Bản án về tội giết người số 171/2023/HS-PT

TÒA ÁN NHÂN DÂN CẤP CAO TẠI ĐÀ NẴNG

BẢN ÁN 171/2023/HS-PT NGÀY 30/05/2023 VỀ TỘI GIẾT NGƯỜI

Ngày 30 tháng 5 năm 2023, tại điểm cầu trung tâm trụ sở Tòa án nhân dân cấp cao tại Đà Nẵng và điểm cầu thành phần trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Phú Yên, xét xử phúc thẩm trực tuyến công khai vụ án hình sự thụ lý số 110/2023/TLPT-HC ngày 16 tháng 3 năm 2022 đối với bị cáo Võ Đức T, Nguyễn Nhất V về tội “Giết người”.Do bản án hình sự sơ thẩm số 02/2023/HS-ST-NCTN ngày 07 tháng 02 năm 2023 của Tòa án nhân dân tỉnh Phú Yên bị kháng cáo.

- Các bị cáo có kháng cáo:

1. Võ Đức T, tên gọi khác: Không có; sinh ngày 30/11/2001; nơi cư trú: Khu phố L2, thị trấn L, huyện Đ, tỉnh Phú Yên; nghề nghiệp: Sinh viên; trình độ học vấn: 12/12; dân tộc: Kinh; tôn giáo: Không; con ông Võ Văn Th, sinh năm 1979, con bà Nguyễn Tô Thị H, sinh năm 1981; tiền sự, tiền án: Không;

Bị bắt tạm giam từ ngày 01/6/2022; có mặt tại phiên tòa.

2. Nguyễn Nhất V, tên gọi khác: Không có; sinh ngày 27/3/2002; nơi cư trú: Khu phố L1, thị trấn L, huyện Đ, tỉnh Phú Yên; nghề nghiệp: Sinh viên; trình độ học vấn: 12/12; dân tộc: Kinh; tôn giáo: Không; con ông Nguyễn Phi H1, sinh năm 1967, con bà Hồ Thị Xuân L3, sinh năm 1968; tiền sự, tiền án: Không;

Bị bắt tạm giam từ ngày 01/6/2022; có mặt tại phiên tòa.

- Người bào chữa cho bị cáo Võ Đức T: Ông Trần H2 - Luật sư thuộc Văn phòng Luật sư N1, Đoàn Luật sư tỉnh Phú Yên; có mặt.

- Người bào chữa cho bị cáo Nguyễn Nhất V: Ông Nguyễn Hương Q - Luật sư thuộc Văn phòng Luật sư P, Đoàn Luật sư tỉnh Phú Yên; ông Nguyễn N2 - Luật sư thuộc Văn phòng Luật sư N1, Đoàn Luật sư tỉnh Phú Yên. Ông Ninh có mặt.

- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: Ông Võ Văn M, sinh năm 1978 và bà Cao Thị Ng, sinh năm 1979 (cha mẹ bị cáo Võ Văn A1); địa chỉ: Thôn TĐ, xã X, huyện Đ, tỉnh Phú Yên; bà Ng có mặt.

Ngoài ra, trong vụ án còn có các bị cáo Đỗ Quy Đ1, Nguyễn Công T1, Võ Văn A1, Nguyễn Thanh A2; những người bị hại, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan nhưng không có kháng cáo, không bị kháng cáo, kháng nghị.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 19 giờ 30 phút ngày 31/8/2021, Đỗ Quy Đ1, Nguyễn Công T1, Võ Đức T, Võ Văn A1, Nguyễn Nhất V cùng chơi tại khu vực bờ kè sông Kỳ Lộ thuộc khu phố LT, thị trấn L, huyện Đ, tỉnh Phú Yên. Tại đây, Đ1 kể cho T1, T, Võ Văn A1, V nghe vào ngày 29/8/2021 Đ1 bị Nguyễn Hoài N3 đánh. Sau khi nghe, T điện thoại thách thức, hẹn N3 đánh nhau tại khu vực bờ kè L thì N3 nói “ừ mày ở đó đi” rồi T nói lại cho Đ1, T1, Võ Văn A1, V nghe thì tất cả đồng ý cùng tham gia đánh N3. Đ1 sợ N3 đi nhiều người đánh không lại nên bàn bạc đến nhà Đ1 lấy hung khí để đánh nhóm N3 thì T, Võ Văn A1, T1, V đồng ý cùng đi đến nhà Đ1. Đ1 vào nhà lấy 01 dao tự chế dài 93cm, lưỡi bằng kim loại dài 59cm, rộng 03cm và 01 đoạn inox vuông cạnh (02x02)cm, dài 64,2cm bỏ vào trong ống nhựa PVC dài 125cm. Cùng lúc này, T1 điện thoại rủ Nguyễn Thanh A2 đánh N3 thì A2 đồng ý, T1 bảo V đến chở A2 mang theo 01 dao tự chế dài 97,3cm, lưỡi bằng kim loại dài 73cm, rộng 3,9cm đến đưa cho Đ1 bỏ vào ống nhựa PVC. A1 điều khiển xe môtô chở Đ1 ôm ống nhựa PVC chứa hung khí và T1; V điều khiển xe môtô chở A2 và T đi đến nơi hẹn để đánh N3. Khi đi đến đường LTP, khu vực xóm Giếng thuộc khu phố LT, thị trấn L, huyện Đ, Đ1 và T1 thấy Phạm Quốc L4 điều khiển xe môtô chở N3 đi trên đường nên Đ1 bảo A1 điều khiển xe chặn xe của L4, còn V điều khiển xe dừng phía sau xe của Lực. Đ1 cầm ống nhựa PVC đổ hung khí xuống đường, A1 lấy đoạn kim loại, T1 lấy dao tự chế dài 97,3cm cầm chém L4 01 cái trúng vào vùng vai trái của L4, Lực sợ bỏ chạy, T1 đuổi theo để chém L4. Đ1 cầm dao tự chế dài 93cm bằng tay phải chém vào đầu N3 01 cái hướng từ trên xuống trúng m bảo hiểm N3 đang đội, T dùng chân đạp N3 01 cái làm N3 té ngồi xuống đường, Đ1 đứng đối diện cầm dao tự chế bằng hai tay chém vào đầu N3 01 cái hướng từ trên xuống làm m bảo hiểm N3 đang đội bị vỡ, trúng vào đỉnh đầu gây ra vết thương dài 10cm, sâu lộ xương sọ, Đ1 chém tiếp 02 cái trúng c ng chân trái của N3 làm đứt gân cơ chày trước, vỡ xương chày. T1 rượt đuổi theo L4 không kịp nên quay lại cùng T dùng chân đá liên tiếp nhiều cái vào người N3. Thấy N3 bị đánh mọi người can ngăn nên Đ1 và các bị có thu gom hung khí bỏ vào ống nhựa PVC điều khiển xe bỏ đi. N3 và L4 được mọi người đưa đến Trung tâm y tế huyện Đ cấp cứu và điều trị.

Tại các Bản kết luận giám định pháp y về thương tích số 307, 308 ngày 14/10/2021 của Trung tâm giám định pháp y tỉnh Phú Yên kết luận: Tại thời điểm giám định thương tích của Nguyễn Hoài N3 là 09%; Phạm Quốc L4 là 02%.

Tại bản án hình sự sơ thẩm số 02/2023/HS-ST-NCTN ngày 07 tháng 02 năm 2023 của Tòa án nhân dân tỉnh Phú Yên đã quyết định:

Tuyên bố các bị cáo Võ Đức T, Nguyễn Nhất V phạm tội “Giết người”.

Áp dụng điểm n khoản 1 Điều 123; Điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51, Điều 15, Điều 54, Điều 57 của Bộ luật hình sự năm 2015.

Xử phạt bị cáo Võ Đức T 07 (bảy) năm tù; thời hạn tù tính từ ngày bắt bị cáo tạm giam, ngày 01/6/2022.

Xử phạt bị cáo Nguyễn Nhất V 06 (sáu) năm tù; thời hạn tù tính từ ngày bắt bị cáo tạm giam, ngày 01/6/2022.

