Bản án về tội giết người số 153/2023/HS-PT

TÒA ÁN NHÂN DÂN CẤP CAO TẠI THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

BẢN ÁN 153/2023/HS-PT NGÀY 27/03/2023 VỀ TỘI GIẾT NGƯỜI

Ngày 27 tháng 3 năm 2023, tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Kiên Giang, Tòa án nhân dân cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh xét xử phúc thẩm công khai vụ án hình sự phúc thẩm thụ lý số: 857/2022/TLPT-HS ngày 08 tháng 11 năm 2022 đối với các bị cáo Huỳnh Thanh A, Phan Văn Út M và Trần Quốc Th do có kháng cáo của bị cáo A và kháng cáo của người đại diện hợp pháp của bị hại đối với Bản án hình sự sơ thẩm số: 94/2022/HS-ST ngày 29/9/2022 của Tòa án nhân dân tỉnh Kiên Giang.

- Bị cáo có kháng cáo và bị kháng cáo:

Huỳnh Thanh A (tên gọi khác: S), sinh năm 1975 tại tỉnh Kiên Giang; nơi cư trú: Ấp PH, xã TH, huyện THp, tỉnh Kiên Giang; nghề nghiệp: Làm ruộng; trình độ văn hóa (học vấn): không biết chữ; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Huỳnh Văn Ph và bà chưa biết tên; có vợ tên Nguyễn Thị M và có 02 người con (lớn sinh năm 2002, nhỏ sinh năm 2013); tiền án, tiền sự: Không; Bị cáo ra đầu thú và bị tạm giữ, tạm giam từ ngày 16/11/2020 đến nay, (có mặt).

Người bào chữa cho bị cáo Huỳnh Thanh A: Ông Dương Văn Đ – Luật sư làm việc tại Văn phòng Luật sư ĐN thuộc Đoàn Luật sư thành phố Hà Nội, (có mặt).

- Bị cáo bị kháng cáo:

1. Phan Văn Út M, sinh năm 1994 tại tỉnh Kiên Giang; nơi cư trú: Ấp ĐĐ, xã TH, huyện THp, tỉnh Kiên Giang; nghề nghiệp: Làm ruộng; trình độ văn hóa (học vấn): 6/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Phan Văn T và bà Nguyễn Thị N; có vợ tên Phan Thị Trúc Gi và có 02 người con (lớn sinh năm 2014, nhỏ sinh năm 2019); tiền án, tiền sự: Không; Bị cáo ra đầu thú và bị bắt tạm giữ, tạm giam ngày 16/11/2020 cho đến nay (có mặt).

Người bào chữa theo chỉ định cho bị cáo Phan Văn Út M: Ông Hoàng Quốc V – Luật sư thuộc Đoàn Luật sư tỉnh Kiên Giang, (có mặt).

2. Trần Quốc Th, sinh năm 1989 tại tỉnh Kiên Giang; nơi cư trú: PH, xã TH, huyện THp, tỉnh Kiên Giang; nghề nghiệp: Lái máy cắt; trình độ văn hóa (học vấn): 12/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Trần Văn H và bà Phan Thị X; có vợ tên Phạm Thị Ph và có 02 người con (lớn sinh năm 2016, nhỏ sinh năm 2019); tiền án, tiền sự: Không; Bị cáo ra đầu thú và bị bắt tạm giữ, tạm giam từ ngày 16/11/2020 cho đến nay, (có mặt).

Người bào chữa theo chỉ định cho bị cáo Trần Quốc Th: Ông Nguyễn D – Luật sư thuộc Đoàn Luật sư tỉnh Kiên Giang, (có mặt).

- Người đại diện hợp pháp của bị hại Lương Văn X có kháng cáo:

1. Bà Huỳnh Thị V, sinh năm 1955, (có mặt);

2. Bà Nguyễn Thị Trúc Nh, sinh năm 1989, (có mặt);

Cùng địa chỉ: Tổ 14, ấp TT, xã PT, thành phố RG, tỉnh Kiên Giang.

Người bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp cho bà V và bà Nh: Ông Phạm Văn C – Luật sư thuộc Đoàn Luật sư tỉnh Kiên Giang, (có mặt).

Ngoài ra, trong vụ án còn có 03 bị cáo và những người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan nhưng không có kháng cáo, không bị kháng nghị, Tòa án không triệu tập.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Vào khoảng 21 giờ ngày 15/11/2020, Lương Văn X, Dương Quốc D và Nguyễn Văn Q uống rượu tại nhà của X thuộc ấp TT, xã PT, thành phố RG, tỉnh Kiên Giang. Do mâu thuẫn với Huỳnh Trung Q1 nên X rủ Q đi đến quán bà Nguyễn Kim L thuộc ấp PH, xã TH, huyện THp, Kiên Giang (cách nhà X khoảng 5km) để tìm Q1, Q đồng ý và điều khiển xe gắn máy chở X mang theo 02 cây dao (loại dao tự chế) đi tìm Q1. Thấy vậy, Nguyễn Thị Trúc Nh (vợ X) kêu D dùng xe máy chở đuổi theo để kêu về. Khi đến quán bà L, do không tìm thấy Q1 nên X bực tức, dùng dao đập phá một số đồ đạc, Nh đã can ngăn và bồi thường cho bà L 400 ngàn đồng, rồi cùng đi về.

Trên đường đi, X gặp Nguyễn Hiếu Tr, X hỏi có biết Q1 đi đâu không, Hiếu Tr nói không biết thì liền bị X đánh vào mặt và cầm dao mang theo định chém nhưng được Nh can ngăn. Đi tiếp một lúc thì X gặp Võ Thị M1 (bạn của Hiếu Tr), X nói đã đánh Hiếu Tr và có những lời lẽ thách thức. Lúc này, Phan Văn Út M cũng có mặt nên kêu X về.

