Bản án về tội giết người số 125/2023/HS-PT

TÒA ÁN NHÂN DÂN CẤP CAO TẠI ĐÀ NẴNG

BẢN ÁN 125/2023/HS-PT NGÀY 18/04/2023 VỀ TỘI GIẾT NGƯỜI

Ngày 18 tháng 4 năm 2023, tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Quảng Trị mở phiên tòa xét xử phúc thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 559/2022/TLPT- HS ngày 07 tháng 12 năm 2022 đối với các bị cáo Võ Viết Đ, Đoàn Thanh T về tội “Giết người”. Do có kháng cáo của các bị cáo và kháng cáo của người đại diện hợp pháp của bị hại đối với Bản án hình sự sơ thẩm số 34/2022/HS-ST ngày 04 tháng 11 năm 2022 của Tòa án nhân dân tỉnh Quảng Trị.

- Các bị cáo có kháng cáo:

1. Võ Viết Đ, sinh ngày 05/11/1980 tại Quảng Trị; nơi cư trú: tỉnh Quảng Trị; nghề nghiệp: Không nghề; trình độ học vấn: 12/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Phật giáo; quốc tịchViệt Nam; con ông Võ D, sinh năm 1954 và bà Đặng Thị T, sinh năm 1954.

Tiền án; tiền sự: Không.

Bị cáo bị tạm giữ, tạm giam từ ngày 12/12/2021 cho đến nay tại Trại tạm giam Công an tỉnh Quảng Trị, có mặt tại phiên tòa.

2. Đoàn Thanh T, sinh ngày 03/6/1972 tại Quảng Trị; nơi cư trú: tỉnh Quảng Trị; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ học vấn: 09/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịchViệt Nam; con ông Đoàn Văn T, sinh năm 1947 và bà Đỗ Thị H (đã chết); vợ Lê Thị N, sinh năm 1976; có 03 con (con lớn nhất sinh năm 1997, con nhỏ nhất sinh năm 2003) Tiền án; tiền sự: Không.

Bị cáo bị tạm giữ, tạm giam từ ngày 12/12/2021 cho đến nay tại Trại tạm giam Công an tỉnh Quảng Trị, có mặt tại phiên tòa.

- Người bào chữa cho các bị cáo: Luật sư Võ Ngọc M - Văn phòng luật sư T, Đoàn luật sư tỉnh Quảng Trị; địa chỉ: tỉnh Quảng Trị, có Đơn xin vắng mặt và gởi Luận cứ bào chữa cho hai bị cáo Đ và T.

- Người bị hại: Bà Lê Thị H, sinh năm 1972 (đã chết).

- Người đại diện hợp pháp của người bị hại:

- Bà Lê Thị C, sinh năm 1945 (mẹ bị hại); nơi cư trú: tỉnh Quảng Trị, vắng mặt.

Người đại diện theo uỷ quyền của bà Lê Thị C: Bà Nguyễn Thị O, sinh năm 1964. Địa chỉ: thành phố Đà Nẵng, có mặt.

Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho bị hại Lê Thị H: Luật sư Lê Hồng S – Công ty luật hợp danh S – Chi nhánh Thừa Thiên Huế, Đoàn Luật sư thành phố Đà Nẵng. Địa chỉ: tỉnh Thừa Thiên Huế, có mặt.

Ngoài ra trong vụ án còn có người tham gia tố tụng khác không có kháng cáo, không bị kháng cáo, kháng nghị.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Năm 2013, Võ Viết Đ được chuyển về Chùa D, xã T, huyện T để chăm lo Phật sự. Võ Viết Đ có mối quan hệ thân quen với bà Lê Thị H vì trước đó Đ là đã từng giúp đỡ trong việc lo tang lễ cho con trai của bà H. Từ năm 2013 trở về sau, bà H ngày càng thể hiện sự quan tâm, chăm sóc Đ, làm cho Đ cảm thấy bà H có tình cảm vượt mức bình thường với mình muốn quản lý đời sống tu tập tại Chùa của Đ. Bên cạnh đó, mỗi khi phật tử là phụ nữ đến chùa thì bà H gây gỗ chửi bới ảnh hưởng đến quá trình tu hành, chăm lo phật tự tại Chùa. Bà H biết Đoàn Thanh T thường xuyên đi cúng với Đ nên tháng 4/2021 bà H nhờ T theo dõi Đ khi nào gặp gỡ phụ nữ thì báo cho bà H biết nhưng T không thực hiện. Từ đó, bà H trở nên ghét bỏ và thường xuyên chửi, xúc phạm cả Đ và T.

