh anh H3 thì bị cáo cũng đã dùng mã tấu mang theo để chém 02 nhát vào vùng tay, xước da vùng cổ của Lê Trùng D1, sau đó bị cáo tiếp tục “đánh Lê Anh H3 là tôi trong tư thế đứng đối diện với H3 và cách H3 khoảng 01 m, lúc H3 trong tư thế ngồi, Tôi (Y1) tay trái cầm khúc cây dài khoảng 01m, to bằng cổ tay của tôi (Y1) rồi đánh từ trên xuống 02 cái trúng vào vùng đầu, phía trước của H3, khi tôi (Y1) đánh trúng 02 cái vào đầu của H3 thì H3 gã nằm xuống đất..trong lúc tôi (Y1) dùng cây đánh H3 thì ông Lê Xuân B1 chạy đến can ngăn, thì tôi (Y1) trong tư thế đứng, tay trái cầm khúc cây đã đánh H3, rồi đánh từ trên xuống 01 cái trúng vào vùng đầu của ông B1” ( bl 280) đã thể hiện tính côn đồ của bị cáo. Thấy, hành vi của bị cáo rất nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm đến tính mạng, sức khỏe của nhiều người nên cần phải có mức hình phạt thật nghiêm khắc. Tòa án cấp sơ thẩm đã xem xét bị cáo được hưởng những tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự như: bị cáo là người dân tộc thiểu số; người nhà bên ngoại là liệt sỹ; đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải; đã tác động để gia đình bồi thường cho bị hại 2.000.000 đồng, phạm tội thuộc trường hợp chưa đạt để từ đó xử phạt bị cáo mức hình phạt 14 năm tù là phù hợp. Tại phiên tòa phúc thẩm, bị cáo không có thêm tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự mới nên không có cơ sở để chấp nhận kháng cáo xin giảm hình phạt của bị cáo.

[4] Xét kháng cáo của Đặng Tấn Q: Chỉ vì mâu thuẫn nhỏ nhặt trong khi ăn nhậu cùng nhau, bị cáo đã rủ Y1, Y2 đi đánh nhóm anh Lưu Văn C. Khi rủ các bị cáo khác, bị cáo chỉ nói “Tụi mày đi với anh ra đánh thằng C dằn mặt, có gì anh lo” nên Q phải chịu trách nhiệm hình sự với vai trò đồng phạm tội “Giết người” của Y1. Bị cáo đã từng bị xử phạt hành chính về hành vi đánh nhau, nhưng lại tiếp tục rủ rê, lôi kéo bị cáo Y1, Y2 đi đánh nhau nên cũng cần mức hình phạt thật nghiêm khắc mới có tác dụng giáo dục bị cáo và phòng ngừa chung loại tội phạm này. Khi lượng hình, Tòa án cấp sơ thẩm cũng đã xem xét cho bị cáo các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự như thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, tác động gia đình để bồi thường cho bị hại số tiền 10.000.000 đồng, phạm tội thuộc trường hợp chưa đạt, để từ đó xử phạt bị cáo mức hình phạt 13 năm tù là phù hợp. Tại phiên tòa phúc thẩm, bị cáo không có thêm tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự mới nên không có căn cứ để chấp nhận kháng cáo của bị cáo Đặng Tấn Q.

[5] Xét kháng cáo của bị cáo Y2: Bị cáo phạm tội với vai trò đồng phạm giản đơn. Bị cáo Y2 có hành vi chủ động lấy 01 khúc cây gỗ dài 60cm với mục đích để đánh nhóm anh C, nhưng quá trình đánh nhau khi được Sô Thị L2 ngăn cản thì bị cáo không tham gia nên vai trò của bị cáo là không đáng kể. Tòa án cấp sơ thẩm đã áp dụng cho bị cáo những tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự như: bị cáo là người dân tộc thiểu số, có học vấn thấp; thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải; bồi thường số tiền 4.000.000 đồng cho bị hại; phạm tội thuộc trường hợp chưa đạt và xử phạt bị cáo 07 năm tù, là mức khởi điểm của khoản 2 Điều 123 Bộ luật hình sự là có căn cứ. Tại phiên tòa phúc thẩm, bị cáo cũng không xuất trình thêm tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự mới nên không có cơ sở để chấp nhận yêu cầu kháng cáo của bị cáo về hình phạt [5.1] Đối với phần kháng cáo xin giảm mức bồi thường, xét thấy Tòa án cấp sơ thẩm đã buộc các bị cáo phải bồi thường cho anh Lê Anh H3 số tiền 231.862.316 đồng, cho ông Lê Xuân B1 số tiền 61.376.340 đồng là có căn cứ. Tại phiên tòa, bị cáo Y2 kháng cáo xin giảm mức bồi thường với lý do mức bồi thường quá cao. Do bị cáo Y2 không trực tiếp gây thương tích cho anh H3, ông B1 mà phạm tội với vai trò đồng phạm giúp sức nên Tòa án cấp sơ thẩm chỉ buộc bị cáo phải bồi thường cho với số tiền 61.862.316 đồng cho anh H3 và 16.376.340 đồng cho ông B1 thấp hơn so với bị cáo Y1, Đăng Tấn Q là phù hợp.

Vì vậy kháng cáo xin giảm bồi thường của bị cáo Y2 là không có căn cứ chấp nhận.

[6]. Về án phí phúc thẩm: Do kháng cáo không được chấp nhận nên các bị cáo Y1, Đặng Tấn Q, Y2 phải chịu án phí phúc thẩm.

[7]. Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, không bị kháng nghị nên có hiệu lực pháp luật.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

- Căn cứ điểm a khoản 1 Điều 355, Điều 356 Bộ luật Tố tụng hình sự;

Không chấp nhận kháng cáo của bị cáo Y1, Đặng Tấn Q và Y2. Giữ nguyên Bản án hình sự sơ thẩm số 07/2023/HS-ST ngày 01/3/2023 của Tòa án nhân dân tỉnh Phú Yên.

1. Áp dụng điểm a, n khoản 1 Điều 123; các điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 15; khoản 3 Điều 57; Điều 38 của Bộ luật Hình sự.

Xử phạt bị cáo Y1 14 (mười bốn) năm tù về tội “Giết người”, thời hạn tù tính từ ngày 01/6/2022.

2. Áp dụng điểm a, n khoản 1 Điều 123; các điểm b, s khoản 1 Điều 51; Điều 15; khoản 3 Điều 57; Điều 38 của Bộ luật Hình sự.

Xử phạt bị cáo Đặng Tấn Q 13 (mười ba) năm tù về tội “Giết người”, thời hạn tù tính từ ngày 22/11/2022.

3. Áp dụng điểm a, n khoản 1 Điều 123; các điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 15; khoản 3 Điều 57; Điều 54; Điều 38 của Bộ luật Hình sự.

Xử phạt bị cáo Y2 07 (bảy) năm tù về tội “Giết người”, thời hạn tù tính từ ngày bắt thi hành án.

4. Về trách nhiệm dân sự:

Áp dụng Điều 48 Bộ luật hình sự; Điều 585, 586, 587, 590 Bộ luật dân sự.

Buộc các bị cáo Y1, Đặng Tấn Q và Y2 phải liên đới bồi thường thiệt hại về sức khỏe bị xâm phạm cho bị hại Lê Anh H3 số tiền 232.862.316 đồng (hai trăm ba mươi hai triệu, tám trăm sáu mươi hai nghìn, ba trăm mười sáu đồng), trong đó bị cáo Y2 phải bồi thường 61.862.316 đồng (sáu mươi mốt triệu, tám trăm sáu mươi hai nghìn, ba trăm mười sáu đồng). Bị cáo Y2 đã nộp bồi thường 2.000.000, nên còn tiếp tục bồi thường cho bị hại Lê Anh H3 59.862.316đ (Năm mươi chín triệu, tám trăm sáu mươi hai nghìn, ba trăm mười sáu đồng) Tuyên trả cho bị hại Lê Anh H3 2.000.000 đồng trong số tiền 4.000.000 đồng mà bị cáo Y2 đã nộp tại Biên lai số 0002907 ngày 23/02/2023 của Cục Thi hành án dân sự tỉnh Phú Yên.

Buộc các bị cáo Y1, Đặng Tấn Q và Y2 phải liên đới bồi thường thiệt hại về sức khỏe bị xâm phạm cho bị hại Lê Xuân B1 số tiền 61.376.340đ (sáu mươi mốt triệu, ba trăm bảy mươi sáu nghìn, ba trăm bốn mươi đồng), trong đó bị cáo Y2 phải bồi thường 16.376.340đ (mười sáu triệu, ba trăm bảy mươi sáu nghìn, ba trăm bốn mươi nghìn). Bị cáo Y2 đã nộp bồi thường 2.000.000 đồng, nên còn tiếp tục bồi thường cho bị hại Lê Xuân B1 14.376.340đ (mười bốn triệu, ba trăm bảy mươi sáu nghìn, ba trăm bốn mươi đồng).

Tuyên trả cho bị hại Lê Xuân B1 2.000.000 đồng trong số tiền 4.000.000 đồng mà bị cáo Y2 đã nộp tại Biên lai số 0002907 ngày 23/02/2023 của Cục Thi hành án dân sự tỉnh Phú Yên.

5. Về án phí phúc thẩm: Áp dụng điểm a khoản 2 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội về án phí, lệ phí Tòa án;

- Bị cáo Y1, Đặng Tấn Q, Y2 phải chịu số tiền 200.000 (Hai trăm nghìn) đồng án phí hình sự phúc thẩm.

- Bị cáo Y2 phải chịu số tiền 300.000 đồng án phí dân sự phúc thẩm.

6. Các quyết định khác của Bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị gồm: tội danh và hình phạt đối với Y3, Bá Thanh N4; trách nhiệm dân sự đối với Y1, Đăng Tấn Q, Y3 và Bá Thanh N4; xử lý vật chứng; án phí hình sự, dân sự sơ thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

7. Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

73
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội giết người số 172/2023/HS-PT

Số hiệu:172/2023/HS-PT
Cấp xét xử:Phúc thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân cấp cao
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 30/05/2023
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về