Trong khi nhóm của X trên đường đi về thì M điện thoại nói chuyện với Trần Quốc Th; lúc này, Th và Huỳnh Thanh A, Đỗ Hoài Ph, Lê Thanh Tr1 cũng đang nhậu tại nhà của Th; sau đó nói cho Ph, A biết là nhóm X đánh Hiếu Tr và đang quậy ở chỗ M. Nghe vậy, A chạy xe máy về nhà lấy một cây đao; Ph lấy một đoạn kim loại hình tròn và một đoạn kim loại hình chữ U tại nhà Th, rồi kêu Lê Thanh Tr1 chạy xe Honda chở Ph và Th đến chỗ M, A cũng chạy từ nhà đến. Khi gặp M, tất cả biết nhóm X đi về nên A kêu đuổi theo. Th chở A, còn Thanh Tr1 chở Ph và M, chạy đến đoạn đường 30/4 thuộc ấp PH, xã PT, thành phố RG thì gặp nhóm của X. Lúc này, X và Q mỗi người cầm một cây dao. Phía nhóm của M thì A cầm đao, Ph cầm đoạn cây kim loại hình tròn, M cầm đoạn kim loại do Ph đưa, Th cầm khúc cây và cùng xông vào đánh nhau.

Trong quá trình đánh nhau, X cầm dao chém trúng tay Ph và bị rớt dao, sau đó kêu Q đưa dao, rồi X chém A trúng vào đầu và tay. A chém vào lưng của Nh một nhát, Nh kêu cứu; A rượt đuổi chém X trúng nhiều nhát (19 nhát); khi thấy Nh đang ngồi gần hàng rào thì A cầm đao chém từ trên xuống một nhát trúng vào đầu và tay Nh. M cầm đoạn kim loại ném trúng người X và cùng với Th rượt đánh Q nhưng Q chạy trốn vào lùm cây. Sau khi đưa dao cho X, Q nhặt khúc củi ném trúng vào tai của Th, Th bị ném trúng nhưng không hay biết mà tiếp tục nhặt đoạn cây vừa ném rượt đuổi Q. Ph cầm cây rượt đánh D thì bị D nhặt một đoạn cây ngắn (củi) vừa ném trả, vừa chạy trốn vào đám cây gần đó nhưng vẫn bị Ph rượt đánh vào tay. Sau đó, Trung chở Ph và A, M chở Th chạy về Trạm xá xã TH để sơ cứu thương tích; X bị chém thì nằm bất động trên đường, sau đó tử vong.

Sau khi gây án, Trần Quốc Th, Huỳnh Thanh A, Phan Văn Út M và Nguyễn Văn Q đến Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an tỉnh Kiên Giang đầu thú.

* Tại Bản kết luận giám định pháp y về tử thi số 959/KL-KTHS ngày 16/12/2020 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Kiên Giang, kết luận đối với Lương Văn X (Bút lục 13-14):

1. Các kết quả chính:

- Vùng mặt trái có 03 vết thương, bờ mép sắc gọn, theo chiều hướng từ trên xuống, đứt vành tai trái, đứt cơ ức đòn chũm và xương góc hàm trái.

- Vết thương trên vai, bờ mép sắc gọn, sâu qua lớp cơ.

- Đường nách giữa bên trái có 03 vết thương, bờ mép sắc gọn, đứt xương bả vai trái, đứt nhóm cơ vùng hông trái.

- Cẳng tay phải có 02 vết thương bờ mép sắc gọn, sâu tới xương.

- Vết thương cổ tay phải, bờ mép vết thương sắc gọn, đứt lìa xương cổ tay và bó mạch cổ tay phải.

- Vết thương cổ tay trái, bờ mép vết thương sắc gọn, đứt lìa xương trụ.

- Vết thương mặt lưng bàn tay trái, bờ mép sắc gọn, sâu tới xương.

- Vết thương đùi phải, bờ mép vết thương sắc gọn, sâu tới xương, đứt nhóm cơ mặt ngoài đùi.

- Cẳng chân trái có 02 vết thương, bờ mép sắc gọn, chiều hướng từ trên xuống, đứt xương mác, đứt động mạch chày trước.

2. Nguyên nhân chết: Sốc mất máu cấp do đa vết thương.

3. Vật gây thương tích: Vết thương trên người Lương Văn X gây sốc mất máu dẫn đến tử vong có đặc điểm phù hợp với đặc điểm của vết thương do vật sắc, nặng gây nên.

* Tại Bản kết luận giám định pháp y về thương tích số 121/TgT ngày 30/5/2021 của Trung tâm pháp y tỉnh Kiên Giang kết luận thương tích của Nguyễn Thị Trúc Nh (Bút lục 366-367):

1. Dấu hiệu chính qua giám định:

- Sẹo phần mềm vùng đỉnh phải, vùng mũi, vùng lưng và vùng cẳng tay phải.

- Gãy chót mỏm gai đốt sống ngực XI (DI1).

- Mẻ (đứt) xương quay tay phải.

2. Tỷ lệ tổn thương cơ thể do thương tích gây nên hiện tại là: 16%.

3. Vật gây thương tích:

- Thương tích vùng đỉnh phải, vùng mũi, vùng lưng và vùng cẳng tay phải do vật sắc.

- Thương tích vùng mũi do vật có góc cạnh gây nên.

* Tại Bản kết luận giám định pháp y về thương tích số 207/TgT ngày 13/5/2021 của Trung tâm pháp y tỉnh Kiên Giang đối với Huỳnh Thanh A (Bút lục 97-98):

1. Dấu hiệu chính qua giám định:

- Sẹo phần mềm vùng thái dương đỉnh trái, ngực phải, cẳng tay trái, gót chân phải.

- Chấn thương sây sát da mặt trong bàn chân phải, hiện không còn dấu vết thương tích do đả thương.

2. Tỷ lệ tổn thương cơ thể do thương tích gây nên hiện tại là: 06%.

3. Vật gây thương tích:

- Thương tích vùng thái dương đỉnh trái, ngực phải do vật tày gây nên.

- Thương tích cẳng tay trái và gót chân phải do vật tày có cạnh sắc gây nên.

- Hiện tại mặt trong bàn chân phải không còn thấy dấu vết thương tích nên không có cơ sở xác định vật gây nên thương tích.

* Tại Bản kết luận giám định pháp y về thương tích số 219/TgT ngày 20/5/2021 của Trung tâm pháp y tỉnh Kiên Giang đối với Đỗ Hoài Ph (Bút lục 242-243):

1. Dấu hiệu chính qua giám định:

- Sẹo phần mềm bàn tay phải và sẹo phẫu thuật.