Bức xúc với thái độ của Lê Thị H, nên Đ rủ T cùng đánh bà H. Khoảng 16 giờ 40 phút ngày 11/12/2021, khi Đ đang hái lá cây mai ở sân Chùa thì bà H điều khiển xe mô tô 74D1-067.77 đến Chùa rồi đi bộ vào vị trí Đ đang đứng và chửi Đ. Lúc này, có chị Đoàn Thị Hồng T là Phật tử của Chùa đi ngang qua nghe ồn ào ghé vào xem, chị T nói với bà H “đây là Chùa, mi để thầy tu, ngày mô mi cũng về đây phá”. Hai người chửi nhau, chuẩn bị đánh nhau thì Đ can ngăn “xin hai chị đây là Chùa chiền, hai chị đừng đánh nhau, không được” nên cả hai đi về.

Tức giận với thái độ và hành động của bà H nên khoảng 16 giờ 50 phút cùng ngày, Đ gọi điện thoại cho T và nói “mua một két bia và dĩa mồi, lên ta trả tiền, tiền không thiếu”. Đến 17 giờ 10 phút, Đ lái xe mô tô 74D1-278.30 và cầm theo một gậy tre dài 64.2 cm, đường kính một đầu 03 cm, một đầu 3.5cm chạy đến nhà T ở huyện T, tại đây Đ cho T 5.000.000 đồng (Năm triệu đồng) để tiêu pha và một phần muốn kích động về mặt tinh thần để T tham gia cùng mình đánh bà H. Đ nói với T “tui chịu hết nổi với con H rồi, ngày mô cũng chửi bới, phá tài sản, hù dọa tui, chừ anh giúp tui đập hắn một trận, anh không đập để thầy đập”, T đồng ý và nói “Được”. Đ bảo T “gọi nó lui để đánh sau nhà anh cũng được” nhưng T không đồng ý vì sợ ồn ào, hàng xóm phát hiện nên nói “hẹn bà H đến bờ kè (thuộc huyện T, tỉnh Quảng Trị) để đánh bà H một phát rồi đạp xuống sông”, thì Đ đồng ý rồi giao gậy tre cho T cầm, cùng T đi ra bờ kè.

Trên đường ra bờ kè, Đ bảo T gọi điện thoại cho bà H nói “thầy đang uống với con mô ở bờ kè B” để bà H đến. Lúc 17 giờ 46 phút cùng ngày T gọi điện thoại cho bà H thì bà H trả lời “đi trước đi, tui đi sau, đang lỡ tập thể dục”. Một lát sau, bà H gọi điện cho T nói không về được. Nghe vậy, Đ nói với T “thôi hai thầy trò mình về Chùa”. Trên đường về Đ chạy trước, còn T đi mua thịt heo quay rồi trở lại Chùa.

Về đến Chùa, Đ hỏi T “cái gậy của thầy mô”, T lấy gậy tre trên xe đưa cho Đ, Đ dựng gậy tre ở chậu cây sát trụ hiên nhà Tăng, gần bể cá rồi cùng T ngồi nhậu tại trong hiên phía Đông Bắc nhà Tăng. T ngồi lưng quay về phía bể cá, mặt hướng ra cổng Chùa còn Đ ngồi đối diện với T. Đ bảo T nhắn tin cho bà H với nội dung:“Ông lừa tui, ông đang ngồi nhậu với mấy con ở Chùa mà ông nói láo đang ngồi nhậu ngoài kè” mục đích để bà H đến Chùa. Khoảng 05 phút sau khi T nhắn tin thì bà H đi xe mô tô 74D1-067.77 vào dựng trước sân Chùa, biết bà H đã đến nên Đ đi ra phía bể cá lấy gậy tre để đánh bà H.

