Bản án về tội giết người số 15/2024/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH CÀ MAU

BẢN ÁN 15/2024/HS-ST NGÀY 05/03/2024 VỀ TỘI GIẾT NGƯỜI

Ngày 05 tháng 3 năm 2024, tại trụ sở Toà án nhân dân tỉnh C xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số 06/2024/TLST-HS ngày 30 tháng 01 năm 2024 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 07/2024/QĐXXST-HS ngày 16 tháng 02 năm 2024 đối với các bị cáo:

1. Nguyễn Vủ Ph (tên gọi khác là Ph Dự), sinh ngày 12/9/1988 tại huyện T, tỉnh C; nơi đăng ký nhân khẩu thường trú: Ấp M, xã Th, huyện Th, tỉnh C; chỗ ở khác: Khóm 3, thị trấn T, huyện T, tỉnh C; nghề nghiệp: Làm vuông; trình độ học vấn: 12/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Nguyễn Văn D và bà Đặng Hồng X; vợ tên Trần Huệ Đ (đã ly hôn), chưa có con; tiền án: Không; tiền sự: Ngày 04/01/2021 bị Chủ tịch Uỷ ban nhân dân thị trấn T ra Quyết định xử phạt 3.500.000 đồng do vi phạm hành chính trong lĩnh vực an ninh trật tự, an T1 xã hội, chưa chấp hành xong; bị tạm giữ từ ngày 25/6/2023; bị tạm giam từ ngày 04/7/2023 đến nay. Bị cáo có mặt.

2. D Tấn H, sinh ngày 01/01/1990 tại huyện T, tỉnh C; nơi cư trú: Ấp M, xã Th, huyện Th, tỉnh C; nghề nghiệp: Làm vuông; trình độ học vấn: 9/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông D Văn H và bà Nguyễn Thị K; vợ tên Nguyễn Thị Th (đã ly hôn) và có 01 con; tiền án: Không; tiền sự: Ngày 28/8/2021, bị Chủ tịch Uỷ ban nhân dân xã T ra Quyết định áp dụng biện pháp giáo dục tại xã, phường, thị trấn trong thời hạn 03 tháng về hành vi nghiện ma túy, chấp hành xong ngày 28/11/2021; bị tạm giữ từ ngày 25/6/2023; bị tạm giam từ ngày 04/7/2023 đến nay. Bị cáo có mặt.

- Người bào chữa cho các bị cáo:

1. Người bào chữa cho bị cáo Ph: Luật sư Phan Khang D của Văn phòng Luật sư Mũi C thuộc Đoàn Luật sư tỉnh C. Luật sư có mặt.

2. Người bào chữa cho bị cáo H: Luật sư Nguyễn Văn N của Văn phòng Luật sư A Sáng thuộc Đoàn Luật sư tỉnh C. Luật sư có mặt.

- Bị hại: Trần Quốc T, sinh ngày 25/9/1990 (đã chết).

- Người đại diện hợp pháp của bị hại:

1. Ông Trần Văn H2, sinh năm 1950 và bà Lê Ngọc A (cha mẹ của bị hại).

Nơi cư trú: Ấp N, xã Tr, huyện Th, tỉnh C.

2. Cháu Trần Nguyễn Nhã V, sinh ngày 10/12/2020 (con ruột bị hại).

Người đại diện hợp pháp của cháu V: Chị Nguyễn Trần Thảo Ng, sinh ngày 01/6/2002 (mẹ ruột cháu V, chị Ng và bị hại đã ly hôn).

Bà A và chị Ng ủy quyền cho ông H2. Ông H2 có mặt.

- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: Ông Trần Quốc Kh, sinh năm 1976 (có mặt).

Nơi cư trú: Ấp L, xã T, huyện Th, tỉnh C.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Vào khoảng 20 giờ ngày 24/6/2023, Nguyễn Vủ Ph cùng với D Tấn H, Nguyễn Thanh Nh, Lương Phong H3, Nguyễn Trí Th đang nhậu và hát Karaoke ở phòng số 2, Karaoke N - thuộc khóm H, thị trấn Th, huyện Th, tỉnh C, thì có Trần Quốc T (T Chồn) đi ngang cửa phòng chửi thề, nên xảy ra cự cãi với Nguyễn Vủ Ph, được mọi người can ngăn. Sau đó, nhóm của Ph tính tiền ra về. Lúc này, tại phòng số 4 quán Karaoke N có Trần Quốc T, Nguyễn Thanh T1, Võ Thanh L, Trần Duy Kh (Tèo), Nguyễn Ngọc Gi (Nhi) đang nhậu và hát Karaoke trong phòng.

Sau khi về đến nhà của H3 ở khóm 3, thị trấn T, huyện T - cách quán Karaoke N khoảng 1.500 mét, Ph nhớ lại việc Trần Quốc T chửi thề với Ph ở quán nên muốn quay lại đánh T. Ph đi bộ về nhà Ph (nhà Ph cách nhà H3 khoảng 300 mét) để lấy cây chỉa 07 mũi, dài 1,57m, mũi chỉa làm bằng kim loại dài 0,21m và cây dao tự chế dài 1,46m, cán dao bằng kim loại dài 1,21m, lưỡi dao bằng kim loại dài 25cm rồi đi lại nhà H3. Lúc này, Ph điện thoại qua Zalo cho H, kêu H quay lại nhà H3 để chở Ph đi đánh T với Ph, H đồng ý.

H điều khiển xe mô tô mang biển số 69K2 – xxxx chạy đến phía trước nhà H3 để rước Ph rồi đi đến quán N. Khi đến quán, Ph đưa cho H cầm cây chỉa, còn Ph cầm cây dao tự chế rồi cả hai đi vào phòng số 4 để tìm T. Ph xông vào phòng chửi thề “ĐM nãy thằng nào kiếm tao”. Lúc này trong phòng số 4 gồm có Trần Quốc T, Trần Duy Kh, Nguyễn Thanh T1, Võ Thanh L. Kh đứng lên can ngăn, đẩy Ph, H ra ngoài và T cũng đi theo sau.

Khi đi ra ngoài, giữa T với Ph và H tiếp tục xảy ra cự cãi và xô xát với nhau.

Ph dùng dao tự chế chém T 4 đến 5 nhát nH T né được nên không trúng. T xông đến giật cây dao trên tay của Ph nhưng không được. Lúc này, Ph nói với H “Chĩa chết mẹ nó”, thì H liền dùng chỉa đâm nhiều nhát về phía T nhưng không xác định được trúng đâu trên cơ thể của T. Hai bên xô xát với nhau một lúc thì được mọi người can ra. Ph bỏ đi ra phía lộ, còn H lên xe định điều khiển xe chạy đi, lúc này trên tay trái H cầm cây chỉa, tay phải cầm cây dao - loại dao Thái Lan có chiều dài 26,2cm, cán bằng nhựa dài 11,2cm, lưỡi dao bằng kim loại dài 15cm (cây dao H để sẵn ở baga xe). Trong lúc H đang khởi động xe, thì T từ phía sau xông đến giật lấy cây chỉa trên tay trái của H nhưng không được, T dùng tay phải đánh vào vùng đầu của H một cái và T bị ngã về phía trước đầu xe của H, H liền dùng dao Thái Lan đang cầm trên tay phải đâm vào vùng cổ bên phải của T 01 nhát. Cùng lúc này, Ph từ phía ngoài lộ đi vào dùng dao tự chế chém, còn H dùng chỉa đâm về phía T nhưng không xác định trúng đâu trên cơ thể của T. T chạy lùi về phía sau quán, H tiếp tục dùng chỉa đâm trúng vào hông bên trái của T một nhát, Kh chạy đến can ngăn nên Ph và H điều khiển xe bỏ đi, còn T được đưa đến Trung tâm Y tế huyện T cấp cứu, nhưng khoảng 10 phút sau thì T tử vong.

Sau khi đâm T, H chở Ph rời khỏi hiện trường và ném bỏ cây chỉa xuống bờ kênh xáng Láng Trâm, phía trước nhà H3; còn cây dao Thái Lan và cây dao tự chế thì H và Ph ném bỏ xuống kênh xáng Láng Trâm, ở phía trước nhà ông Lương Văn M thuộc khóm 3, thị trấn T rồi H tiếp tục điều khiển xe chở Ph ra thành phố C để thăm bạn gái của H là Trần Như M. Sau đó, Ph hay tin T đã tử vong, nên đến Cơ quan quan Cảnh sát điều tra Công an tỉnh C đầu thú vào lúc 00 giờ 30 phút ngày 25/6/2023; còn H đến Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện T đầu thú vào lúc 04 giờ 10 phút, ngày 25/6/2023.