- Đứt mất ngón II tay phải và gãy mất một phần đầu xa xương bàn ngón II.

- Gãy xương đốt 1 (đốt gần) ngón III tay phải.

2. Tỷ lệ tổn thương cơ thể do thương tích gây nên hiện tại là: 25%.

3. Vật gây thương tích: vật sắc.

* Tại Bản kết luận giám định pháp y về thương tích số 208/TgT ngày 13/5/2021 của Trung tâm pháp y tỉnh Kiên Giang đối với Trần Quốc Th (Bút lục 153-154):

1. Dấu hiệu chính qua giám định:

- Sẹo phần mềm vùng tai trái.

2. Tỷ lệ tổn thương cơ thể do thương tích gây nên hiện tại là: 02%.

3. Vật gây thương tích: vật tày có cạnh.

* Tại Bản kết luận giám định pháp y về thương tích (bổ sung) số 237/BS ngày 22/4/2022 của Trung tâm pháp y tỉnh Kiên Giang đối với Huỳnh Thanh A (Bút lục 664-665):

1. Tỷ lệ tổn thương cơ thể do thương tích gây nên ở:

- Vùng thái dương đỉnh trái là 02% (Hai phần trăm);

- Vùng ngực phải là 01% (Một phần trăm);

- Vùng cẳng tay trái là 02% (Hai phần trăm);

- Vùng gót chân phải là 01% (Một phần trăm).

2. Vật chứng: Cây dao tự chế gửi giám định bổ sung gây được các thương tích trên.

* Việc thu giữ, xử lý vật chứng:

- 01 đôi dép quai kẹp màu trắng;

- 01 đôi dép nhựa màu trắng, quai ngang (dạng dép tổ ong);

- 01 đôi dép quai kẹp màu xanh-trắng, quai màu đen;

- 01 đôi dép màu đen, trên dép có chữ FENDI ROMA, quai bằng vải màu đen;

- 01 đôi dép quai ngang màu đen và trắng;

- 01 đôi dép quai kẹp màu xanh và đen, trên dép có chữ ALASKA;

- 01 chiếc dép quai kẹp màu đen;

- 08 đoạn gỗ gắn (củi), kích thước không đều nhau;

- 01 cái mũ lưỡi trai màu nâu, phần lưỡi trai màu trắng;

- 01 cái mũ lưỡi trai màu đen và màu nâu;

- 01 đoạn kim loại màu trắng hình chữ U dài 36,3cm, phần đầu có 02 lỗ khoan và có một cạnh bị cắt xéo, chiều dài đoạn bị cắt xéo là 04cm, độ rộng giữa hai cạnh hình chữ U là 4,5cm, khoảng cách giữa 02 lỗ khoan là 3,5cm, đoạn kim loại cân nặng 780gam.

- 01 cây đao có cán và lưỡi bằng kim loại màu trắng chiều dài 57cm, phần lưỡi đao dài 42cm, chỗ rộng nhất lưỡi đao 07cm, phần cán có 02 miếng gỗ ốp 02 bên, mũi nhọn. Phần gần mũi đao có nhiều vết mẻ, trên lưỡi đao có vết màu nâu đã khô ;

- 01 cây đao tự chế dài 70cm, cán bằng nhựa màu đen dài 39cm, đường kính 3,lcm, lưỡi bằng kim loại dài 3lcm, rộng 7,lcm, có một lưỡi sắc, phần lưỡi sắc bị biến dạng và mất một phần kim loại, mũi nhọn, trên lưỡi đao có dính chất màu nâu đỏ;

- 01 cây dao dài 53cm, một lưỡi sắc, một mũi nhọn, cán bằng nhựa màu đen hình ovan dài 11,5cm, rộng 3,5cm x 03cm, lưỡi bằng kim loại dài 41,5cm, rộng 3,3cm, lưỡi dao bị cong, trên lưỡi dao có dính chất màu nâu đỏ.

- 01 cây gỗ tròn dài l,63m, một đầu có đường kính 6,lcm, một đầu có đường kính 06cm, trên cây gỗ cách đầu có đường kính 6cm, vào 7,5cm có vết dập xước phần vỏ kích thước 5,5cm x l,5cm;

- 01 đoạn gỗ dài 1,14m đường kính 5,2cm và đường kính 04cm;

- 01 viên gạch kích thước 18cm x 08cm x 7,5cm, trên viên gạch có dính chất màu nâu đỏ;

- 01 viên đá kích thước 10cm x 08cm x 05cm, trên viên đá có dính chất màu nâu đỏ;

- 01 cái áo sơmi dài tay màu xanh đen;

- 01 cái áo sơmi gắn tay sọc ca rô;

- 01 cái áo thun nam màu trắng, tay ngắn, cổ tròn phía trước áo có số 2020 màu trắng nền đen, phía sau có dính nhiều vết màu nâu đỏ;

- 01 cái quần cụt màu đen;

- 01 quần sọt nam vải jean màu xanh, mặt trong lưng quần có chữ DKNY JEANS.

(Vật chứng trên đã được nhập kho vật chứng theo Lệnh nhập kho vật chứng số 43, ngày 13/7/2021 của Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an tỉnh Kiên Giang – Bút lục 31).

Tại bản Cáo trạng số: 05/CT–VKSTKG–P2 ngày 04/01/2022 của Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Kiên Giang đã truy tố các bị cáo Huỳnh Thanh A, Phan Văn Út M, Trần Quốc Th về tội “Giết người” theo quy định tại các điểm a, n khoản 1 Điều 123 Bộ luật Hình sự và còn truy tố đối với Đỗ Hoài Ph, Lê Thanh Tr1 và Nguyễn Văn Q;

Tại Bản án hình sự sơ thẩm số: 94/2022/HS-ST ngày 29/9/2022, Tòa án nhân dân tỉnh Kiên Giang đã quyết định:

Tuyên bố các bị cáo Huỳnh Thanh A (S), Phan Văn Út M, Trần Quốc Th phạm tội “Giết người”.

+ Căn cứ điểm a, n khoản 1 Điều 123; điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; điểm e khoản 1 Điều 52; Điều 17; Điều 58 và Điều 39 của Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017.

Xử phạt bị cáo Huỳnh Thanh A (S) tù chung thân; thời điểm chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 16/11/2020.