Bà H từ ngoài cổng Chùa đi vào cửa phòng khách nhà Tăng để tìm phụ nữ nhưng không thấy, biết T lừa mình nên bà H đến vị trí bàn nhậu chửi bới, xúc phạm T. Thấy bà H chửi, T với qua bàn xi măng dùng tay trái đấm vòng từ trái qua phải trượt qua mũ bảo hiểm bà H đang đội trên đầu vừa nói “đụ mạ mi lần sau mà còn nói tau đập chết”. Cũng lúc này, Đ cầm gậy tre đi vòng phía sau lưng bà H nói với bà H “ra ngoài đi”, đồng thời Đ đánh theo hướng từ trên xuống dưới, từ trái qua phải vào vùng lưng và vai của bà H 03 phát. Bị đánh, bà H cởi mũ bảo hiểm cầm trên tay đánh về phía Đ nhằm chống trả lại nhưng không trúng, rồi Đ đánh 02 phát theo hướng từ trên xuống vào vùng đỉnh đầu của bà H. Tiếp đó, bà H tiếp tục chống cự lại bằng mũ bảo hiểm, Đ tiếp tục đánh 02 phát từ trên xuống vào đầu bà H nhưng trượt xuống hai vai. Bà H nói với Đ “tau thích chết dưới tay mi” nghe vậy Đ tiếp tục dùng gậy đánh 01 phát theo hướng từ phải qua trái vào phần miệng của bà H làm gãy 09 răng hàm trên, 02 răng hàm dưới và gãy xương hàm dưới. Lúc này, bà H ngã xuống hiên nhà van xin Đ đừng đánh nữa. T đứng đối diện nhìn thấy bà H bị Đ đánh dã man, khi bà H ngã xuống nền thì T chạy đến giật gậy tre trên tay Đ và nói: “Thôi đừng đánh nữa” rồi đem gậy tre đi vứt ở bụi cây gần tường rào giữa Chùa và Nghĩa trang liệt sĩ xã T.

Đ bị T giật gậy tre thì chạy vào phòng khách lấy một ống kim loại hình trụ tròn, màu xám, bên trong rỗng, dài 52cm, đường kính 2.1cm đi ra vị trí bà H đang nằm, cầm ở tay phải đánh 01 phát theo hướng từ phải qua trái vào vùng thái dương bà H, đánh khoảng 03 phát vào dọc theo hai tay và khoảng 04 phát vào hai chân bà H, vừa đánh Đ vừa nói “chân này, tay này ngày mô cũng về phá”. Lúc này T đi vào thì thấy bà H nằm bất tỉnh, T giật lấy ống kim loại trên tay Đ vứt ra bãi cỏ nhà hồi sư không cho Đ đánh nữa.

T và Đ nghỉ bà H đã chết, sợ người đi ngoài đường phát hiện sự việc nên T đi tắt hệ thống điện sáng trong Chùa nhưng không tìm thấy vị trí công tắc nguồn nên Đ đã đi tắt hệ thống điện sáng tại khuôn viên của Chùa rồi nói với T “anh T lên đi, việc đó để lại cho thầy”. T điều khiển xe ra khỏi Chùa nhưng xe hết xăng nên dắt bộ đến cây xăng T để đổ xăng. Còn Đ điều khiển xe mô tô của bà H đến chân cầu Đ thuộc địa phận phường Đ, thành phố Đ, tỉnh Quảng Trị nhằm đôi xe mô tô xuống sông Thạch Hãn nhưng xe nặng một mình Đ không đẩy xuống sông được nên gọi điện bảo T đến phụ mình đẩy xe xuống sông. T chạy xe đến rồi cùng Đ đẩy xe mô tô của bà H xuống sông Thạch Hãn. Sau đó T chở Đ về lại chùa.

Trên đường về lại Chùa, nghĩ bà H đã chết nên Đ hỏi T chở xác bà H đi bằng xe chi để đem đi vứt, T nói mượn xe ô tô chở đi khỏi lộ. Khi về đến Chùa, T đứng ngoài cổng, Đ vào phòng ngủ lấy một bình xịt hơi cay đi ra đưa cho T và nói “nếu bà H còn la van thì xịt cho bất tỉnh” và nói “đợi ở đây tau đi mượn xe ô tô về rồi phụ bưng bà H lên xe với để đi vứt xuống sông”. T đứng ở cổng chùa để canh gác còn Đ điều khiểm xe mô tô của mình đến nhà anh Trần Viết Q (sinh năm 1987, trú tại thôn D, xã T, huyện T) hỏi mượn xe ô tô để đi đám tại Đ, nên anh Q đồng ý cho Đ mượn xe ô tô BKS 74A-111.33.