Về xử lý vật chứng: Tịch thu nộp ngân sách Nhà nước: xe mô tô biển số 78K1-214.81.

Ngoài ra, bản án sơ thẩm còn quyết định về tội danh và hình phạt đối với các bị cáo Đỗ Quy Đ1, Nguyễn Công T1, Võ Văn A1, Nguyễn Thanh A2; quyết định về phần xử lý vật chứng khác, về trách nhiệm dân sự và quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.

- Ngày 14/02/2023, bị cáo Võ Đức T kháng cáo và ngày 16/02/2023, bị cáo Nguyễn Nhất V kháng cáo. Các bị cáo xin giảm nhẹ hình phạt.

- Ngày 13/02/2023, người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan bà Cao Thị Ng là mẹ bị cáo Võ Văn A1 kháng cáo xin được nhận lại chiếc xe mô tô biển số 78K1-214.81.

Tại phiên tòa ph c thẩm:

+ Bị cáo Võ Đức T và bị cáo Nguyễn Nhất V giữ nguyên kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt và khai nhận hành vi phạm tội như bản án sơ thẩm đã quy kết.

+ Bà Cao Thị Ng giữ nguyên kháng cáo xin được nhận lại chiếc xe mô tô biển số 78K1-214.81.

+ Đại diện Viện kiểm sát cấp cao tại Đà Nẵng đề nghị HĐXX cấp phúc thẩm không chấp nhận kháng cáo của các bị cáo Võ Đức T, Nguyễn Nhất V; không chấp nhận kháng cáo của bà Cao Thị Ng và giữ nguyên bản án sơ thẩm.

Sau khi nghiên cứu các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án; ý kiến trình bày, của bị cáo, người bào chữa và ý kiến của đại diện Viện kiểm sát tại phiên tòa;

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

[1] Xuất phát từ việc Đỗ Quy Đ1 kể cho T1, T, A1, V nghe việc Đ1 bị bị hại Nguyễn Hoài N3 đánh; bị cáo T điện thoại thách thức và hẹn bị hại N3 đánh nhau và được cả bọn thống nhất cùng tham gia; trước khi đến nơi đã hẹn, T1 điện thoại rủ Nguyễn Thanh A2 và các bị cáo chuẩn bị hung khí nguy hiểm: 02 dao tự chế (01 dao dài 93cm, lưỡi bằng kim loại dài 59cm và 01 dao dài 97,3cm, lưỡi bằng kim loại dài 73cm) để mang theo đánh nhau.

Khi gặp thấy Phạm Quốc L4 điều khiển xe môtô chở bị hại N3: T1 lấy dao chém L4 01 cái trúng vào vùng vai trái của L4; Đ1 cầm dao chém vào đầu N3 01 cái trúng m bảo hiểm, T đạp N3 té xuống đường và Đ1 tiếp tục chém vào đầu N3 01 nhát vào đỉnh đầu gây ra vết thương lộ xương sọ, Đ1 chém liên tiếp 02 cái trúng c ng chân trái của N3 làm đứt gân cơ chày trước, vỡ xương chày; T1 cùng T dùng chân đá liên tiếp nhiều cái vào người N3, được mọi người can ngăn nên cả bọn bỏ đi. N3 và L4 được đưa đi cấp cứu và điều trị.

Bản kết luận giám định pháp y về thương tích số 307, 308 ngày 14/10/2021 của Trung tâm giám định pháp y tỉnh Phú Yên kết luận tỉ lệ thương tích của Nguyễn Hoài N3 là 09%, Phạm Quốc L4 là 02%.

Hành vi nêu trên của các bị cáo trong vụ án là có tính chất côn đồ và dùng hung khí nguy hiểm đến tính mạng của các bị hại. Do đó, Tòa án cấp sơ thẩm kết án bị cáo về tội “Giết người” theo điểm n khoản 1 Điều 123 Bộ luật hình sự là có căn cứ và đúng quy định của pháp luật.

[2] Xét kháng cáo về hình phạt:

Chỉ vì mâu thuẫn nhỏ trước đây mà các bị cáo rủ nhau để đánh trả thù và trước khi đến địa điểm gây án, cả bọn chuẩn bị hung khí có khả năng gây ra chết người nhưng vẫn bất chấp; khi thực hiện tội phạm đã dùng hung khí chém vào nơi trọng yếu trên cơ thể của bị hại nhiều lần, thể hiện tính chất quyết liệt và sự côn đồ hung hãn, xem thường tính mạng của người khác. Vì vậy, Tòa án cấp cấp sơ thẩm sau khi đánh giá vai trò của bị cáo Võ Đức T, Nguyễn Nhất V trong vụ án và xem xét các tình tiết giảm nhẹ như: Thật thà khai báo, ăn năn hối cải, các bị cáo đã bồi thường cho người bị hại và được người bị hại xin giảm nhẹ, gia đình bị cáo V có công cách mạng và trường hợp phạm tội của các bị cáo thuộc trường hợp phạm tội chưa đạt theo quy định tại Điều 15 Bộ luật hình sự; Tòa án cấp sơ thẩm quyết định xử phạt bị cáo Võ Đức T 07 năm tù, Nguyễn Nhất V 06 năm tù là phù hợp và có căn cứ.

Tại Tòa án cấp phúc thẩm, các bị cáo Võ Đức T, Nguyễn Nhất V cung cấp thêm các tình tiết giảm nhẹ: gia đình các bị cáo có công cách mạng và bồi thường thêm cho bị hại số tiền 3.000.000 đồng. Tuy nhiên, với mức hình phạt mà Tòa án cấp sơ thẩm đã quyết định đối với các bị cáo đã là tương xứng nên không thể chấp nhận kháng cáo về hình phạt kháng cáo của các bị cáo Võ Đức T, Nguyễn Nhất V.

[3] Xét kháng cáo về vật chứng là chiếc xe mô tô biển số 78K1-214.81:

Theo kết quả xác minh tại Công an huyện Đ và đăng ký xe mô tô biển số 78K1-214.81 thể hiện chủ sở hữu xe là bị cáo Võ Văn A1; bị cáo Võ Văn A1 đã dùng xe mô tô biển số 78K1-214.81 điều khiển xe môtô chở A2 và T đi gây án. Vì vậy, Tòa án cấp sơ thẩm quyết định tịch thu xe môtô biển số 78K1-214.81 của A1 là đúng quy định tại Điều 47 Bộ luật hình sự và Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự. Cho nên, không có căn cứ để chấp nhận kháng cáo của bà Cao Thị Ng.

[4] Do không chấp nhận kháng cáo nên các bị cáo Võ Đức T, Nguyễn Nhất V phải chịu án phí hình sự phúc thẩm.

[3] Các quyết định khác còn lại của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị nên cấp phúc thẩm không xem xét.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

- Áp dụng: Điểm a khoản 1 Điều 355 và Điều 356 Bộ luật tố tụng hình sự: Không chấp nhận kháng cáo của các bị cáo Võ Đức T, Nguyễn Nhất V và kháng cáo của bà Cao Thị Ng; giữ y bản án sơ thẩm.

- Áp dụng điểm n khoản 1 Điều 123; Điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51, Điều 15, Điều 54, Điều 57 của Bộ luật hình sự năm 2015; Điều 47 Bộ luật hình sự và Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự:

+ Xử phạt bị cáo Võ Đức T 07 (bảy) năm tù; thời hạn tù tính từ ngày bắt bị cáo tạm giam, ngày 01/6/2022.

+ Xử phạt bị cáo Nguyễn Nhất V 06 (sáu) năm tù; thời hạn tù tính từ ngày bắt bị cáo tạm giam, ngày 01/6/2022.

+ Tịch thu nộp ngân sách Nhà nước: xe mô tô biển số 78K1-214.81.

- Các phần quyết định khác của bản án sơ thẩm không bị kháng cáo, kháng nghị có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

- Bị cáo T và bị cáo V; mỗi bị cáo phải chịu 200.000 đồng án phí phúc thẩm.

Bản án hình sự phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án./.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

116
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội giết người số 171/2023/HS-PT

Số hiệu:171/2023/HS-PT
Cấp xét xử:Phúc thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân cấp cao
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 30/05/2023
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về