Bản án về tội giết người số 13/2023/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH PHÚ YÊN

BẢN ÁN 13/2023/HS-ST NGÀY 15/03/2023 VỀ TỘI GIẾT NGƯỜI

Vào ngày 15 tháng 03 năm 2023, tại điểm cầu trung tâm trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Phú Yên và điểm cầu thành phần Trại tạm tạm Công an tỉnh Phú Yên, Tòa án nhân dân tỉnh Phú Yên xét xử sơ thẩm trực tuyến vụ án hình sự thụ lý số: 07/2023/TLST-HS ngày 14 tháng 02 năm 2023 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 07/2023/QĐXXST-HS ngày 27 tháng 02 năm 2023 đối với bị cáo:

Đặng Quốc T, sinh ngày 12 tháng 8 năm 2001; tại tỉnh Phú Yên. Nơi cư trú: Thôn C, xã H, huyện P, tỉnh Phú Yên; nghề nghiệp: Làm nông; trình độ văn hóa (học vấn): 09/12; giới tính: Nam; dân tộc: Kinh; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Đặng Ngọc T, sinh năm 1978 và bà Nguyễn Thị Th, sinh năm 1982; tiền án; tiền sự: Không; nhân thân: - Ngày 03/01/2019, Đặng Quốc T có hành vi đánh người khác gây thương tích, bị Viện kiểm sát nhân dân huyện P ban hành Cáo trạng truy tố về tội Cố ý gây thương tích, quy định tại điểm a khoản 1 Điều 134 Bộ luật Hình sự nhưng bị hại rút đơn yêu cầu khởi tố vụ án nên Tòa án nhân dân huyện P quyết định đình chỉ vụ án, bị can đối với Tín; - Ngày 25/11/2021, bị Tòa án nhân dân huyện P, tỉnh Phú Yên xử phạt 01 năm tù về tội Cố ý gây thương tích, theo quy định tại khoản 1 Điều 134 Bộ luật Hình sự, bị can chưa chấp hành án; Bị cáo bị bắt tạm giam từ ngày 23/6/2022 đến nay tại Trại tạm giam Công an tỉnh Phú Yên; có mặt.

- Người bào chữa của bị cáo: Ông Nguyễn Thanh M - Luật sư Công ty Luật TNHH MTV Bảo K, thuộc Đoàn Luật sư tỉnh Phú Yên; có mặt.

* Bị hại: Nguyễn Thái B, sinh năm 2003; Nơi cư trú: Thôn P, xã H, huyện P, tỉnh Phú Yên; có mặt.

* Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan:

1. Nguyễn Thái T1, sinh năm 2001; Nơi cư trú: Thôn P, xã H, huyện P, tỉnh Phú Yên; có mặt.

2. Nguyễn Bảo Th, sinh ngày 16/02/2005; Nơi cư trú: Thôn H, xã H, huyện P, tỉnh Phú Yên; vắng mặt.

- Người đại diện hợp pháp của Nguyễn Bảo Th: Ông Nguyễn Bảo H, sinh năm 1980; Nơi cư trú: Thôn H, xã H, huyện P, tỉnh Phú Yên; là cha ruột của Nguyễn Bảo Th; vắng mặt.

3. Trà Minh T2, sinh ngày 07/6/2005; Nơi cư trú: Thôn P, xã H, huyện P, tỉnh Phú Yên; vắng mặt.

- Người đại diện hợp pháp của Trà Minh T2: Ông Trà T, sinh năm 1975; Nơi cư trú: Thôn P, xã H, huyện P, tỉnh Phú Yên; là cha ruột của Trà Minh T2; vắng mặt.

4. Nguyễn Ngọc D, sinh ngày 17/8/2006; Nơi cư trú: Thôn P, xã H, huyện P, tỉnh Phú Yên; vắng mặt.

- Người đại diện hợp pháp của Nguyễn Ngọc D: Ông Nguyễn Ngọc T, sinh năm 1975; Nơi cư trú: Thôn P, xã H, huyện P, tỉnh Phú Yên; là cha ruột của Nguyễn Ngọc T; vắng mặt.

5. Mai Văn Lộc S, sinh năm 2002; Nơi cư trú: Thôn H, xã H, huyện P, tỉnh Phú Yên; có mặt.

6. Lưu Thị Tuyết Tr, sinh năm 1963; Nơi cư trú: Thôn N, xã H, huyện T, tỉnh Phú Yên; vắng mặt.

7. Nguyễn Thị Th, sinh năm 1982; Nơi cư trú: Thôn C, xã H huyện P, tỉnh Phú Yên; vắng mặt.

8. Đặng Ngọc T, sinh năm 1978; Nơi cư trú: Thôn C, xã H huyện P, tỉnh Phú Yên; vắng mặt.