Đ lái xe ô tô về dựng tại sân Chùa. Khi Đ và T đi vào khu vực nhà Tăng thì thấy bà H nằm gần giếng nước cách vị trí ban đầu khoảng 7m - 8m. T nhấc hai tay bà H còn Đ bưng hai chân bà H kéo lê ra xe ô tô và đặt xác bà H ở hàng ghế sau rồi đóng cửa lại. Đ điều khiển xe ô tô chở xác bà H đến bờ kè thôn Đ, xã L còn T sau khi đóng cửa Chùa lại thì điều khiển xe về nhà mình. Đ chạy xe đến bờ kè thuộc đội 3 thôn Đ thì không thấy T đến, nên Đ gọi điện thoại cho T nói “thầy lên chỗ hồi chiều, lên giúp thầy với” thì T nói “Ông tự làm cũng được”. Đ kéo xác bà H xuống xe ô tô rồi đẩy xác bà H xuống dòng sông, nhưng xác bà H vướng lại ở bờ kè nên Đ lấy một thanh cây có sẵn ở gần đó rồi đẩy xác bà H xuống nước để trôi đi, sau đó điều khiển ô tô về Chùa. Đ lấy điện thoại, mũ bảo hiểm, đôi dép của bà H và áo quần của Đ có dính máu của bà H đem đốt tại khuôn viên của chùa, rồi xoá các dấu vết lưu lại tại hiện trường gây án, chùi rửa xe ô tô sạch sẽ. Khoảng 23 giờ sợ vụ việc liên quan đến mình nên T nhắn tin bảo Đ xoá các tin nhắn trong máy điện thoại, sau đó Đ và T xoá nhật ký cuộc gọi cùng tin nhắn trong máy điện thoại của mình. Đến chiều ngày 12/12/2021, Đ mang xe trả lại cho anh Q.

Đến 00 giờ 40 phút ngày 12/12/2021, Cơ quan CSĐT Công an tỉnh Quảng Trị nhận được tin báo của Công an huyện T về việc phát hiện tử thi bà H ở tư thế nằm ngửa trôi trên sông Thạch Hãn cách bờ phía Tiểu khu 4, thị trấn Ái Từ, huyện T từ 15 mét đến 20 mét.

Tại Bản kết luận số 1217/KLGĐ-PC09, ngày 14/12/2021 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Quảng Trị, kết luận: Nguyên nhân chết của bà Lê Thị H do Đa chấn thương (Chấn thương sọ não - Chấn thương hàm mặt).

Tại bản kết luận giám định số 1561/C09C-Đ1+Đ3, ngày 12/01/2022 của Phân viện Khoa học hình sự tại Đà Nẵng, kết luận: Trong mẫu ghi thu dịch âm đạo của tử thi Lê Thị H (ký hiệu M1) không có xác tinh trùng người. Trên ống kim loại hình trụ (ký hiệu M2) và trên gậy bằng tre (ký hiệu M3) có máu của Lê Thị H, không có máu của Đoàn Thanh T và Võ Viết Đ. Trên áo và quần thu của Đoàn Thanh T (ký hiệu M6) không có máu người. Trong 04 (bốn) mẫu chất màu nâu thẩm nghi máu (ký hiệu M4), trong 03 (ba) mẫu chất màu nâu nghi máu (ký hiệu M5) có máu của Lê Thị H, không có máu của Đoàn Thanh T và Võ Viết Đ.

Trong mẫu sản phẩm cháy không có máu người. Trong mẫu sản phẩm cháy có vải sợi. Trên ống kim loại và trên gậy tre gửi giám định không phát hiện có dấu vết đường vân.

- Tại bản kết luận giám định số 1560/C09C-Đ2, ngày 30/12/2021 của Phân viện Khoa học hình sự tại Đà Nẵng, kết luận: Trong các mẫu vật gửi giám định không tìm thấy dấu vết của xăng, dầu và hoá chất dễ cháy. Trong các mẫu vật gửi giám định có 01 (một) vật bằng kim loại hình chữ nhật (dạng bo mạch; kích thước 6,8cmx3,8cm; đã bị nhiệt tác động làm cháy, hư hỏng) là bo mạch điện tử, không đủ cơ sở để xác định bo mạch điện tử này có phải là linh kiện của điện thoại di động hay không. Các mẫu vật còn lại đã bị nhiệt tác động làm cháy, biến dạng nên không đủ cơ sở để xác định có phải là linh kiện của điện thoại di động hay không.

- Tại bản kết luận giám định số 286/KLGĐ- PC09 ngày 03/3/2022 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Quảng Trị, kết luận: Camera hành trình nhãn hiệu Vietmap số S/N A4520171101924 bên trong gắn kèm 01 thẻ nhớ in nhãn hiệu VETMAP Micro SD 16GB. Trong thẻ có lưu trữ các tập tin video. Không đủ cơ sở xác định hình ảnh liên quan đến vụ án; Đầu thu camera nhãn hiệu Vantech có ký hiệu VP-860NMVR 8CH 1080P bên trong đầu ghi không có bộ phận lưu trữ dữ liệu video. Không có dữ liệu hình ảnh.

- Tại bản kết luận số 285/KLGĐ- PC09 ngày 03/3/2022 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Quảng Trị, kết luận: Không tìm thấy tin nhắn trên các điện thoại giám định.

- Tại bản kết luận số 238/KL-KTHS ngày 18/02/2022 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Quảng Trị, kết luận: Ống kim loại và gậy tre gây được vết thương ở vùng đỉnh thái dương, trán trái, sống mũi, mi dưới, cẳng tay trái, đùi phải nạn nhân Lê Thị H.

- Tại bản kết luận số 851/KL-KTHS ngày 04/8/2022 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Quảng Trị, kết luận: Mẫu vật gửi đến giám định có tính năng tác dụng tương tự bình xịt hơi cay.

- Tại bản kết luận định giá tài sản số 1464/KL-HĐĐGTS ngày 29/4/2022 của Hội đồng định giá trong tố tụng hình sự, kết luận: xe máy Honda Wave RSX 74D1-067.77 tại thời điểm định giá ngày 04/2022có giá trị 5.000.000 đồng. Các bộ phận hư hỏng của 01 xe mô tô Honda 74D1-067.77 tại thời điểm định giá 04/2022 giá trị 1.765.000 đồng. Không có cơ sở định giá đối với tài sản là điện thoại, mủ bảo hiểm, dép nhựa do không có thông tin, hồ sơ để làm căn cứ xác định giá trị.

Vật chứng, tài sản thu giữ:

- Xe mô tô nhãn hiệu Yamaha, số loại NVX, màu sơn: Đen Đỏ, số khung: D3101JY020341, số máy: E3Y6E020346 biển kiểm soát 74D1-275.63.

- Xe mô tô nhãn hiệu Yamaha, số loại Nozza grande, màu sơn: Đen, số khung: RLCSEE510KY004500, số máy: E31KE016245 biển kiểm soát 74D1- 278.30.

- Xe mô tô nhãn hiệu Honda, số loại Wave RSX, số khung: RLHJC522XCY030636, số máy: JC52E-5159751 biển kiểm soát 74D1-067.77.

- Đầu thu Camera nhãn hiệu Vantech.

- Camera hành trình nhãn hiệu Vietmap, số S/N: A4520171101924, model A45, bên trong kèm theo thẻ nhớ.

- 01 vật hình trụ tròn màu đen, trên nắp có nút màu đỏ, bên ngoài có chữ USA Police tear gas EJECTOR, dạng bình xịt, kích thước cáo 11.7cm, đường kính mặt dưới 3.5cm, đường kính nắp 3.2cm.

- Điện thoại di động nhãn hiệu Iphone màu xanh rêu, số imei:

353906101623545, có gắn thẻ sim có số seri: 8984048851002669325.

- Điện thoại di động nhãn hiệu Samsung, màu kem, đã vở rạn mặt trước sau, số imei: 355647075604412, có gắn 02 thẻ sim số seri:

8984048000035680596 và 89840200010512340126.

- Điện thoại di động nhãn hiệu Oppo, màu xanh rêu, số imei 1:

866983052763794, số imei 2: 866983052763786, có gắn 02 thẻ sim số seri:

8940509201280226088 và 89840200010691531925.

- Ống kim loại hình trụ tròn, màu xám, bên trong ruột ống rỗng, dài 52cm, đường kính 2.1cm.

- Gậy tre dài 64.2cm, đường kính một đầu 03cm, một đầu 3.5cm.

- Áo khoác dài tay màu xanh đen, ở mặt ngoài của lưng và ngực áo có chữ “NIKE” và quần vải màu xanh ghi của Đoàn Thanh T.

- Một sản phẩm cháy bị than hoá phần lớn, còn lại một số chưa bị than hoá dạng giấy, lá cây, vải sợi, kim loại bao gồm: 01 vật bằng kim loại có hình chữ nhật dạng bo mạch có kích thước (6.8x3.8)cm; 01 vật bằng kim loại bị công vênh không có hình dạng xác định, có kích thước (4.8x3.2)cm; 01 vật dạng hình chữ nhật kích thước (4.1x3.2)cm; 01 vật bằng kim loại bị công vênh không rõ hình, kích thước (3.5x5.7)cm; một số sản phẩm cháy bị biến dạng, dạng vải sợi, giấy và 02 vật kim loại hình tròn (dạng cúc áo quần), 01 cái có đường kính 1.5cm, 01 cái có đường kính 1.7cm.

- Mẫu dịch âm đạo của bà Lê Thị H.

- 04 mẫu thấm chất màu nâu thu tại 04 vị trí: vết số 1 cách mép dưới cửa 33.5cm, cách mép cạnh lề cửa 16cm. Vết số 2 cách vết số 1 xuống phía dưới hơi chếch về bên trái 44cm, cách mép tường Đông Bắc 3.1m, cách mặt hiên 08cm. Vết số 3 cách vết số 2 về hướng Đông Bắc 90cm, cách mặt nền hiên 9.5cm. