Bản án về tội giết người số 150/2020/HSPT

TÒA ÁN NHÂN DÂN CẤP CAO TẠI HÀ NỘI

BẢN ÁN 150/2020/HSPT NGÀY 11/05/2020 VỀ TỘI GIẾT NGƯỜI

Ngày 11 tháng 5 năm 2020, tại trụ sở, Tòa án nhân dân cấp cao tại Hà Nội mở phiên tòa xét xử phúc thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 73/2020/TLPT-HS ngày 10 tháng 01 năm 2020 đối với bị cáo Đỗ Đình N. Do có kháng cáo của bị cáo đối với Bản án hình sự sơ thẩm số 391/2019/HS-ST ngày 27 tháng 11 năm 2019 của Toà án nhân dân thành phố Hà Nội.

* Bị cáo có kháng cáo:

Họ và tên: Đỗ Đình N, sinh năm 1992; Giới tính: Nam; Nơi ĐKHKTT và nơi ở: Khu 5, thôn L, xã L, huyện A, thành phố Hà Nội; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không; Trình độ văn hóa: 08/12; Nghề nghiệp: Lao động tự do; Tham gia Đảng, đoàn thể: Không; Con ông: Đỗ Công T; Con bà: Nguyễn Thị T; Vợ: Lê Thị Thanh H; Con: Có 01 con, sinh năm 2015; Tiền án, tiền sự: Không; Bị bắt tạm giam từ ngày 04/6/2019; hiện đang bị tạm giam tại Trại tạm giam số 1- Công an thành phố Hà Nội, có mặt tại phiên tòa.

Người bào chữa cho bị cáo: Bà Đặng Thị Vân T – Luật sư Văn phòng luật sư Kết Nối thuộc Đoàn luật sư thành phố Hà Nội.

Ngoài ra, trong vụ án còn có người bị hại, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan không có kháng cáo, Tòa án không triệu tập.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Năm 2014, Đỗ Đình N kết hôn với chị Lê Thị Thanh H và hai người đã có 01 con chung. Trong quá trình chung sống, giữa N và chị H phát sinh mâu thuẫn nên đến khoảng tháng 02/2019, hai người sống ly thân và chị H bỏ về ở nhà bố mẹ đẻ là ông Lê Đỗ B và bà Ngô Thị L tại khu 5, thôn L, xã L, huyện A. Khoảng tháng 5/2019, trên đường đi qua khu vực huyện Yên Phong, tỉnh Bắc Ninh, N đã mua 01 con dao (loại dao bầu dài 33cm, chuôi bằng gỗ, lưỡi dao sắc dài 19,5cm mũi nhọn) mang về quấn giấy bọc bên ngoài rồi cất giấu tại nhà; mục đích khi gặp chị H sẽ dùng để đe dọa, buộc chị H phải quay về nhà ở với N.

Khoảng 18 giờ 30 phút ngày 04/6/2019, N mang con dao đã quấn giấy bên ngoài ra cho vào trong cốp xe máy điện, rồi đi đến nhà ông Lê Đỗ B tìm chị H. Đến nơi, N dựng xe máy điện ngoài sân rồi đi vào trong nhà thấy ông Bắc đang ngồi xem ti vi, bà Lý thì đang nấu cơm. N lên tầng 2 tìm chị H nhưng không thấy nên xuống tầng 1 thì gặp bà Lý đi vào. Bà Lý nói với N “Không sống được với nhau thì ly dị đi”, N đi ra ngoài sân đứng thì thấy ông Bắc đi xuống nhà ngang hút thuốc lào. Lúc này, N nghĩ bà Lý là người đã can thiệp vào chuyện vợ chồng của N làm chị H bỏ đi nên đã nảy sinh đánh bà Lý để trả thủ. N ra mở cốp xe lấy con dao bầu, bỏ phần giấy quấn bên ngoài ra và cầm dao đi vào trong nhà. Thấy bà Lý đang ngồi trên nền nhà chuẩn bị ăn cơm thì N cầm dao bằng tay phải đâm 01 phát trúng vào vùng mạn sườn bên trái của bà Lý. Bà Lý đứng dậy chạy ra ngoài cửa kêu cứu thì bị N đuổi theo đâm tiếp 01 nhát nữa trúng vùng lưng. Bà Lý vùng bỏ chạy ra ngoài sân thì bị ngã, N chạy đến đâm thêm nhiều nhát nữa trúng vào vùng đùi phải, tay phải, tay trái. Thấy bà Lý bị N đâm nên ông Bắc chạy đến can ngăn thì liền bị N dùng dao vung lên đâm, chém ông Bắc nhiều nhát trúng vào ngực phải, ngực trái ông Bắc. Lúc này, bà Lý bị thương lộ ruột ra bên ngoài, ôm bụng chạy ra đến cổng thì bị N đuổi theo đâm thêm 01 nhát nữa trúng bụng. Cùng lúc này, N thấy ông Lê Đỗ Thái em ruột ông Bắc đi đến nên N bỏ đi và sau đó vứt bỏ lại con dao tại bãi gỗ nhà ông Ngô Trương Bình cách nhà ông Bắc khoảng 110m. Đến 21 giờ cùng ngày, N đến đồn Công an xã Liên Hà - huyện A, Hà Nội đầu thú và khai nhận hành vi phạm tội.

Hậu quả: Bà Ngô Thị L và ông Lê Đỗ B đã bị Đỗ Đình N dùng dao đâm, chém nhiều nhát vào người bị thương tích nặng, bà Lý được đưa đi cấp cứu tại Bệnh viện đa khoa Đông Anh, ông Bắc được đưa đi cấp cứu tại Bệnh viện Bắc Thăng Long; sau đó được chuyển lên Bệnh viện Việt Đức, Hà Nội cấp cứu và điều trị từ ngày 04/6/2019 đến ngày 14/6/2019 được xuất viện.

Tại bản kết luận giám định pháp y thương tích số 5236/C09-TT1 ngày 26/9/2019 của Viện khoa học hình sự - Bộ Công an kết luận về thương tích của ông Lê Đỗ B như sau:

Ông Lê Đỗ B bị đa vết thương ngực - bụng gây rách màng phổi hai bên, nhu mô phổi phải, đứt bó mạch liên sườn và các sụn sườn, tổn thương gan, đã được điều trị. Thời điểm giám định bổ sung các tổn thương cũ gồm: màng phổi, nhu mô phổi không để lại di chứng dày dính, xẹp phổi, tổn thương gan điều trị ổn định. Các tổn thương bổ sung: các sẹo các vết thương và sẹo phẫu thuật vùng ngực - bụng, tay không ảnh hưởng chức năng.

Kết luận tỷ lệ phần trăm tổn thương cơ thể bổ sung: Các sẹo vết thương và sẹo mổ là: 8%.

Tổng tỷ lệ phần trăm tổn thương cơ thể sau giám định bổ sung:

- Các sẹo vết thưong và sẹo mổ: 8%;

- Tổn thương màng phổi phải không để lại di chứng: 3%;

- Tổn thương màng phổi trái không để lại di chứng: 3%;

- Tổn thương nhu mô phổi phải không để lại di chúng: 6%;

- Tổn thương gan đã khâu: 31 %;

Áp dụng phương pháp xác định tỷ lệ tổn thương cơ thể quy định tại Thông tư số 20/2014/TT-BYT ngày 12/6/2014 của Bộ Y tế, xác định tổng tỉ lệ phần trăm tổn thương cơ thể của ông Lê Đỗ B tại thời điểm giám định bổ sung là 44%.

Cơ chế hình thành thưong tích: Các thương tích của ông Lê Đỗ B do vật sắc hoặc sắc nhọn gây nên”.

Tại bản kết luận giám định pháp y thương tích số 5237/C09-TT1 ngày 26/9/2019 của Viện khoa học hình sự - Bộ Công an kết luận về thương tích của bà Ngô Thị L như sau:

“... Bà Ngô Thị L bị đa vết thương vùng ngực, bụng, tay, chân, rách màng phổi, nhu mô phổi trái, đứt bó mạch liên sườn trái, thủng gan hạ phân thuỳ 6, thủng dạ dày, thủng ruột non đã được điều trị. Tại thời điểm giám định bổ sung các tổn thương cũ gồm: màng phổi, nhu mô phổi không để lại di chứng dày dính, xẹp phổi, tổn thương gan ổn định, thủng ruột non và dạ dày không để lại di chứng. Bổ sung thêm sẹo các vết thương và sẹo phẫu thuật vùng ngực- bụng, tay chân không, ảnh hưởng chức năng, gãy xương sườn IX, X can liền tốt.

Kết luận tỷ lệ phần trăm tổn thương cơ thể bổ sung:

- Các sẹo vết thương và sẹo phẫu thuật: 10%.

- Gãy xương sườn IX, X bên trái can liền tốt: 5% Tổng tỷ lệ phần trăm tổn thương cơ thể sau giám định bổ sung:

- Các sẹo vết thương và sẹo phẫu thuật: 10%;

- Gãy xương sườn IX, X bên trái can liền tốt: 5%;

- Tổn thưong màng phổi trái không để lại di chứng: 3%;

- Tổn thương nhu mô phổi trái đã khâu, không để lại di chứng: 6%;

- Tổn thương gây thủng dạ dày đã khâu không để lại di chứng: 31%;

- Vết thương gan hạ phân thùy 6 đã khâu: 31%;

- Thủng ruột non đã khâu: 31%;

Áp dụng phương pháp xác định tỷ lệ tổn thương cơ thể quy định tại Thông tư số 20/2014/TT-BYT ngày 12/6/2014 của Bộ Y tế, xác định tổng tỉ lệ phần trăm tổn thương cơ thể của bà Ngô Thị L tại thời điểm giám định bổ sung là 74%.

Cơ chế hình thành thương tích: Các thương tích của bà Ngô Thị L do vật sắc hoặc sắc nhọn gây nên”.

Tại Bản án Hình sự sơ thẩm số 391/2019/HS-ST ngày 27 tháng 11 năm 2019 của Tòa án nhân dân thành phố Hà Nội, quyết định:

Tuyên bố bị cáo Đỗ Đình N phạm tội “Giết người”. Áp dụng điểm a,đ,n khoản 1 Điều 123; điểm b,s khoản 1,2 Điều 51; Điều 57; Điều 38 Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017. Xử phạt bị cáo Đỗ Đình N 19 (mười chín) năm tù. Thời hạn tù tính từ ngày 04/6/2019, Ngoài ra, bản án sơ thẩm còn quyết định về xử lý vật chứng, bồi thường dân sự, án phí và quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.

Sau khi xét xử sơ thẩm: Ngày 09 tháng 12 năm 2019, bị cáo Đỗ Đình N có đơn kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt.

Tại phiên tòa phúc thẩm, bị cáo Đỗ Đình N khai nhận đã thực hiện hành vi đâm, chém bố, mẹ vợ như bản án sơ thẩm đã quy kết, bị cáo không có ý kiến gì khác ngoài đề nghị xin giảm nhẹ hình phạt.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Hà Nội: Sau khi kiểm tra tính có căn cứ pháp luật của bản án sơ thẩm thì đã đề nghị Hội đồng xét xử phúc thẩm không chấp nhận kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt tù của bị cáo để giữ nguyên quyết định của Tòa án cấp sơ thẩm Người bào chữa cho bị cáo: Luật sư Đặng Thị Vân T thì đề nghị Tòa án cấp phúc thẩm giảm nhẹ cho bị cáo một phần hình phạt, vì Tòa án cấp sơ thẩm xử phạt bị cáo có phần nặng, bởi hậu quả chết người chưa xảy ra.

Căn cứ vào các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra tại phiên tòa; căn cứ vào kết quả tranh tụng, tranh luận công khai tại phiên tòa, trên cơ sở xem xét khách quan - toàn diện vụ án, lời khai của bị cáo, bào chữa của luật sư cho bị cáo, ý kiến của Kiểm sát viên về giải quyết vụ án,

NHẬN ĐỊNH CỦA HỘI ĐỒNG XÉT XỬ

Tại phiên tòa phúc thẩm, bị cáo Đỗ Đình N đã thành khẩn khai nhận hành vi phạm tội do bị cáo gây ra đúng như lời khai của bị cáo trong quá trình điều tra vụ án và tại phiên tòa sơ thẩm. Bị cáo N khai nhận về việc bị cáo đã thực hiện hành vi phạm tội cụ thể như Cáo trạng và Bản án sơ thẩm đã quy kết bị cáo đã giết nhiều người, mà những người bị hại này là cha, mẹ vợ của bị cáo và những người bị hại này không hề có lỗi gì đối với bị cáo. Việc ông Bắc, bà Lý không chết là ngoài ý muốn của bị cáo, bởi vì bị cáo đâm, chém bị hại rất nhiều nhát vào vùng trọng yếu trên cơ thể con người. Do bị cáo có hành vi phạm tội như trên, nên Tòa án cấp sơ thẩm kết án bị cáo phạm tội “Giết người” đúng pháp luật.

Xét tính chất - mức độ nguy hiểm cho xã hội do hành vi phạm tội của bị cáo Đỗ Đình N gây ra là đặc biệt nghiêm trọng, bởi: Chỉ vì bị cáo ham chơi, thiếu trách nhiệm lo toan gia đình, dẫn đến mâu thuẫn vợ chồng, rồi vợ bỏ về nhà bố mẹ đẻ ở. Từ đó, bị cáo ngộ nhận cho rằng việc vợ bị cáo bỏ về nhà ngoại ở là do có ý kiến của bố mẹ vợ thì vợ bị cáo mới bỏ về, nên bị cáo đã chuẩn bị và đã sử dụng dao nhọn là hung khí nguy hiểm mang đến gia đình vợ rồi tấn công bố, mẹ vợ, bị cáo đã đâm nhiều nhát vào vùng trọng yếu trên cơ thể ông Lê Đỗ B, bà Ngô Thị L làm cho ông Bắc bị tổn hại 44 % sức khỏe; bà Lý bị tổn hại 74 % sức khỏe. Hội đồng xét xử phúc thẩm thấy, mặc dù sau khi xảy ra vụ án thì bị cáo đã thành khẩn khai báo và đã bồi thường được 50 triệu đồng. Nhưng xét hành vi phạm tội của bị cáo với tư cách là một người con mà đã vô cớ sử dụng dao nhọn để đâm bố, mẹ vợ gây hậu quả đặc biệt nghiêm trọng như đã nêu trên là không thể chấp nhận được. Vì vậy, không có căn cứ để chấp nhận nội dung kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt tù của bị cáo, mà cần thiết phải giữ nguyên bản án sơ thẩm về phần hình phạt tù đối với bị cáo, bởi vì mức hình phạt mà Tòa án cấp sơ thẩm xử phạt bị cáo không phải là nặng, có như vậy thì mới có đủ thời gian để trừng trị và giáo dục đối với bị cáo và mới đảm bảo được tính răn đe phòng ngừa tội phạm chung, khi mà trong những năm gần đây tệ nạn bạo hành đâm, chém người thân trong gia đình xảy ra nhiều.

Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

Bị cáo kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt tù không được chấp nhận nên phải chịu án phí hình sự phúc thẩm.

Vì các lẽ trên và căn cứ vào các Điều 355, 356 Bộ luật tố tụng hình sự,

QUYẾT ĐỊNH

Không chấp nhận nội dung kháng cáo xin giảm nhẹ mức hình phạt tù của bị cáo Đỗ Đình N, giữ nguyên Bản án hình sự sơ thẩm số 391/2019/HSST ngày 27/11/2019 của Tòa án nhân dân thành phố Hà Nội về phần hình phạt tù đối với bị cáo. Nay tuyên:

Áp dụng các điểm a, đ, n khoản 1 Điều 123; các điểm b, s khoản 1 và khoản 2 Điều 51; Điều 57 và Điều 38 Bộ luật hình sự năm 2015, xử phạt: Bị cáo Đỗ Đình N 19 (mười chín) năm tù về tội “Giết người”. Thời hạn chấp hành hình phạt tù đối với bị cáo tính từ ngày bị bắt tạm giữ, giam 04/6/2019.

Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

Bị cáo N phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự phúc thẩm.

Bản án hình sự phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án (11/5/2020).

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

76
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội giết người số 150/2020/HSPT

Số hiệu:150/2020/HSPT
Cấp xét xử:Phúc thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân cấp cao
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 11/05/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về