9. Lê Thị D, sinh năm 1979; Nơi cư trú: Thôn P, xã H, huyện P, tỉnh Phú Yên; có mặt.

10. Phạm N, sinh năm 1963; Nơi cư trú: Khu phố N, phường 9, thành phố T, tỉnh Phú Yên; có mặt.

11. Trương Anh H, sinh năm 1969; Nơi cư trú: Khu phố N, phường 9, thành phố T, tỉnh Phú Yên; vắng mặt.

12. Nguyễn Thị Phương Th, sinh năm 1990; Nơi cư trú: Khu phố N, phường 9, thành phố T, tỉnh Phú Yên; vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 20 giờ 00 phút ngày 22/6/2022, Nguyễn Bảo Th, Nguyễn Thái B, Nguyễn Thái T1, Mai Văn Ngọc S, Nguyễn Ngọc D, Trà Minh T2 đang ngồi uống nước tại Công viên Diên Hồng thì Th gọi điện Đặng Quốc T đến để giải quyết mâu thuẫn trước đó nhưng T không đi. Đến khoảng 20 giờ 30 phút cùng ngày, nhóm của Th đến để gặp T đang ở nhà trọ tại khu phố N, thành phố T, tỉnh Phú Yên. Khi gặp T tại cổng phía nam khu nhà trọ, S nói với Th “Mày làm gì làm đi, có đánh nhau thì vô đánh chứ đứng chi đó miết” thì Th xông vào dùng tay đánh T, T dùng tay đánh lại thì B, D xông vào đánh T ngã xuống đất, bị đánh, T chạy vào phòng trọ của Lưu Thị Tuyết Tr (bạn gái của T) lấy 01 con dao Thái Lan dài 21,5cm chạy ra thì nhóm của Th chuẩn bị bỏ đi, thấy S điều khiển xe mô tô chở B ngồi sau, T dùng dao đâm 02 cái trúng tay trái và đâm 01 cái trúng ngực trái của B. T tiếp tục định đâm B thì bị T1 can ngăn, giật lấy con dao trên tay T. Thấy B bị đánh, S, Th, D dùng tay đánh T nên T bỏ chạy vào phòng trọ của mình. Sau đó, Bảo được đưa đi cấp cứu và điều trị tại Bệnh viện Đa khoa tỉnh Phú Yên.

Bản kết luận giám định pháp y số 259/TgT ngày 15/8/2022 của Trung tâm pháp y tỉnh Phú Yên kết luận, Nguyễn Thái B bị tổn thương thấu tâm thất trái, tổn thương đáy phổi trái và phần mềm với tỷ lệ thương tích là 64%. Vật tác động: Vật sắc nhọn.

Tại Bản Cáo trạng số: 09/CT-VKS-P1 ngày 14/02/2023 của Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Phú Yên truy tố: Bị cáo Đặng Quốc T về tội “Giết người”, quy định tại khoản 2 Điều 123 Bộ luật Hình sự.

Tại phiên tòa, bị cáo Đặng Quốc T vẫn khai nhận tội như đã khai tại Cơ quan điều tra, thừa nhận toàn bộ hành vi phạm tội như nội dung bản Cáo trạng đã truy tố là đúng.

Kiểm sát viên tham gia phiên tòa trình bày lời luận tội, giữ nguyên quyết định truy tố như Cáo trạng. Kết luận bị cáo Đặng Quốc T phạm tội “Giết người” – Theo Khoản 2 Điều 123 Bộ luật Hình sự. Căn cứ vào nhân thân, tính chất, mức độ phạm tội của bị cáo và các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, đề nghị Hội đồng xét xử xem xét áp dụng Khoản 2 Điều 123; Điểm b, s Khoản 1, Khoản 2 Điều 51; Điều 15; Khoản 3 Điều 57; Điều 56 Bộ luật Hình sự. Xử phạt Bị cáo Đặng Quốc T từ 07 năm đến 08 năm tù. Tổng hợp hình phạt 01 (Một) năm tù tại Bản án hình sự sơ thẩm số 25/2021/HSST ngày 25/11/2021 của Tòa án nhân dân huyện P, buộc bị cáo Đặng Quốc T phải chấp hành hình phạt chung của hai bản án là từ 08 năm đến 09 năm tù. Thời hạn tù tính từ ngày 23/06/2022.

