Bản án về tội giết người số 142/2024/HS-PT

TÒA ÁN NHÂN DÂN CẤP CAO TẠI HÀ NỘI

BẢN ÁN 142/2024/HS-PT NGÀY 21/02/2024 VỀ TỘI GIẾT NGƯỜI

Ngày 21 tháng 02 năm 2024, tại trụ sở, Tòa án nhân dân cấp cao tại Hà Nội xét xử phúc thẩm công khai vụ án Hình sự thụ lý số 1370/2023/TLPT-HS ngày 20 tháng 11 năm 2023 đối với bị cáo Nguyễn Minh V phạm tội “Giết người”. Do có kháng cáo đối với Bản án Hình sự sơ thẩm số 475/2023/HS-ST ngày 26 tháng 9 năm 2023 của Tòa án nhân dân thành phố Hà Nội.

* Bị cáo có kháng cáo và bị kháng cáo:

Nguyễn Minh V, sinh ngày 24/9/1996; nơi đăng ký thường trú: Xóm R, xã N, huyện N, tỉnh Nghệ An; nơi cư trú trước khi bị bắt: Số nhà A, ngõ F, đường N, thuộc tổ A, phường C, quận N, thành phố Hà Nội; quốc tịch: Việt Nam; dân tộc: Kinh; tôn giáo: Không; đảng phái, đoàn thể: Không; trình độ học vấn: 12/12; nghề nghiệp: Lao động tự do; con ông Nguyễn Văn T và bà Võ Thị H; tình trạng hôn nhân: Có vợ chưa đăng ký kết hôn là Đào Quỳnh A và 01 con sinh ngày 15/4/2021; tiền án, tiền sự: Chưa; bị cáo đầu thú và bị tạm giữ, tạm giam từ ngày 22/11/2022; hiện đang bị tạm giam tại Trại tạm giam số 01 của Công an thành phố H. Có mặt.

* Người bào chữa cho bị cáo (do Tòa chỉ định): Luật sư Đặng Thị Vân T1 - Văn phòng L1 thuộc Đoàn luật sư thành phố H. Có mặt.

* Người bị hại có kháng cáo: Anh Nguyễn Đức M, sinh ngày 05/9/2002;

trú tại: Số nhà F phố C, phường S, thị xã S, thành phố Hà Nội. Vắng mặt.

* Người đại diện hợp pháp của người bị hại có kháng cáo: Ông Nguyễn Văn Đ; trú tại: Số nhà F phố C, phường S, thị xã S, thành phố Hà Nội. Vắng mặt.

* Người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan: Bà Võ Thị H; trú tại: Xóm R, xã N, huyện N, tỉnh Nghệ An. Có mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và Bản án sơ thẩm, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng năm 2021, Nguyễn Minh V chung sống như vợ chồng với chị Đào Quỳnh A tại số nhà A đường N, thuộc tổ A phường C, quận N, thành phố Hà Nội. Do không có công việc làm, thu nhập ổn định nên từ ngày 14/11/2022, Nguyễn Minh V đi lang thang ra ngoại thành Hà Nội để xem ai sơ hở sẽ trộm cắp tài sản.

Khoảng 13 giờ ngày 17/11/2022, Minh V chuẩn bị 01 con dao (Kiểu dao Thái Lan) và 02 đôi găng tay y tế bằng cao su màu trắng. Minh V cất con dao vào túi quần với mục đích sẽ sử dụng để tấn công chủ tài sản hoặc người khác khi đi trộm cắp bị phát hiện; đồng thời cho 02 đôi găng tay vào túi áo khoác thể thao màu đen nhãn hiệu ADIDAS đang mặc nhằm để xóa dấu vết khi trộm cắp tài sản. Sau đó, Minh V mặc chiếc quần dài bằng vải nỉ màu đen, đội 01 mũ lưỡi trai màu đen nhãn hiệu GUCCI, đeo khẩu trang y tế màu đen đi bộ ra Bến xe M ở quận N bắt xe Bus đến Bến xe thị xã S, Hà Nội. Tại đây, Minh V thuê xe ôm do ông Bùi Quang H1 (Sinh năm 1965; trú tại: Số nhà C phố C, phường S, thị xã S) chở đi quanh khu vực bên ngoài bến xe thị xã S, mục đích để tìm kiếm cơ hội chiếm đoạt tài sản. Sau đó, Minh V trả tiền xe cho ông Quang H1 và đi bộ lang thang trên các tuyến phố ở thị xã S. Đến khoảng 04 giờ ngày 18/11/2022, Minh V đi bộ qua nhà số F phố C, phường S, thị xã S thì nhìn thấy cửa sổ tầng 02 của ngôi nhà đang mở nên nảy sinh ý định đột nhập để trộm cắp tài sản. Minh V cất đôi dép tông đang đi vào trong áo, đeo 02 chiếc găng tay cao su rồi tiến đến phần hông bên phải nhà số F phố C. Minh V dùng hai tay bám vào khung kim loại, trèo lên trên chồng gạch giữa nhà số F và nhà số F, lên mái ngói nhà số F, dùng hai tay bám vào cột sứ, hai chân đạp vào khung biển quảng cáo, trèo lên ban công vào nhà số F. Lúc này trong nhà số F có vợ chồng ông Trần Khắc H2, bà Bùi Thị T2 đang nằm ngủ trên giường sát cửa sổ. Minh V bò qua cửa sổ đến cửa ra vào ban công thì thấy cửa đóng nên thò tay qua song hoa cửa để mở nhưng không được. Sau đó, Minh V trèo sang ban công nhà số F phố C, thấy cửa ra vào ban công ngôi nhà đang mở hé cánh bên trái nên đã lách người đi vào. Khi Minh V đi đến cửa ngăn giữa 02 phòng, thấy cánh cửa bên trái mở hé nên đẩy cửa, lách người đi vào trong phòng để tìm kiếm tài sản. Lúc này, trong phòng có anh Nguyễn Đức M đang nằm ngủ một mình trên giường kê phía trái. Khi Minh V đi đến giữa giường thì anh Đức M tỉnh giấc, phát hiện nên hô: “Cướp, cướp”. Minh V đưa tay phải rút con dao từ trong túi quần bên phải đâm liên tiếp 12 nhát vào vùng cổ, cằm, ngực bên phải, ngực bên trái, gáy và vai của anh Đức M. Lúc này, anh Nguyễn Văn Q và chị Nguyễn Thị H3 (Là cậu mợ của anh M) đang ngủ dưới tầng 01 nghe thấy tiếng anh M kêu cứu nên tỉnh giấc, dậy bật điện. Anh Q bị đau chân nên đi đến đầu cầu thang tầng 01 gọi: “M ơi, M ơi!”; chị H3 gọi điện cho ông Nguyễn Đức V1 báo trong nhà có trộm. Cùng lúc này, Minh V nghe thấy tiếng anh Q nên chạy xuống cầu thang ra khu vực sân phơi giữa tầng 01 và 02 để tìm lối bỏ trốn nhưng sân phơi hàn kín rào sắt nên Minh V chạy ngược lên cầu thang tầng 02. Minh V tháo bóng tắt điện trên tường rồi chạy ra ban công trèo sang ban công nhà số F rồi nhảy xuống mái ngói nhà số F, đi ra mái hiên bằng tôn nhà số F, nhảy ra tấm bạt ngoài mái hiên và bị đập vai trái xuống nền vỉa hè trước nhà số F và bị rơi con dao vừa sử dụng đâm anh M tại đây. Sau đó, Minh V bỏ chạy vào ngõ C phố C hướng vào khu đô thị H thuộc phường T, thị xã S. Tại đây, Minh V lột đôi găng tay y tế dính máu cùng chiếc mũ lưỡi trai màu đen vứt xuống bãi đất trống đối diện nhà số B L, khu đô thị H rồi chạy bộ tiếp khoảng 300m thì cởi bỏ khẩu trang y tế màu đen, quần dài màu đen, áo khoác gió màu đen vứt xuống bụi cỏ ở khoảng đất phía sau các nhà số E, 531 phố C, bỏ đôi dép tông từ trong bụng áo ra đi vào chân. Minh V đi bộ qua ngõ C phố C ra đường C và đi ngược về hướng Bệnh viện 105; sau đó thuê xe ôm là anh Nguyễn Văn N (Sinh năm 1978; trú tại: Số nhà C phố C, phường S, thị xã S) chở đến bến xe B ở xã L, huyện P bắt xe Bus theo Quốc lộ C di chuyển về nội thành Hà Nội.

Khi anh Nguyễn Văn Q đi lên tầng 2 thì Nguyễn Minh V đã bỏ chạy thoát. Lúc này, anh Nguyễn Đức M bị thương nằm trên giường chảy nhiều máu nói với anh Q: “Cháu bị trộm đâm” rồi bất tỉnh. Ông Nguyễn Đức V1 và bà Nguyễn Thị L đã gọi xe đưa anh M đến Bệnh viện Q1 rồi chuyển đến Bệnh viện V2 để cấp cứu, điều trị.

Sau khi chạy thoát, Nguyễn Minh V đi lang thang nhiều nơi rồi về quê. Ngày 22/11/2022, bị cáo đến Công an phường H, thành phố V, tỉnh Nghệ An đầu thú và khai nhận hành vi phạm tội.

Cùng ngày 18/11/2022, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thị xã S đã phối hợp với các phòng nghiệp vụ của Công an thành phố H tiến hành khám nghiệm hiện trường, thu thập dấu vết liên quan và trưng cầu giám định. Tiến hành thực nghiệm điều tra theo lời khai của Nguyễn Minh V vào hồi 09 giờ 30 phút ngày 23/11/2022.

Bản kết luận giám định số 81/GĐ-TTPY ngày 30/01/2023 của Trung tâm pháp y - Sở Y tế thành phố H đối với thương tích anh Nguyễn Đức M, kết luận: “... Thương Tích: Liệt 1/2 người trái; Tay trái liệt mức độ vừa, cơ lực 2/5, Berre chi trên (+); Chân trái liệt mức độ nặng, còn cảm giác, bất lực vận động; 01 sẹo vết thương vùng cằm phải hình chữ J, kích thước (6 + 2,5)cm x (0,3 - 0,6)cm; Sẹo vết thương, vết mổ vùng cổ sau (gáy) lệch phải cột sống cổ, kích thước 10cm x (0,5 - 1)cm; 01 sẹo vết thương vùng hố thượng đòn phải, kích thước (1,5 x 01)cm; 01 sẹo vết thương mặt trước đầu trong xương đòn phải (sát xương ức), kích thước (3,5 x 02)cm, hiện còn chỉ chưa liền sẹo, kích thước (1,5 x 01)cm; 04 sẹo vết thương vùng ngực dưới núm vú phải, kích thước (01 x 0,3)cm; (1,5 x 0,3)cm; (1,5 x 01)cm; (1,5 x 0,3)cm; 01 sẹo vết thương vùng bụng trên (sát mũi ức), kích thước (01 x 0,5)cm; 01 sẹo dẫn lưu vùng thành ngực bên phải khoang liên sườn VI-VII đường nách giữa, kích thước (02 x 02)cm, sẹo đang liền còn dịch thấm băng; 02 sẹo vết thương vùng thành ngực bên trái cách đường giữa đòn dưới núm vú trái 8 và 10cm, mỗi vết kích thước (0,5 x 0,3)cm; 01 sẹo dẫn lưu thành ngực trái khoang liên sườn IV-V đường nách giữa, kích thước (1,5 x 01)cm; 02 sẹo vết mổ Trocar vùng trên rốn và ngang rốn đường trắng bên phải, đường kính mỗi vết 1,5cm; 01 sẹo vết thương mặt trước đầu trên cánh tay phải, kích thước (1,5 x 0,3)cm; 01 sẹo vết thương vùng ngực trái sát xương ức khoang liên sườn II, kích thước (02 x 0,3)cm; 02 sẹo vết thương vùng sau trên vai phải, kích thước (2,5 x 0,5)cm và (02 x 0,5)cm; 01 sẹo vết thương vùng mặt sau đầu trên cánh tay phải, kích thước (1,5 x 0,3)cm; 01 sẹo vết thương mặt ngoài 1/3 trên cánh tay phải, kích thước (1,5 x 0,2)cm. Kết luận tại thời điểm giám định: Các sẹo vết thương vùng vùng cằm phải, vết thương mặt trước đầu trong xương đòn phải, vùng ngực phải, vùng ngực trái, vùng cổ gáy, cánh tay phải: 29%; Tổn thương tủy cổ ngang C4C5 gây liệt nửa người trái mức độ vừa: 61%; Tràn dịch, tràn khí màng phổi hai bên đã dẫn lưu: 06%; Đụng dập nhu mô phổi hai bên:

10%; Gãy cung trước xương sườn IV bên phải: 02%; Rối loạn cơ tròn: 31%; Tổn thương cơ hoành phải, đã khâu cầm máu: 21%; Tổn thương màng ngoài tim: 08%. Hiện chưa đánh giá được hết mức độ di chứng và biến chứng của các tổn thương; đề nghị giám định bổ sung sau khi điều trị ổn định. Cơ chế hình thành thương tích: Do vật sắc nhọn gây nên. Tỷ lệ tổn hại sức khỏe 88%, tính theo phương pháp cộng lùi”.

Ngày 30/3/2023, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố H ra Quyết định trưng cầu giám định bổ sung đối với thương tích của anh Nguyễn Đức M nhưng anh từ chối việc giám định bổ sung.

Bản kết luận giám định số 8622/KL-KTHS ngày 27/12/2022 của Phòng K - Công an thành phố H, kết luận: “… Các dấu vết màu nâu đỏ trên bóng đèn Led, vết màu nâu đỏ trên tường khu vực cầu thang, vết màu nâu đỏ trên tay vịn cầu thang, vết màu nâu đỏ dạng giọt bắn trên sàn buồng ngủ tầng 2, vết bàn chân dính chất màu nâu đỏ trên sàn buồng ngủ tầng 2, vết chất màu nâu đỏ trên chiếu trúc trên giường buồng ngủ tầng 2, vết chất màu nâu đỏ dạng nhỏ giọt trên tấm đệm màu đỏ trong buồng phía ngoài tầng 2, vết chất màu nâu đỏ dạng quệt trên vỏ nilon bọc cuốn da ở phía ngoài tầng 2, chất màu nâu đỏ thu trên dao chuôi nhựa màu vàng trên vỉa hè trước nhà số F đều là máu người, chất màu nâu đỏ trên đôi găng tay y tế là máu người, đều có kiểu gen trùng với kiểu gen của Nguyễn Đức M. Vết chất màu nâu đỏ ở đầu phía Đông Bắc, phía Tây Nam lan can ban công tầng 2 nhà số F đều là máu người, do chất lượng dấu vết kém nên không phân tích được kiểu gen. Trên cổ áo khoác gió màu đen nhãn hiệu Adidas và mặt trong găng tay có dính ADN người; trên quần vải nỉ màu đen, khẩu trang y tế màu đen đều có dính ADN người, có kiểu gen trùng với kiểu gen của Nguyễn Minh V. Trên tay áo khoác gió màu đen nhãn hiệu Adidas có bám dính máu người, có kiểu gen trùng với kiểu gen của Nguyễn Đức M. Không phát hiện thấy dấu vết sinh học trên mũ lưỡi trai màu đen nhãn hiệu Gucci…”.

Bản kết luận giám định số 8390/KL-KTHS ngày 20/12/2022 của Phòng K - Công an thành phố H, kết luận: “… 01 dấu vết đường vân bàn chân bám bẩn trên ban công nhà số F Chùa T gửi giám định so với dấu in đường vân bàn chân trái trên mẫu vân chân của bị can Nguyễn Minh V gửi làm mẫu so sánh là của cùng một người”.

Tại Bản án Hình sự sơ thẩm số 475/2023/HS- ST ngày 26/9/2023 của Tòa án nhân dân thành phố Hà Nội, quyết định: Áp dụng điểm n khoản 1 Điều 123; Điều 15; các điểm b, s khoản 1 Điều 51; khoản 2 Điều 51; Điều 38; Điều 57 Bộ luật Hình sự, xử phạt Nguyễn Minh V: 18 (Mười tám) năm tù về tội “Giết người”. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 22/11/2022.

Ngoài ra, Tòa án cấp sơ thẩm còn quyết định về trách nhiệm dân sự, xử lý vật chứng, án phí và thông báo quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.

Ngày 29/9/2023, bị cáo Nguyễn Minh V có đơn kháng cáo xin giảm hình phạt.

Ngày 05/10/2023, bị hại - anh Nguyễn Đức M và đại diện hợp pháp của người bị hại là ông Nguyễn Đức V1 có đơn kháng cáo xin giảm hình phạt cho bị cáo Nguyễn Minh V.

Ngày 03/10/2023, người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan là bà Võ Thị H có đơn kháng cáo đề nghị xem xét đánh giá lại tính chất, mức độ hành vi của bị cáo Nguyễn Minh V, cho giám định lại thương tật của bị hại Nguyễn Đức M để giảm án cho con trai bà là bị cáo Nguyễn Minh V.

Tại phiên tòa phúc thẩm:

Bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải. Bị cáo rút kháng cáo.

Bị hại và đại diện người bị hại vắng mặt tại phiên tòa, đã được tống đạt hợp lệ, nên kháng cáo được xem xét giải quyết theo quy định.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Hà Nội có quan điểm:

Về việc chấp hành pháp luật tố tụng của những người tiến hành tố tụng và người tham gia tố tụng đảm bảo đúng quy định.

Về nội dung kháng cáo: Bị cáo rút kháng cáo tự nguyện, đề nghị căn cứ khoản 1 Điều 348 của Bộ luật Tố tụng hình sự đình chỉ xét xử phúc thẩm đối vứi kháng cáo của bị cáo.

Xét kháng cáo của bị hại và đại diện người bị hại, thấy Bản án sơ thẩm xét xử bị cáo Nguyễn Minh V đúng người, đúng tội, hình phạt Bản án sơ thẩm áp dụng đối với bị cáo phù hợp với tính chất, mức độ, hành vi phạm tội. Do vậy, đề nghị căn cứ điểm a khoản 1 Điều 355, 356 của Bộ luật Tố tụng Hình sự không chấp nhận kháng cáo của bị hại và đại diện người bị hại, giữ nguyên Bản án sơ thẩm.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về tố tụng:

Kháng cáo của bị cáo, bị hại và đại diện người bị hại có nội dung và hình thức phù hợp, trong thời hạn theo quy định tại các Điều 331, 332, 333 Bộ luật Tố tụng Hình sự nên được xem xét, giải quyết theo trình tự phúc thẩm.

Kháng cáo của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan là bà Võ Thị H yêu cầu xem xét đánh giá lại tính chất, mức độ hành vi của bị cáo Nguyễn Minh V, cho giám định lại thương tật của bị hại Nguyễn Đức M để giảm án cho con trai bà là bị cáo Nguyễn Minh V. Xét thấy, Tòa án cấp sơ thẩm xác định nội dung kháng cáo không nằm trong phạm vi quyền kháng cáo của bà Võ Thị H, thuộc trường hợp trả lại đơn kháng cáo là đúng, nên Tòa án cấp phúc thẩm không xét nội dung kháng cáo của bà H.

Các cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng tại cấp sơ thẩm đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục theo quy định của Bộ luật Tố tụng Hình sự. Tại cấp sơ thẩm và tại phiên tòa phúc thẩm, bị cáo và những người tham gia tố tụng khác không có ý kiến hoặc khiếu nại gì. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp. [2] Về nội dung:

Căn cứ lời khai của bị cáo; lời khai của bị hại; lời khai những người làm chứng; các Biên bản, sơ đồ và bản ảnh khám nghiệm hiện trường; trích xuất dữ liệu Camera của nhân dân; Biên bản và bản ảnh thực nghiệm điều tra; các tang vật chứng thu giữ; nhận dạng; bệnh án điều trị, giấy chứng nhận thương tích; các bản kết luận giám định và các tài liệu, chứng cứ chứng minh khác có trong hồ sơ vụ án, Hội đồng xét xử xét thấy có căn cứ xác định: Do không có tiền, Nguyễn Minh V đã đi lang thang ra ngoại thành Hà Nội để xem gia đình nào sơ hở sẽ trộm cắp tài sản. Bị cáo Nguyễn Minh V đã chuẩn bị mang theo 01 con dao sắc nhọn, kiểu dao gọt hoa quả Thái Lan để phòng thân khi bị phát hiện; 02 đôi găng tay y tế cao su; áo khoác, mũ lưỡi trai, khẩu trang để ngụy trang.

Khoảng 04 giờ ngày 18/11/2022, Nguyễn Minh V đi bộ lang thang trên phố C, phường S, thị xã S thì thấy cửa tầng 2 nhà số F phố C mở nên đã đột nhập vào nhà vợ chồng anh chị Nguyễn Thị H3 - Nguyễn Văn Q nhằm trộm cắp tài sản thì bị anh Nguyễn Đức M phát hiện hô hoán. Nguyễn Minh V đã dùng con dao nhọn mang theo đâm liên tiếp nhiều nhát vào vùng cổ, cằm, ngực, vai, gáy là những vùng trọng yếu của anh Đức M để tẩu thoát làm anh Đức M ngã gục ngay tại giường ngủ tầng 2. Do được người thân và nhân dân đưa đi cấp cứu kịp thời nên anh Đức M không tử vong nhưng bị tổn hại cơ thể 88% sức khỏe.

Hành vi nêu trên của bị cáo Nguyễn Minh V đã bị Tòa án cấp sơ thẩm xét xử về tội “Giết người ” với tình tiết tăng nặng định khung “Có tính chất côn đồ” theo quy định tại điểm n khoản 1 Điều 123 Bộ luật Hình sự là có căn cứ, đúng người, đúng tội, đúng quy định của pháp luật.

Về tính chất, mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội: Hành vi của bị cáo V là đặc biệt nghiêm trọng; bị cáo là thanh niên trẻ khỏe nhưng không chịu học tập, lao động; muốn có tiền ăn tiêu đã nảy sinh ý định trộm cắp. Mặc dù chưa chiếm đoạt được tài sản gì nhưng khi bị phát hiện, bị cáo đã dùng con dao sắc nhọn mang theo đâm nhiều nhát (12 nhát) vào những vùng trọng yếu trên cơ thể người bị hại Nguyễn Đức M, thực tế anh M không tử vong là do được cấp cứu kịp thời, hành vi của bị cáo thuộc trường hợp phạm tội chưa đạt đã hoàn thành. Hành vi bị cáo thực hiện gây mất trật tự trị an, an toàn xã hội nghiêm trọng tại địa phương; gây đau thương, tổn thất về thể chất và tinh thần của bị hại với những mất mát, tổn thương khó có thể bù đắp nổi. Do vậy, cần được xử lý nghiêm.

Về tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ, nhân thân: Bị cáo không phải chịu tình tiết tăng nặng nào. Tình tiết giảm nhẹ, sau khi phạm tội bị cáo đã ra đầu thú, khai báo thành khẩn, ăn năn hối cải, đã tích cực tác động để gia đình bồi thường, khắc phục thiệt hại, bị hại và người đại diện theo ủy quyền đều đề nghị xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo; về nhân thân, bị cáo chưa có tiền án, tiền sự, nhất thời phạm tội lần đầu; có ông bà N1 - Ngoại là người có công được Nhà nước tặng thưởng nhiều danh hiệu cao quý. Đây là các tình tiết giảm nhẹ quy định tại các điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự và đã được Bản án sơ thẩm xem xét, áp dụng là đúng.

Trên cơ sở đánh giá tính chất, mức độ hành vi phạm tội, nhân thân, tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, bản án sơ thẩm xử phạt bị cáo V 18 năm tù là có căn cứ.

Xét kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt của bị cáo, kháng cáo của bị hại và đại diện người bị hại xin giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo, Hội đồng xét xử thấy:

Tại phiên tòa phúc thẩm, bị cáo Nguyễn Minh V tự nguyện rút toàn bộ kháng cáo, đại diện Viện kiểm sát đề nghị căn cứ khoản 1 Điều 348, điểm đ khoản 1 Điều 355 của Bộ luật Tố tụng hình sự đình chỉ xét xử phúc thẩm đối với kháng cáo của bị cáo là có căn cứ.

Người bị hại và đại diện của người bị hại kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo, nhưng không có tình tiết giảm nhẹ nào mới, Bản án sơ thẩm xử phạt bị cáo 18 năm tù là có căn cứ, phù hợp với tính chất, mức độ hành vi phạm tội của bị cáo, nhân thân và các tình tiết phạm tội chưa đạt, tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với bị cáo. Do vậy, không có căn cứ chấp nhận kháng cáo xin giảm nhẹ trách nhiệm hình sự cho bị cáo của người bị hại và đại diện người bị hại. Đại diện Viện kiểm sát đề nghị căn cứ điểm a khoản 1 Điều 355 của Bộ luật Tố tụng Hình sự giữ nguyên bản án sơ thẩm là có căn cứ.

[3] Về án phí: Bị cáo Nguyễn Minh V rút kháng cáo, do vậy, không phải chịu án phí hình sự phúc thẩm.

Bị hại và đại diện người bị hại không phải chịu án phí hình sự phúc thẩm. [4] Các quyết định khác của Bản án sơ thẩm không có kháng cáo, không bị kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

Vì các lẽ trên;

Căn cứ: Khoản 1 Điều 348; điểm a, đ khoản 1 Điều 355, Điều 356 Bộ luật Tố tụng Hình sự; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về án phí và lệ phí Tòa án;

QUYẾT ĐỊNH

1. Đình chỉ xét xử phúc thẩm đối với kháng cáo của bị cáo Nguyễn Minh V.

2. Không chấp nhận kháng cáo của người bị hại Nguyễn Đức M và đại diện người bị hại là ông Nguyễn Đức V1; Giữ nguyên Bản án Hình sự sơ thẩm số 475/2023/HS-ST ngày 26/9/2023 của Tòa án nhân dân thành phố Hà Nội.

- Áp dụng: Điểm n khoản 1 Điều 123; Điều 15; các điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 38; Điều 57 Bộ luật Hình sự, - Xử phạt bị cáo Nguyễn Minh V: 18 (Mười tám) năm tù về tội “Giết người”. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 22/11/2022.

3. Về án phí: Bị cáo Nguyễn Minh V, bị hại Nguyễn Đức M và đại diện người bị hại ông Nguyễn Đức V1 không phải chịu án phí hình sự phúc thẩm.

4. Các quyết định khác của Bản án sơ thẩm không có kháng cáo, không bị kháng nghị có hiệu lực pháp luật, kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

5. Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

56
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội giết người số 142/2024/HS-PT

Số hiệu:142/2024/HS-PT
Cấp xét xử:Phúc thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân cấp cao
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 21/02/2024
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về