* Tại bản Kết luận giám định pháp y về tử thi số: 293/KL-KTHS ngày 28/6/2023 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh C đối với tử thi Trần Quốc T kết luận:

- Khám ngoài:

+ Các dấu vết tổn thương trên cơ thể:

Đầu: T1 bộ vùng đầu không có dấu thương tích.

Mặt: Hai mắt nhắm kín, kết mạc mắt nhợt nhạt, răng và cung hàm không tổn thương, hai lỗ tai không máu.

Cổ, gáy: Ở cổ bên phải, cách xương đòn lên trên 03cm, cách xương hàm xuống 10cm có một vết rách da lộ cơ há miệng, bờ mép sắc gọn, kích thước 2,5cm x 0,5cm.

Ngực, bụng: Ở ngực bên trái khoảng liền sườn VIII-IX từ đường nách giữa đến đường nách trước có vết trầy xước da và bầm tụ máu, kích thước 9cm x 3cm. Mạn sườn bên trái có 6 vết rách da có dạng hình tròn, kích thước tương đối đều nhau, d1 = 0,4cm x 0,3cm, d2 = 0,3cm x 0,3cm, d3 = 0,3cm x 0,3cm, d4 = 0,3cm x 0,3cm, d5 = 0,3 cm x 0,3cm, d6 = 0,2cm x 0,2cm.

Lưng: Vùng bả vai trái cách hõm nách 4cm, cách mõm vai 12cm có vết rách da lộ cơ há miệng, bờ mép sắc gọn, kích thước 2cm x 0,5cm.

Mông + Cơ quan sinh dục: Không dấu thương tích.

Chi trên: Tay phải không dấu thương tích. Ở mặt sau 1/3 trên cẳng tay trái có vết rách da lộ cơ, bờ mép sắc gọn, kích thước 2cm x 0,5cm.

Chi dưới: Chân phải không dấu thương tích. Ở 1/3 trên đùi trái có vết trầy xước da, kích thước 8cm x 1cm.

- Khám trong:

+ Rạch da đầu theo đường liên đỉnh tai kiểm tra: Không phát hiện bầm tụ máu dưới da đầu.

Hộp sọ không nứt vỡ.

5cm.

+ Rạch da theo đường giữa từ cổ đến rốn, mở lồng ngực, bụng kiểm tra: Bầm tụ máu dưới da cơ cổ bên phải dưới vết thương, kích thước 7 x 8cm. Bầm tụ máu dưới da cơ ở khoảng liên sườn VIII-IX bên trái, kích thước 11 x Kiểm tra vết thương ở cổ bên phải, thủng đứt tĩnh mạch, động mạch cảnh phải. Rãnh vết thương có hướng từ ngoài vào trong, hơi chếch xuống dưới.

Khng màng phổi phải và trái không máu. Nhu mô phổi phải và trái không tổn thương, cung sườn không gãy.

Ổ bụng không máu.

Tim, gan, lách, dạ dày, ruột: Không tổn thương.

Kiểm tra vết thương ở mạn sườn trái và bả vai trái: Tổn thương nông. (2) Kết luận:

- Các kết quả chính:

+ Kết mạc mắt nhợt nhạt.

+ Ở cổ bên phải có vết rách da, lộ cơ, há miệng, bờ mép sắc gọn.

+ Bầm tụ máu dưới da cơ ở cổ bên phải dưới vết thương.

+ Thủng đứt tĩnh mạch, động mạch cảnh phải.

- Kết luận: Ng nhân chết sốc mất máu cấp do vết thương đứt động tĩnh mạch cảnh phải.

- Tại Cáo trạng số 06/CT-VKS-P1 ngày 29 tháng 01 năm 2024, Viện kiểm sát nhân dân tỉnh C đã truy tố các bị cáo về tội “Giết người” theo điểm n khoản 1 Điều 123 của Bộ luật Hình sự.

Tại phiên tòa hôm nay:

- Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh C tham gia phiên tòa phát biểu:

+ Về trách nhiệm hình sự: Đề nghị áp dụng điểm n khoản 1 Điều 123; điểm b, s khoản 1 và khoản 2 Điều 51 của Bộ luật Hình sự, tuyên bố các bị cáo phạm tội “Giết người”, phạt mỗi bị cáo từ 13 đến 15 năm tù.

+ Về trách nhiệm dân sự: Buộc các bị cáo phải tiếp tục bồi thường 10 triệu đồng cho gia đình bị hại và chi phí cấp dưỡng nuôi con bị hại với mức cấp dưỡng 900.000 đồng/tháng cho đến khi cháu đủ 18 tuổi.

+ Về xử lý vật chứng: Áp dụng điểm c khoản 2 Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự, tịch thu sung quỹ Nhà nước 01 điện thoại di động; trả lại cho ông Kh 01 xe mô tô kèm theo 01 giấy đăng ký xe; tịch thu tiêu hủy các vật chứng còn lại.

- Luật sư bào chữa cho bị cáo Ph trình bày: Do bị cáo có nhiều tình tiết giảm nhẹ, nên đề nghị áp dụng khoản 1 Điều 54 của Bộ luật Hình sự, xử phạt dưới khung hình phạt cho bị cáo.

- Luật sư bào chữa cho bị cáo H trình bày: Do bị cáo có nhiều tình tiết giảm nhẹ, nên đề nghị xử phạt thấp hơn mức hình phạt mà đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh C đề nghị.

- Ông H2 trình bày: Yêu cầu xử lý các bị cáo theo đúng quy định của pháp luật; Yêu cầu bồi thường chi phí mai táng cho bị hại 80 triệu đồng, khấu trừ 70 triệu đồng gia đình các bị cáo đã bồi thường, đồng thời yêu cầu các bị cáo cấp dưỡng nuôi con của bị hại đến khi cháu đủ 18 tuổi, mức cấp dưỡng theo quy định của pháp luật.

- Ông Kh trình bày: Đối với chiếc xe mô tô 69K2-xxxx là của ông do mua lại của người khác. Ông Kh đã giao chiếc xe này cho bị cáo H sử dụng và định đoạt.

- Lời nói sau cùng của bị cáo Ph và bị cáo H: Thừa nhận hành vi phạm tội, xin lỗi gia đình bị hại, đồng ý bồi thường chi phí mai táng cho bị hại 80 triệu đồng, khấu trừ 70 triệu đồng đã bồi thường và đồng ý cấp dưỡng nuôi con của bị hại theo quy định của pháp luật.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định của Cơ quan điều tra, Điều tra viên, Viện kiểm sát, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa các bị cáo, đại diện hợp pháp của bị hại, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Tại phiên tòa, các bị cáo thừa nhận hành vi phạm tội là phù hợp với các chứng cứ có trong hồ sơ. Do đó, có đủ cơ sở kết luận: Vào đêm ngày 24/6/2023, Nguyễn Vủ Ph và Trần Quốc T xảy ra mâu thuẫn tại quán Karaoke N thuộc khóm H, thị trấn Th, huyện T, tỉnh C. Sau khi nhậu xong ra về, Ph rủ D Tấn H quay lại quán tìm T để đánh. Khi đi, Ph mang theo dao tự chế và cây chỉa, còn H mang theo dao Thái Lan là những hung khí nguy hiểm chém và đâm vào vùng trọng yếu trên cơ thể của T. Được mọi người can ngăn và đưa T đến Trung tâm Y tế huyện T cấp cứu, nhưng khoảng 10 phút sau T tử vong. Kết quả giám định xác định Ng nhân T chết sốc mất máu cấp do vết thương đứt động tĩnh mạch cảnh phải. Với những tình tiết này, Viện kiểm sát nhân dân tỉnh C truy tố các bị cáo về tội “Giết người” thuộc trường hợp có tính chất côn đồ quy định tại điểm n khoản 1 Điều 123 của Bộ luật Hình sự là có căn cứ.

[3] Hành vi của các bị cáo là rất nguy hiểm cho xã hội thuộc trường hợp tội phạm đặc biệt nghiêm trọng, trực tiếp xâm phạm về tính mạng của công dân, làm mất an ninh trật tự của địa phương, gây đau thương và mất mát cho người thân và gia đình bị hại. Trong vụ án này, các bị cáo không có câu kết bàn bạc chặt chẽ trước khi phạm tội nên thuộc trường hợp đồng phạm giản đơn. Trong đó, bị cáo Ph là người Kh xướng và cùng bị cáo H thực hiện hành vi phạm tội. Bị cáo H dùng dao Thái Lan gây ra vết thương đứt động mạch cảnh phải cho bị hại. Các bị cáo có nhân thân không tốt do cùng có tiền sự chưa được xóa. Do đó, việc xử lý nghiêm khắc đối với các bị cáo là cần thiết.

[4] Khi quyết định hình phạt, Hội đồng xét xử có cân nhắc đến các tình tiết giảm nhẹ sau đây cho các bị cáo:

[4.1] Đối với bị cáo Ph: Thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải; Đã khắc phục được một phần thiệt hại (tác động gia đình bồi thường được 50 triệu đồng); Đầu thú; Là lao động chính trong gia đình; Gia đình có công với cách mạng (có bác ruột tên Nguyễn Văn H được tặng Huân chương kháng chiến hạng nhất, cậu Đặng Bá Tr và dì Đặng Thị Th1 đều là liệt sĩ); Bị hại có một phần lỗi do trong lúc xô xát được mọi người can ngăn, các bị cáo đã bỏ về thì bị hại lại tiếp tục đánh vào đầu bị cáo H và xô đẩy làm té xe mô tô của H.

[4.2] Đối với bị cáo H: Thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải; Đã khắc phục được một phần thiệt hại (tác động gia đình bồi thường được 20 triệu đồng); Đầu thú;

Kiến thức pháp luật hạn chế do trình độ học vấn thấp; Bị hại có một phần lỗi.

[5] Xét tính chất, mức độ hành vi phạm tội, các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự và đặc điểm nhân thân của các bị cáo, xét đề nghị về mức hình phạt của đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh C tại phiên tòa là có cơ sở. Hội đồng xét xử cần tiếp tục cách ly các bị cáo ra khỏi đời sống xã hội để có thời gian cải tạo thành người tốt cũng như phòng ngừa chung. Tuy bị cáo Ph là người khởi xướng và có nhiều tình tiết giảm nhẹ còn bị cáo H lại thực hiện hành vi quyết liệt hơn và trực tiếp gây ra cái chết cho bị hại. Do đó, mức hình phạt đối với các bị cáo bằng nhau là phù hợp.

[6] Về trách nhiệm dân sự: Ghi nhận sự tự nguyện của các bị cáo tại phiên tòa về việc đồng ý bồi thường cho gia đình bị hại các khoản tiền, gồm: Chi phí mai táng 80 triệu đồng, khấu trừ 70 triệu đồng gia đình các bị cáo đã khắc phục; Chi phí cấp dưỡng nuôi 01 người con của bị hại T với mức cấp dưỡng hàng tháng bằng ½ tháng lương tối thiểu, thời điểm bắt đầu cấp dưỡng tính từ ngày 24/6/2023. Trường hợp chậm thanh toán các khoản tiền nói trên, các bị cáo còn phải chịu tiền lãi theo quy định.

[7] Với các phân tích nói trên, trình bày bào chữa của các Luật sư đối với các bị cáo được chấp nhận một phần.

[8] Về xử lý vật chứng:

Đối với chiếc xe mô tô được H sử dụng chở Ph đi thực hiện hành vi phạm tội. Bị cáo H và ông Trần Quốc Kh xác định chiếc xe do ông Kh mua của người khác, nH đã được ông Kh giao cho bị cáo sử dụng và định đoạt. Đối với chiếc điện thoại di động thu giữ là của bị cáo H dùng để liên hệ với bị cáo Ph trước khi phạm tội. Do đó, cần tịch thu sung quỹ Nhà nước các tài sản này.

Đối với các tài sản còn lại trực tiếp liên quan đến hành vi phạm tội và không có giá trị sử dụng, nên cần tịch thu tiêu hủy.

Chuyển lưu theo hồ sơ 01 USB (đã được niêm Ph) ghi nhận hình ảnh xảy ra sự việc vào đêm 24/6/2023 tại quán Karaoke N.

[9] Do bị kết án, phải bồi thường thiệt hại và thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng, nên các bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm, án phí dân sự sơ thẩm có giá ngạch 5% và án phí dân sự sơ thẩm không có giá ngạch.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

1. Về trách nhiệm hình sự:

1.1. Căn cứ vào điểm n khoản 1 Điều 123; điểm b, s khoản 1 và khoản 2 Điều 51 của Bộ luật Hình sự, tuyên bố bị cáo Nguyễn Vủ Ph phạm tội “Giết người”, phạt bị cáo Ph 14 (mười bốn) năm tù. Thời hạn tù được tính từ ngày 25 tháng 6 năm 2023;

1.2. Căn cứ vào điểm n khoản 1 Điều 123; điểm b, s khoản 1 và khoản 2 Điều 51 của Bộ luật Hình sự, tuyên bố bị cáo D Tấn H phạm tội “Giết người”, phạt bị cáo H 14 (mười bốn) năm tù. Thời hạn tù được tính từ ngày 25 tháng 6 năm 2023.

2. Về trách nhiệm dân sự:

2.1. Căn cứ Điều 48 của Bộ luật Hình sự; Các điều 584, 587, 591 của Bộ luật Dân sự:

- Ghi nhận sự tự nguyện của các bị cáo về việc đồng ý bồi thường chi phí mai táng số tiền 80.000.000 (tám mươi triệu) đồng cho những người thừa kế của bị hại Trần Quốc T (gồm có ông Trần Văn H2, bà Lê Ngọc A và cháu Trần Nguyễn Nhã V), nhưng giao số tiền này cho ông Trần Văn H2 là người đại diện theo ủy quyền nhận, khấu trừ 70.000.000 (bảy mươi triệu) đồng đã bồi thường, các bị cáo còn phải tiếp tục bồi thường số tiền còn lại là 10.000.000 (mười triệu) đồng. Trong đó, phần của mỗi bị cáo phải bồi thường là 5.000.000 (năm triệu) đồng;

- Ghi nhận sự tự nguyện của các bị cáo về việc đồng ý cấp dưỡng nuôi cháu Trần Nguyễn Nhã V (sinh ngày 10/12/2020, con ruột của bị hại Trần Quốc T) với mức cấp dưỡng hàng tháng là 900.000 (chín trăm nghìn) đồng. Trong đó, phần cấp dưỡng của mỗi bị cáo là 450.000 (bốn trăm năm mươi nghìn) đồng/tháng. Thời điểm bắt đầu cấp dưỡng tính từ ngày 24 tháng 6 năm 2023. Nghĩa vụ cấp dưỡng chấm dứt khi thuộc một trong các trường hợp quy định tại Điều 118 của Luật Hôn nhân và gia đình.

2.2. Kể từ ngày có đơn yêu cầu thi hành án của người được thi hành án cho đến khi thi hành xong các khoản tiền nêu trên, hàng tháng bên phải thi hành án còn phải chịu khoản tiền lãi của số tiền phải thi hành theo lãi suất được quy định tại khoản 2 Điều 468 của Bộ luật Dân sự.

3. Căn cứ Điều 47 của Bộ luật Hình sự, khoản 2 Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự:

3.1. Tịch thu tiêu hủy các vật chứng gồm: 01 (một) cây dao dài 26,2cm, loại dao một lưỡi sắc có mũi nhọn; cán dao bằng nhựa, có màu trắng – đỏ dài 11,2cm, đã bị vỡ một phần; lưỡi dao bằng kim loại dài 15cm; 01 (một) cây chỉa, dài 1,57m; thân chỉa làm bằng cây (loại cây trúc) dài 1,36m; phần mũi chỉa dài 0,21m, gồm 07 (bảy) thanh kim loại có mũi nhọn; 01 (một) túi niêm Ph mã số NS1.2115194, bên trong chứa quần, áo của Trần Quốc T mặc khi xảy ra vụ án, gồm: 01 (một) áo sơ mi dài tay màu đen có bâu; 01 (một) quần jean dài màu xanh, có chữ CATEN; 01 (một) túi niêm Ph mã số NS1A.040928, bên trong chứa quần, áo, dây thắt lưng của Nguyễn Vủ Ph mang, mặc khi gây án; 01 (một) cây dao, dài 1,46m; lưỡi dao bằng kim loại dài 25cm; bảng dao nơi rộng nhất 08cm; 01 (một) túi niêm Ph mã số PS3.1908385 bên trong chứa mẫu dấu vết chất lỏng màu nâu đỏ thu tại hiện trường (ký hiệu 02);

01 (một) túi niêm Ph mã số PS3.1908386 bên trong chứa mẫu dấu vết chất lỏng màu nâu đỏ thu tại hiện trường (ký hiệu 05); 01 (một) túi niêm Ph mã số PS3.1908387 bên trong chứa mẫu dấu vết chất lỏng màu nâu đỏ thu tại hiện trường (ký hiệu 06);

01 (một) túi niêm Ph mã số PS3.1908388 bên trong chứa mẫu dấu vết chất lỏng màu nâu đỏ thu tại hiện trường (ký hiệu 07); 01 (một) túi niêm Ph mã số PS3.1908389 bên trong chứa mẫu dấu vết chất lỏng màu nâu đỏ thu tại hiện trường (ký hiệu 08);

01 (một) túi niêm Ph mã số PS2.2115151 bên trong chứa 01 (một) chiếc dép quai kẹp màu đen (chân phải) trên dép có chữ VUCHIEN (ký hiệu 03); 01 (một) túi niêm Ph mã số PS2.2115152 bên trong chứa 01 (một) chiếc dép quai kẹp màu đen (chân trái) trên dép có chữ VUCHIEN (ký hiệu 07); 01 (một) túi niêm Ph mã số PS2.2115176 bên trong chứa 01 (một) chiếc dép quai kẹp màu xanh (dạng dép lào), chân trái (ký hiệu 04). Vật chứng hiện do Cục Thi hành án dân sự tỉnh C quản lý (Biên bản giao nhận vật chứng ngày 02/02/2024).

3.2. Tịch thu sung quỹ Nhà nước các vật chứng gồm: 01 (một) xe mô tô biển số 69K2-xxxx, số khung RMEWCHLME 8A098433, số máy VKVLM1P52FMH- F401118, xe đã qua sử dụng; 01 (một) giấy đăng ký xe mô tô, xe máy số 0558153, đứng tên Lê Quốc Cường, địa chỉ: Phú Mỹ, Cái Nước, C; nhãn hiệu VALENTI, loại xe nữ, màu sơn đen bạc, biển số đăng ký 69K2-xxxx; 01 (một) điện thoại di động hiệu SAMSUNG Galaxy J7 Pro, số IMEI (khe 1) 353317097006846, số IMEI (khe 2) 353317097006844, trên điện thoại có gắn 01 (một) sim (mạng Vinaphone), trên sim có các số 898440, 20001, 11658, 86795. Tình trạng điện thoại không còn Ng vẹn, màn hình điện thoại bị bể, mặt trước, mặt sau điện thoại bị trầy xước (điện thoại đựng trong túi niêm Ph mã số PS3, 1908398). Điện thoại, xe mô tô và giấy đăng ký xe hiện do Cục Thi hành án dân sự tỉnh C quản lý (Biên bản giao nhận vật chứng, tài sản ngày 02/02/2024).

3.3. Chuyển lưu theo hồ sơ 01 (một) USB đựng trong túi niêm Ph mã số NS3.2130341.

4. Căn cứ Điều 136 của Bộ luật Tố tụng hình sự; các điều 23, 26 và 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án:

4.1. Về án phí hình sự sơ thẩm: Các bị cáo Ph và H phải chịu 200.000 (hai trăm nghìn) đồng/bị cáo.

4.2. Về án phí dân sự sơ thẩm: Các bị cáo Ph và H phải chịu 400.000 (bốn trăm nghìn) đồng/bị cáo.

5. Các bị cáo, người đại diện hợp pháp của bị hại, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan được quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

6. Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các điều 6, 7, 7a, 7b và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

101
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội giết người số 15/2024/HS-ST

Số hiệu:15/2024/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Cà Mau
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành:05/03/2024
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về