Về trách nhiệm bồi thường dân sự: Đề nghị HĐXX xem xét áp dụng Điều 48 Bộ luật Hình sự, Điều 590 Bộ luật Dân sự. Ghi nhận sự tự nguyện thỏa thuận giữa bị cáo với người bị hại. Buộc bị cáo Đặng Quốc T phải bồi thường thiệt hại về sức khỏe bị xâm phạm cho người bị hại Nguyễn Thái B số tiền 49.638.868 đ (Bốn mươi chín triệu Sáu trăm ba mươi tám nghìn Tám trăm Sáu mươi tám đồng), bị cáo đã bồi thường cho bị hại số tiền 10.000.000đ (Mười triệu đồng) nên còn phải tiếp tục bồi thường 39.638.868đ (Ba mươi chín triệu Sáu trăm ba mươi tám nghìn Tám trăm Sáu mươi tám đồng).

Về Xử lý vật chứng: Áp dụng Điểm a Khoản 1 Điều 47 Bộ luật Hình sự; Điểm a, c Khoản 2 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự;

- Tuyên tịch thu tiêu hủy: 01 (một) con dao thái lan dài 21,5cm, phần lưỡi dài 11,5cm, phần lưỡi có đầu nhọn, có 01 sống và 01 lưỡi. Phần cán bằng nhựa màu vàng có dinh chất màu nâu thẫm đã khô; Các mẫu chất màu nâu thẫm dính trên đường bê tông ở vị trí số 1, 2, thu bằng bông y tế; 01 (một) áo thun ngắn tay màu nâu, có dính chất màu nâu đỏ, tại vị trí tương ứng ngực trái có vết rách sắc gọn dài 1,2cm, mẫu máu của bị hại Nguyễn Thái B, sinh năm: 2003, trú tại: Thôn P, xã H, huyện P, Phú Yên; Mẫu máu của bị can Đặng Quốc T, sinh năm: 2001, trú tại: Thôn C, xã H huyện P, Phú Yên.

- Tạm giữ của bị cáo Đặng Quốc T: 01 (một) điện thoại di động hiệu Samsung Galaxy J7 (2016), màu xám để đảm bảo thi hành án.

- Tiếp tục lưu theo hồ sơ vụ án: 01 đĩa DVD chứa dữ liệu trích xuất từ camera phòng trọ của ông Phạm Nhằm.

Người bào chữa cho bị cáo trình bày: Thống nhất quan điểm của Kiểm sát viên về tội danh, khung hình phạt áp dụng. Bị cáo được hưởng nhiều tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự nên đề nghị HĐXX xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo; Về trách nhiệm dân sự: Đề nghị HĐXX xem xét giải quyết theo quy định của pháp luật.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về thủ tục tố tụng [1.1] Các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục theo quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra, cũng như tại phiên tòa, người bào chữa, bị cáo, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan không ai có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[1.2] Tại phiên tòa, những người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan vắng mặt. Nhưng xét thấy, những người này đã có lời khai tại Cơ quan điều tra, việc vắng mặt của họ không gây trở ngại cho việc xét xử. Do đó, chấp nhận ý kiến của bị cáo, người bào chữa của bị cáo và Kiểm sát viên, căn cứ Điều 292 Bộ luật Tố tụng hình sự. Tòa án tiến hành xét xử vụ án.

[2] Lời khai nhận tội của bị cáo Đặng Quốc T tại Cơ quan điều tra và tại phiên tòa đều phù hợp với nhau; phù hợp với lời khai của bị hại; người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan về thời gian, địa điểm phạm tội, vật chứng thu giữ, kết quả thực nghiệm điều tra, các bản kết luận giám định, biên bản khám nghiệm, sơ đồ, bản ảnh hiện trường và các tài liệu, chứng cứ khác có tại hồ sơ vụ án, đủ cơ sở kết luận: Khoảng 12 giờ ngày 22/6/2022, tại khu phố Ninh Tịnh 1, phường 9, thành phố Tuy Hòa, tỉnh Phú Yên, Đặng Quốc T bị nhóm của Nguyễn Thái B dùng tay chân đánh nên Tín dùng con dao Thái Lan đâm vào tay trái và ngực trái của Bảo gây thương tích, Bảo được đưa đi cấp cứu kịp thời nên không nguy hiểm đến tính mạng nhưng bị thương tích tỷ lệ 64%, nên Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Phú Yên truy tố bị cáo Đặng Quốc T về tội “Giết người” - theo Khoản 2 Điều 123 Bộ luật Hình sự là có căn cứ, đúng tội.

[3] Hành vi phạm tội của bị cáo Đặng Quốc T nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm sức khoẻ người khác, gây mất trật tự trị an và an toàn xã hội ở địa phương. Bị cáo nhận thức rõ hành vi dùng dao đâm vào ngực trái, là vùng trọng yếu trên cơ thể của người khác là nguy hiểm, có thể dẫn đến hậu quả chết người, nhưng vẫn thực hiện bất chấp pháp luật, bị cáo là người có nhân thân xấu nên cần áp dụng hình phạt tù nghiêm khắc, cách ly bị cáo ra khỏi xã hội một thời gian mới đủ tác dụng giáo dục, cải tạo bị cáo và phòng ngừa tội phạm. Tuy nhiên, xét bị cáo phạm tội thuộc trường hợp chưa đạt, được hưởng nhiều tỉnh tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đó là: thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải; tác động gia đình bồi thường cho bị hại số tiền 10.000.000 đồng; bị hại xin giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo để xem xét giảm nhẹ cho bị cáo một phần hình phạt.

Tại Bản án hình sự sơ thẩm số 25/2021/HSST ngày 25/11/2021 của Tòa án nhân dân huyện Phú Hoà xử phạt bị cáo Đặng Quốc T 01 năm tù về tội “Cố ý gây thương tích”, bị cáo chưa chấp hành án nên áp dụng quy định tại Điều 56 Bộ luật hình sự, tổng hợp hình phạt của nhiều bản án buộc bị cáo phải chấp hành hình phạt chung theo quy định của pháp luật.

[4] Về trách nhiệm bồi thường dân sự: Tại phiên toà, Bị hại yêu cầu bị cáo phải bồi thường số tiền 49.638.868 đồng về khoản thiệt hại do sức khoẻ bị xâm phạm. Bị cáo Đặng Quốc T tự nguyện đồng ý bồi thường theo yêu cầu của bị hại. Xét sự tự nguyện thoả thuận của bị cáo và bị hại phù hợp với pháp luật nên ghi nhận. Bị cáo và gia đình đã bồi thường cho bị hại số tiền 10.000.000 đồng nên bị cáo còn phải tiếp tục bồi thường 39.638.868 đồng.

[5] Về xử lý vật chứng:

[5.1] 01 (một) con dao thái lan dài 21,5cm, phần lưỡi dài 11,5cm, phần lưỡi có đầu nhọn, có 01 sống và 01 lưỡi. Phần cán bằng nhựa màu vàng có dinh chất màu nâu thẫm đã khô; Các mẫu chất màu nâu thẫm dính trên đường bê tông ở vị trí số 1, 2, thu bằng bông y tế; 01 (một) áo thun ngắn tay màu nâu, có dính chất màu nâu đỏ, tại vị trí tương ứng ngực trái có vết rách sắc gọn dài 1,2cm, mẫu máu của bị hại Nguyễn Thái B, sinh năm: 2003, trú tại: Thôn P, xã H, huyện P, Phú Yên; Mẫu máu của bị can Đặng Quốc T, sinh năm: 2001, trú tại: Thôn C, xã H huyện P, Phú Yên; là công cụ dùng vào việc phạm tội và là vật không còn giá trị sử dụng tịch thu tiêu hủy.

[5.2] 01 (một) điện thoại di động hiệu Samsung Galaxy J7 (2016), màu xám là tài sản của bị cáo không liên quan đến tội phạm, nhưng bị cáo còn có nghĩa vụ phải bồi thường thiệt hại nên tạm giữ để đảm bảo thi hành án.

(Tất cả các vật chứng có đặc điểm mô tả như Biên bản giao nhận vật chứng ngày 17 tháng 02 năm 2023 giữa cơ quan Cảnh sát điều tra Công an tỉnh Phú Yên với Cục Thi hành án dân sự tỉnh Phú Yên) [5.3] Tiếp tục lưu theo hồ sơ vụ án: 01 đĩa DVD chứa dữ liệu trích xuất từ camera phòng trọ của ông Phạm Nhằm.

[6] Về án phí: Bị cáo Đặng Quốc T bị kết án phải chịu án phí hình sự sơ thẩm và còn có nghĩa vụ bồi thường thiệt hại nên phải chịu án phí dân sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

[7] Nguyễn Thái B, Nguyễn Thái T1, Mai Văn Lộc Sinh, Trà Minh T2, Nguyễn Ngọc D, Nguyễn Bảo Th đến khu vực Đặng Quốc T thuê trọ, dùng tay chân đánh T nhưng T không bị thương tích. Hành vi trên của B, T1, S, T2, Tr, D, Th tuy có ảnh hưởng đến tình hình an ninh trật tự tại địa phương nhưng thời gian xảy ra vào ban đêm, không có người qua lại, không gây ách tắc giao thông, không có hành vi la ó lớn tiếng làm ảnh hưởng xấu đến tình hình an ninh trật tự tại địa phương nên không cấu thành tội phạm.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Tuyên bố: Bị cáo Đặng Quốc T phạm tội “Giết người”.

1. Về Hình phạt: Áp dụng Khoản 2 Điều 123; Điểm b, s Khoản 1, Khoản 2 Điều 51; Điều 15; Khoản 3 Điều 57; Điều 56 Bộ luật Hình sự;

Xử phạt: Bị cáo Đặng Quốc T – 07 (Bảy) năm tù. Tổng hợp hình phạt 01 (Một) năm tù tại Bản án hình sự sơ thẩm số 25/2021/HSST ngày 25/11/2021 của Tòa án nhân dân huyện P; buộc bị cáo Đặng Quốc T phải chấp hành hình phạt chung của hai bản án là 08 (Tám) năm tù. Thời hạn tù tính từ ngày 23/06/2022.

2. Về trách nhiệm bồi thường dân sự: Áp dụng Điều 48 Bộ luật Hình sự, Điều 590 Bộ luật Dân sự;

Ghi nhận sự tự nguyện thỏa thuận của bị cáo và người bị hại. Bị cáo Đặng Quốc T phải có trách nhiệm bồi thường cho bị hại Nguyễn Thái B số tiền 49.638.868 đ (Bốn mươi chín triệu Sáu trăm ba mươi tám nghìn Tám trăm Sáu mươi tám đồng) về khoản thiệt hại do sức khoẻ bị xâm phạm. Bị cáo đã bồi thường cho bị hại số tiền 10.000.000đ (Mười triệu đồng) nên còn phải tiếp tục bồi thường 39.638.868đ (Ba mươi chín triệu Sáu trăm ba mươi tám nghìn Tám trăm Sáu mươi tám đồng).

3. Về Xử lý vật chứng: Áp dụng Điểm a Khoản 1 Điều 47 Bộ luật Hình sự; Điểm a, c Khoản 2 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự;

- Tuyên tịch thu tiêu hủy: 01 (một) con dao thái lan dài 21,5cm, phần lưỡi dài 11,5cm, phần lưỡi có đầu nhọn, có 01 sống và 01 lưỡi. Phần cán bằng nhựa màu vàng có dinh chất màu nâu thẫm đã khô; Các mẫu chất màu nâu thẫm dính trên đường bê tông ở vị trí số 1, 2, thu bằng bông y tế; 01 (một) áo thun ngắn tay màu nâu, có dính chất màu nâu đỏ, tại vị trí tương ứng ngực trái có vết rách sắc gọn dài 1,2cm, mẫu máu của bị hại Nguyễn Thái B, sinh năm: 2003, trú tại: thôn P, xã H, huyện P, Phú Yên; Mẫu máu của bị can Đặng Quốc T, sinh năm: 2001, trú tại: thôn C, xã H, huyện P, Phú Yên.

- Tiếp tục tạm giữ của bị cáo Đặng Quốc T: 01 (một) điện thoại di động hiệu Samsung Galaxy J7 (2016), màu xám đề đảm bảo thi hành án.

(Vật chứng có đặc điểm mô tả như Biên bản giao nhận vật chứng ngày 17/02/2023 giữa cơ quan Cảnh sát điều tra Công an tỉnh Phú Yên với Cục Thi hành án dân sự tỉnh Phú Yên).

- Tiếp tục lưu theo hồ sơ vụ án: 01 đĩa DVD chứa dữ liệu trích xuất từ camera phòng trọ của ông Phạm Nh.

4. Về án phí: Áp dụng Khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự; các Điều 23; 26 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án;

Bị cáo Đặng Quốc T phải chịu 200.000 đồng (Hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm và 1.982.000 đồng (Một triệu chín trăm tám mươi hai nghìn đồng) án phí dân sự sơ thẩm.

Bị cáo, bị hại và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có mặt được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Đối với những người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan vắng mặt, được quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày bản án niêm yết công khai hoặc tống đạt hợp lệ. 

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

72
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội giết người số 13/2023/HS-ST

Số hiệu:13/2023/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Phú Yên
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 15/03/2023
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về