+ Căn cứ điểm a, n khoản 1 Điều 123; điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 58, Điều 17 và Điều 38 của Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017.

Xử phạt bị cáo Phan Văn Út M 15 (Mười lăm) năm tù; thời điểm chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 16/11/2020.

+ Căn cứ điểm a, n khoản 1 Điều 123; điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 58, Điều 17 và Điều 38 của Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017.

Xử phạt bị cáo Trần Quốc Th 15 (Mười lăm) năm tù; thời điểm chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 16/11/2020.

Ngoài ra, Tòa án cấp sơ thẩm còn quyết định về tội danh và hình phạt đối với Đỗ Hoài Ph, Lê Thanh Tr1 và Nguyễn Văn Q; về trách nhiệm dân sự, về xử lý vật chứng, về án phí hình sự sơ thẩm và quyền kháng cáo theo quy định pháp luật.

Ngày 30/9/2022, bị cáo Huỳnh Thanh A có đơn kháng cáo xin khai báo lại đúng sự thật và xin được giảm nhẹ hình phạt.

Ngày 11/10/2022, bà Nguyễn Thị Trúc Nh và bà Huỳnh Thị V là người đại diện hợp pháp của bị hại Lương Văn X có cùng đơn kháng cáo yêu cầu tăng hình phạt đối với 03 bị cáo: đề nghị tử hình đối với bị cáo Huỳnh Thanh A và đề nghị tăng hình phạt đối với bị cáo Phan Văn Út M và bị cáo Trần Quốc Th.

Tại phiên tòa phúc thẩm:

Bị cáo Huỳnh Thanh A xin rút kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt.

Bà Nguyễn Thị Trúc Nh và bà Huỳnh Thị V vẫn giữ nguyên kháng cáo yêu cầu tăng hình phạt đối với bị cáo Phan Văn Út M và Trần Quốc Th và xử tử hình đối với bị cáo Huỳnh Thanh A.

Bà Nguyễn Thị Trúc Nh trình bày lý do kháng cáo: Tổng cộng bị cáo A đã chém bị hại X và bà 22 nhát dao, hậu quả dẫn đến cái chết của chồng bà là ông Lương Văn X, còn bản thân bà không chết là nằm ngoài ý muốn của bị cáo A. Bà và chồng bà hoàn toàn không biết và không có mâu thuẫn gì với bị cáo A, nhưng bị cáo A vẫn xuống tay một cách dã man, giết nhiều người và phạm tội liên tục. Do đó, mức án tù chung thân mà Tòa án cấp sơ thẩm đã quyết định đối với bị cáo A là chưa tương xứng với tính chất, mức độ và hành vi phạm tội của bị cáo A, đề nghị Hội đồng xét xử phúc thẩm xử phạt bị cáo A hình phạt tử hình. Đối với bị cáo Phan Văn Út M và Trần Quốc Th có hành vi liên quan trực tiếp đến cái chết của chồng bà, nên mức án 15 năm tù cũng chưa tương xứng, đề nghị Hội đồng xét xử phúc thẩm tăng nặng hình phạt đối với bị cáo M và Th.

Kiểm sát viên tham gia phiên tòa phúc thẩm phát biểu quan điểm của Viện kiểm sát:

Tòa án cấp sơ thẩm đã truy tố và xét xử các bị cáo Huỳnh Thanh A, Phan Văn Út M và Trần Quốc Th phạm tội “Giết người” theo quy định tại các điểm a, n khoản 1 Điều 123 của Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017 là phù hợp với các chứng cứ của vụ án, có căn cứ, đúng quy định pháp luật.

Hành vi phạm tội của các bị cáo là đặc biệt nguy hiểm cho xã hội, đã trực tiếp xâm phạm đến tính mạng, sức khỏe của người khác một cách trái pháp luật, gây đau thương mất mát lớn lao cho gia đình người bị hại, gây ảnh hưởng lâu dài tới sức khỏe của bị hại Nh và gây mất an ninh trật tự tại địa phương.

Trong vụ án này, bị cáo A là người giữ vai trò chính, sau khi nghe được sự việc thì đi về nhà lấy hung khí cùng với các bị cáo khác đi tìm người bị hại, bị cáo là người hung hăng nhất, hành vi phạm tội rất dã man, tàn bạo, trực tiếp chém bị hại X 19 nhát. Bị cáo M và bị cáo Th giữ vai trò đồng phạm tích cực với bị cáo A. Tuy nhiên, do các bị cáo A, M và Th lần đầu phạm tội và có nhiều tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự nên Tòa án cấp sơ thẩm đã xử phạt bị cáo A tù chung thân và xử phạt bị cáo M và bị cáo Th cùng với mức án 15 năm tù là phù hợp, tương xứng với hành vi phạm tội của các bị cáo, đủ đảm bảo giáo dục cải tạo riêng và răn đe, phòng ngừa chung. Vì vậy, đề nghị Hội đồng xét xử phúc thẩm không chấp nhận kháng cáo yêu cầu tăng hình phạt đối với các bị cáo Phan Văn Út M, Trần Quốc Th và Huỳnh Thanh A của người đại diện hợp pháp của bị hại Lương Văn X là các bà Nguyễn Thị Trúc Nh và Huỳnh Thị V, giữ nguyên quyết định về tội danh và hình phạt của bản án sơ thẩm đối với các bị cáo A, M và Th.

Luật sư Dương Văn Đ bào chữa cho bị cáo Huỳnh Thanh A trình bày: Tòa án cấp sơ thẩm xét xử bị cáo Huỳnh Thanh A phạm tội “Giết người” theo quy định tại các điểm a, n khoản 1 Điều 123 Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017, là phù hợp, đúng quy định pháp luật. Tuy nhiên, trong vụ án này, sau khi phạm tội, bị cáo A đã ra tự thú chứ không phải là đầu thú; thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải; tác động gia đình bồi thường, khắc phục hậu quả cho gia đình bị hại, là các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại các điểm b, r, s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự. Thêm nữa, trước khi phạm tội, bị cáo A có nhân thân tốt, chưa có tiền án, tiền sự; sau khi xét xử sơ thẩm, bị cáo A tiếp tục tác động gia đình nộp 28.000.000 đồng để bồi thường phần tiền còn lại cho gia đình bị hại theo quyết định của bản án sơ thẩm. Tại phiên tòa phúc thẩm, bị cáo A đã thừa nhận hành vi phạm tội và nhận thức được mức hình phạt mà Tòa án cấp sơ thẩm đã quyết định đối với bị cáo là phù hợp nên bị cáo đã xin rút kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt. Vì vậy, đề nghị Hội đồng xét xử phúc thẩm không chấp nhận kháng cáo của người đại diện hợp pháp của bị hại Lương Văn X là các bà Nguyễn Thị Trúc Nh và Huỳnh Thị V yêu cầu xử tử hình đối với bị cáo A; giữ nguyên quyết định về tội danh và hình phạt của bản án sơ thẩm đối với bị cáo A.

Luật sư Hoàng Quốc V bào chữa cho bị cáo Phan Văn Út M trình bày: Nguyên nhân và điều kiện phạm tội của bị cáo Phan Văn Út M và các bị cáo khác trong vụ án này, xuất phát từ hành vi gây gổ của bị hại Lương Văn X gây ra. Bị cáo M phạm tội với vai trò đồng phạm với bị cáo A nhưng không trực tiếp gây ra hậu quả. Bị cáo M có tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự như bản án sơ thẩm đã xác định và áp dụng cho bị cáo. Mức án 15 năm tù mà Tòa án cấp sơ thẩm đã xử phạt bị cáo M là có phần nghiêm khắc với hành vi phạm tội của bị cáo. Vì bị cáo M có hoàn cảnh rất khó khăn, bị cáo là lao động chính trong gia đình phải nuôi 02 con nhỏ nhưng chưa được Tòa án cấp sơ thẩm xem xét khi lượng hình. Vì vậy, đề nghị Hội đồng xét xử phúc thẩm không chấp nhận kháng cáo yêu cầu tăng hình phạt đối với bị cáo Phan Văn Út M của người đại diện hợp pháp của bị hại Lương Văn X là các bà Nguyễn Thị Trúc Nh và Huỳnh Thị V, giữ nguyên quyết định về tội danh và hình phạt của bản án sơ thẩm đối với bị cáo M.

Luật sư Nguyễn D bào chữa cho bị cáo Trần Quốc Th trình bày:

Luật sư đồng ý với quan điểm của Kiểm sát viên tham gia phiên tòa đề nghị Hội đồng xét xử phúc thẩm không chấp nhận kháng cáo yêu cầu tăng hình phạt đối với bị cáo Trần Quốc Th của các bà Nguyễn Thị Trúc Nh và Huỳnh Thị V là người đại diện hợp pháp của bị hại Lương Văn X. Tuy nhiên, sau khi xét xử sơ thẩm, mặc dù không có kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt, nhưng bị cáo Th vẫn tiếp tục tác động gia đình nộp 27.400.000 đồng để bồi thường phần tiền còn lại cho gia đình bị hại theo quyết định của bản án sơ thẩm, vì đây là tình tiết mới nên đề nghị Hội đồng xét xử phúc thẩm xem xét áp dụng giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo Th.

Luật sư Phạm Văn C trình bày ý kiến, quan điểm về kháng cáo của người đại diện hợp pháp của bị hại Lương Văn X là bà Nguyễn Thị Trúc Nh và Huỳnh Thị V:

Đối với bị cáo Huỳnh Thanh A: Bị cáo A không có mâu thuẫn gì với vợ chồng Lương Văn X, Nguyễn Thị Trúc Nh. A chỉ nghe nói X đánh người khác, không phải là người nhà của A, nhưng A đã kêu gọi bạn bè người quen lập nhóm đi tìm đánh X. Ngay khi gặp, A đã lao vào chém vợ của X là Nguyễn Thị Trúc Nh, bà Nh không chết là ngoài ý muốn của A. Sau khi chém bà Nh, A tiếp tục chém Lương Văn X tổng cộng 19 nhát, hậu quả X bị A chém tử vong. Với hành vi phạm tội như trên, Luật sư cho rằng, mức án tù chung thân mà Tòa án cấp sơ thẩm đã quyết định đối với bị cáo A là nhẹ, chưa tương xứng với tính chất, mức độ và hành vi phạm tội của bị cáo A, nên đề nghị Hội đồng xét xử phúc thẩm chấp nhận kháng cáo của người đại diện hợp pháp của bị hại Lương Văn X là bà Nh và bà V, tuyên xử bị cáo A tử hình mới tương xứng với hành vi phạm tội của bị cáo, đảm bảo tính nghiêm minh của pháp luật.

Đối với bị cáo Phan Văn Út M: Mâu thuẫn giữa bị cáo M và Lương Văn X xảy ra là va chạm nhỏ nhặt trong đời sống sinh hoạt hàng ngày và đã được hai bên giải quyết xong, nhưng M vẫn truyền đạt thông tin cho bạn bè người quen để cùng nhau tìm đánh bị hại X và bị hại Nh là 02 vợ chồng. Như vậy, trong vụ án này, bị cáo Phan Văn Út M là người khởi xướng, chủ mưu nên mức hình phạt 15 năm tù mà Tòa án cấp sơ thẩm đã xử phạt đối với bị cáo M là nhẹ, không tương xứng với hành vi phạm tội của bị cáo. Do đó, đề nghị Hội đồng xét xử phúc thẩm chấp nhận kháng cáo của người đại diện hợp pháp của bị hại Lương Văn X là bà Nh và bà V, sửa bản án sơ thẩm theo hướng tăng mức hình phạt đối với bị cáo M.

Đối với bị cáo Trần Quốc Th: Bị cáo Th là người trực tiếp nghe điện thoại nhận thông báo từ bị cáo M về việc X xảy ra mâu thuẫn với M và Hiếu Tr1. Bị cáo không can ngăn mà tiếp tục thông báo lại cho các bị cáo khác trong nhóm cùng nhau tìm đánh 02 vợ chồng bị hại X, bị hại Nh. Trong vụ án này, bị cáo Th tham gia với vai trò đồng phạm tích cực với bị cáo A. Mức hình phạt 15 năm tù mà Tòa án cấp sơ thẩm đã xử phạt đối với bị cáo Th cũng là nhẹ, không tương xứng với hành vi phạm tội của bị cáo. Do đó, đề nghị Hội đồng xét xử phúc thẩm chấp nhận kháng cáo của người đại diện hợp pháp của bị hại Lương Văn X là bà Nh và bà V, sửa bản án sơ thẩm theo hướng tăng mức hình phạt đối với bị cáo Th.

Trong phần đối đáp, Kiểm sát viên tham gia phiên tòa trình bày:

Tại phiên tòa phúc thẩm, bị cáo Huỳnh Thanh A đã tự nguyện xin rút kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt, nên đề nghị Hội đồng xét xử phúc thẩm đình chỉ xét xử phúc thẩm đối với kháng cáo của bị cáo A theo quy định tại Điều 342 và khoản 2 Điều 348 Bộ luật Tố tụng hình sự.

Mặc dù, sau khi xét xử sơ thẩm, bị cáo Trần Quốc Th đã có tác động gia đình nộp 27.400.000 đồng để bồi thường phần tiền còn lại cho gia đình bị hại theo quyết định của bản án sơ thẩm, nhưng không đủ cơ sở để chấp nhận quan điểm của Luật sư bào chữa cho bị cáo Th đề nghị Hội đồng xét xử phúc thẩm giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo Th.

Luật sư Phạm Văn C trình bày ý kiến, quan điểm về kháng cáo của người đại diện hợp pháp của bị hại Lương Văn X là bà Nguyễn Thị Trúc Nh và Huỳnh Thị V yêu cầu tăng hình phạt đối với các bị cáo Huỳnh Thanh A, Phan Văn Út M và Trần Quốc Th là không có cơ sở, nên Viện kiểm sát giữ nguyên quan điểm đề nghị Hội đồng xét xử phúc thẩm không chấp nhận; giữ nguyên quyết định về tội danh và hình phạt của bản án sơ thẩm đối với các bị cáo A, M và Th.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Đơn kháng cáo của bị cáo Huỳnh Thanh A và đơn kháng cáo của bà Huỳnh Thị V và bà Nguyễn Thị Trúc Nh là người đại diện hợp pháp của bị hại nộp trong thời hạn và đúng thủ tục theo quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự nên hợp lệ.

Tuy nhiên, tại phiên tòa phúc thẩm, bị cáo Huỳnh Thanh A đã tự nguyện xin rút kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt, nên Hội đồng xét xử phúc thẩm, căn cứ vào Điều 342 và khoản 2 Điều 348 Bộ luật Tố tụng hình sự, đình chỉ xét xử phúc thẩm đối với kháng cáo của bị cáo A, theo như quan điểm đề nghị của Kiểm sát viên tham gia phiên tòa phúc thẩm.

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu, chứng cứ trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử phúc thẩm xét kháng cáo yêu cầu tăng nặng mức hình phạt đối với các bị cáo Huỳnh Thanh A, Phan Văn Út M và Trần Quốc Th của bà Huỳnh Thị V và bà Nguyễn Thị Trúc Nh là những người đại diện hợp pháp của bị hại Lương Văn X:

[1] Trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử vụ án ở giai đoạn sơ thẩm, Cơ quan Cảnh sát điều tra, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân, Kiểm sát viên đã thực hiện đúng thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Do vậy, các hành vi, các quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng là hợp pháp. Quá trình điều tra và tại phiên tòa sơ thẩm, các bị cáo Huỳnh Thanh A, Phan Văn Út M và Trần Quốc Th đã được Luật sư bào chữa đúng theo quy định pháp luật.

[2] Về tội danh:

Tại phiên tòa phúc thẩm, các bị cáo đã thừa nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình. Lời khai nhận của các bị cáo phù hợp với nhau và phù hợp với lời khai tại phiên tòa sơ thẩm, tại Cơ quan điều tra, phù hợp với các Kết luận giám định thương tích, Bản khám nghiệm tử thi, hiện trường vụ án, vật chứng vụ án, phù hợp với lời khai của những người làm chứng và các chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án, Hội đồng xét xử phúc thẩm đủ cơ sở xác định:

Vào khoảng hơn 21 giờ ngày 15/11/2020, tại đoạn đường 30/4 thuộc ấp PH, xã PT, thành phố RG, tỉnh Kiên Giang, xảy ra cuộc ẩu đả, đánh lộn giữa nhóm của Lương Văn X và nhóm của Huỳnh Thanh A, trong đó có Phan Văn Út M, Trần Quốc Th và Đỗ Hoài Ph. Hậu quả là A bị X chém trúng vào đầu và tay gây thương tích 06%; Đỗ Hoài Ph bị X chém gây thương tích 25%; X thì bị A chém tử vong; Nguyễn Thị Trúc Nh (vợ của X) bị A chém vào đầu, lưng gây thương tích 16%; trong cuộc ẩu đả, Th còn bị Nguyễn Văn Q là người trong nhóm của X dùng khúc cây ném gây thương tích 02%.

Tòa án cấp sơ thẩm xác định, hành vi của bị cáo Huỳnh Thanh A dùng đao trực tiếp chém nhiều nhát vào người bị hại Lương Văn X, khiến X tử vong và chém nhiều nhát vào người bị hại Trúc Nh gây thương tích, thể hiện bị cáo đã có ý thức tước đoạt mạng sống của bị hại X và Nh, việc bị hại Nh không chết là ngoài ý thức chủ quan của bị cáo A. Các bị cáo Phan Văn Út M, Trần Quốc Th cùng những người trong nhóm của A đi tìm và tham gia đánh nhau với nhóm của Lương Văn X gây ra hậu quả như trên. Do đó, Tòa án cấp sơ thẩm đã quy kết các bị cáo Huỳnh Thanh A, Phan Văn Út M và Trần Quốc Th phạm tội “Giết người” theo quy định tại các điểm a, n khoản 1 Điều 123 Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017, là có căn cứ, đúng người, đúng tội, đúng quy định pháp luật.

[3] Về hình phạt:

Hành vi phạm tội của các bị cáo là đặc biệt nguy hiểm cho xã hội, thể hiện bản chất hung hăng, côn đồ. Nguyên nhân dẫn đến vụ án xảy ra là xuất phát từ những va chạm nhỏ nhặt trong cuộc sống hàng ngày, nhưng muốn thể hiện sức mạnh và tạo dựng uy tín của cá nhân theo kiểu xã hội đen đối với bạn bè và xã hội, các bị cáo đã lập nhóm mang theo hung khí rất sắc bén, rất nguy hiểm, mang tính sát thương rất cao là dao tự chế, cây đao, đoạn kim loại đi tìm gặp và sử dụng các hung khí này để đánh nhau bất chấp hậu quả xảy ra.

[3.1] Trong vụ án này, đối với bị cáo Huỳnh Thanh A, mặc dù trước đó giữa bị cáo A và người bị hại không hề có mâu thuẫn gì và khi lên quán của M tìm X thì nhóm của X đã về, nhưng bị cáo vẫn rủ rê, kêu gọi các bị cáo khác chạy xe đuổi theo nhóm X, tới nơi thì các bị cáo cầm hung khí đã chuẩn bị sẵn cùng xông vào tấn công bên nhóm bị hại X. Bị cáo A là người giữ vai trò chính, là người trực tiếp thực hiện hành vi dùng dao chém rất nhiều nhát vào người bị hại X (19 nhát), làm X chết ngay tức khắc tại chỗ. Chưa dừng lại ở đó, sau khi chém X xong, bị cáo A quay lại tiếp tục chém bị hại Nh (vợ của X) nhiều nhát vào lưng, đầu và tay của Nh, gây thương tích với tỷ lệ 16%, ảnh hưởng lâu dài tới sức khỏe của bị hại Nh, việc bị hại Nh may mắn không chết là ngoài ý thức chủ quan của bị cáo. Quá trình thực hiện hành vi phạm tội, bị cáo A thể hiện rõ sự hung hăng, quyết liệt, quyết tâm phạm tội đến cùng nên còn bị áp dụng tình tiết tăng nặng quy định tại điểm e khoản 1 Điều 52 Bộ luật hình sự.

Tuy nhiên, trước khi phạm tội, bị cáo A có nhân thân tốt, chưa có tiền án, tiền sự; sau khi phạm tội, bị cáo A đã ra đầu thú; thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải; tác động gia đình bồi thường, khắc phục hậu quả cho gia đình bị hại, là các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự được quy định tại các điểm b, s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự. Mặt khác, trong vụ án này, bị cáo A cũng bị X chém trúng vào đầu và tay gây thương tích 06% nên đồng thời cũng là bị hại trong vụ án. Vì vậy, Tòa án cấp sơ thẩm đã xử phạt bị cáo A tù chung thân là phù hợp, tương xứng với hành vi phạm tội của bị cáo, đủ đảm bảo giáo dục cải tạo riêng và răn đe, phòng ngừa chung.

Thêm nữa, sau khi xét xử sơ thẩm, bị cáo A tiếp tục tác động gia đình nộp 28.000.000 đồng theo Biên lai thu số: 0008703 ngày 13/3/2023 của Cục Thi hành án dân sự tỉnh Kiên Giang, để bồi thường phần tiền còn lại cho gia đình bị hại theo quyết định của bản án sơ thẩm. Vì vậy, Hội đồng xét xử phúc thẩm nhận thấy kháng cáo của người đại diện hợp pháp của bị hại Lương Văn X là các bà Nguyễn Thị Trúc Nh và Huỳnh Thị V yêu cầu xử tử hình đối với bị cáo A là không có cơ sở.

[3.2] Đối với bị cáo Phan Văn Út M và bị cáo Trần Quốc Th:

Trong vụ án này, bị cáo M là người khởi xướng, truyền đạt thông tin cho các bị cáo còn lại. Bị cáo M đã gọi điện cho Đỗ Hoài Ph (do bị cáo Th nghe điện thoại) thông báo việc X đánh Hiếu Tr1 và quậy tại quán của M; sau đó Th nói lại cho Ph và A nghe, thì A mới về nhà lấy hung khí và cùng nhau đi tìm X để gây sự đánh nhau. Bị cáo Th, sau khi truyền đạt thông tin cho cả nhóm cùng nghe thì Th tham gia chở A đến tìm nhóm X và đến nơi cầm khúc cây cùng xông vào đánh nhau với nhóm của X và tham gia rượt đánh bị cáo Q. Tòa án cấp sơ thẩm xác định, các bị cáo Phan Văn Út M và Trần Quốc Th là đồng phạm giúp sức cho bị cáo Huỳnh Thanh A về hành vi giết bị hại X và bị hại Nh, là đúng.

Tuy nhiên, trong quá trình giải quyết vụ án, các bị cáo Huỳnh Thanh A, Phan Văn Út M và Trần Quốc Th đã thừa nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình, tỏ thái độ thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải; đã tác động gia đình bồi thường, khắc phục hậu quả cho gia đình bị hại; các bị cáo có nhân thân tốt, chưa có tiền án, tiền sự; sau khi phạm tội, bị cáo M và bị cáo Th đã ra đầu thú. Vì vậy, Tòa án cấp sơ thẩm đã xử phạt bị cáo M và bị cáo Th cùng với mức án 15 năm tù là phù hợp, tương xứng với hành vi phạm tội của các bị cáo, đủ đảm bảo giáo dục cải tạo riêng và răn đe, phòng ngừa chung.

Thêm nữa, sau khi xét xử sơ thẩm, bị cáo Th tiếp tục tác động gia đình nộp 27.400.000 đồng theo Biên lai thu số: 0008739 ngày 22/3/2023 của Cục Thi hành án dân sự tỉnh Kiên Giang, để bồi thường phần tiền còn lại cho gia đình bị hại theo quyết định của bản án sơ thẩm. Vì vậy, Hội đồng xét xử phúc thẩm nhận thấy kháng cáo của người đại diện hợp pháp của bị hại Lương Văn X là các bà Nguyễn Thị Trúc Nh và Huỳnh Thị V yêu cầu tăng nặng mức hình phạt đối với bị cáo M và bị cáo Th là không có cơ sở.

[4] Tại những nhận định nêu trên, Hội đồng xét xử phúc thẩm chấp nhận ý kiến, quan điểm đề nghị của Kiểm sát viên tham gia phiên tòa phúc thẩm, không chấp nhận kháng cáo yêu cầu tăng nặng hình phạt đối với các bị cáo Huỳnh Thanh A, Phan Văn Út M và Trần Quốc Th của bà Huỳnh Thị V và bà Nguyễn Thị Trúc Nh là những người đại diện hợp pháp của bị hại Lương Văn X; giữ nguyên quyết định về tội danh và hình phạt của bản án sơ thẩm đối với các bị cáo A, M và Th.

[5] Những ý kiến, quan điểm đề nghị của Luật sư tại phiên tòa phúc thẩm; Hội đồng xét xử phúc thẩm nhận thấy;

[5.1] Quan điểm của Luật sư bào chữa cho bị cáo Huỳnh Thanh A cho rằng, trong vụ án này, sau khi phạm tội, bị cáo A đã ra tự thú; quan điểm của Luật sư bào chữa cho bị cáo Trần Quốc Th đề nghị giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo Th, là những quan điểm không phù hợp với nhận định của Hội đồng xét xử phúc thẩm nên không được chấp nhận. Những ý kiến, quan điểm đề nghị còn lại của các Luật sư bào chữa cho bị cáo A và bị cáo Th tại phiên tòa phúc thẩm phù hợp với phân tích và nhận định nêu trên, nên được Hội đồng xét xử phúc thẩm chấp nhận phần phù hợp này.

[5.2] Những ý kiến, quan điểm đề nghị của Luật sư bào chữa cho bị cáo Phan Văn Út M tại phiên tòa phúc thẩm phù hợp với phân tích và nhận định nêu trên, nên được Hội đồng xét xử phúc thẩm chấp nhận.

[5.3] Những ý kiến, quan điểm đề nghị của Luật sư bảo vệ kháng cáo của người đại diện hợp pháp của bị hại Lương Văn X là bà Nguyễn Thị Trúc Nh và Huỳnh Thị V tại phiên tòa phúc thẩm do không phù hợp với phân tích và nhận định nêu trên, nên Hội đồng xét xử phúc thẩm không chấp nhận.

[6] Về án phí hình sự phúc thẩm: Bị cáo Huỳnh Thanh A, theo quy định tại điểm g khoản 2 Điều 23 Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội, không phải nộp.

[7] Các quyết định khác của án bản án sơ thẩm không có kháng cáo, không bị kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị theo quy định.

[8] Số tiền 28.000.000 đồng do gia đình bị cáo Huỳnh Thanh A đã tự nguyện nộp để thi hành phần trách nhiệm dân sự mà bị cáo A phải bồi thường thiệt hại cho gia đình bị hại theo quyết định của bản án sơ thẩm (do bà Nguyễn Thị M đứng tên người nộp tiền) tại Biên lai thu số: 0008703 ngày 13/3/2023 của Cục Thi hành án dân sự tỉnh Kiên Giang, sẽ được cấn trừ trong việc thi hành án đối với bị cáo Huỳnh Thanh A trong vụ án này theo quy định pháp luật.

Số tiền 27.400.000 đồng do gia đình bị cáo Trần Quốc Th đã tự nguyện nộp để thi hành phần trách nhiệm dân sự mà bị cáo Th phải bồi thường thiệt hại cho gia đình bị hại theo quyết định của bản án sơ thẩm (do bà Phạm Thị Ph đứng tên người nộp tiền) theo Biên lai thu số: 0008739 ngày 22/3/2023 của Cục Thi hành án dân sự tỉnh Kiên Giang, sẽ được cấn trừ trong việc thi hành án đối với bị cáo Trần Quốc Th trong vụ án này theo quy định pháp luật.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

1- Căn cứ vào Điều 342 và khoản 2 Điều 348 Bộ luật Tố tụng hình sự Đình chỉ xét xử phúc thẩm đối với kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt của bị cáo Huỳnh Thanh A.

2- Căn cứ vào điểm a khoản 1 Điều 355 và Điều 356 Bộ luật Tố tụng hình sự.

Không chấp nhận kháng cáo yêu cầu tăng nặng mức hình phạt đối với các bị cáo Huỳnh Thanh A, Phan Văn Út M và Trần Quốc Th của bà Huỳnh Thị V và bà Nguyễn Thị Trúc Nh là những người đại diện hợp pháp của bị hại Lương Văn X; giữ nguyên Bản án hình sự sơ thẩm số: 94/2022/HS-ST ngày 29/9/2022 của Tòa án nhân dân tỉnh Kiên Giang:

Tuyên bố các bị cáo Huỳnh Thanh A (S), Phan Văn Út M, Trần Quốc Th phạm tội “Giết người”.

2.1. Căn cứ điểm a, n khoản 1 Điều 123; điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; điểm e khoản 1 Điều 52; Điều 17; Điều 58 và Điều 39 của Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017.

Xử phạt bị cáo Huỳnh Thanh A (S) tù chung thân; thời điểm chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 16/11/2020.

Tiếp tục tạm giam bị cáo Huỳnh Thanh A để đảm bảo thi hành án.

2.2. Căn cứ điểm a, n khoản 1 Điều 123; điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 58, Điều 17 và Điều 38 của Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017.

Xử phạt bị cáo Phan Văn Út M 15 (mười lăm) năm tù; thời điểm chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 16/11/2020.

Tiếp tục tạm giam bị cáo Phan Văn Út M để đảm bảo thi hành án.

2.3. Căn cứ điểm a, n khoản 1 Điều 123; điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 58, Điều 17 và Điều 38 của Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017.

Xử phạt bị cáo Trần Quốc Th 15 (mười lăm) năm tù; thời điểm chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 16/11/2020.

Tiếp tục tạm giam bị cáo Trần Quốc Th để đảm bảo thi hành án.

3- Về án phí hình sự phúc thẩm:

Bị cáo Huỳnh Thanh A không phải nộp án phí hình sự phúc thẩm.

4- Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, không bị kháng nghị đã có hiệu lực thi hành theo quy định pháp luật.

Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án là ngày 27 tháng 3 năm 2023./.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

329
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội giết người số 153/2023/HS-PT

Số hiệu:153/2023/HS-PT
Cấp xét xử:Phúc thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân cấp cao
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 27/03/2023
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về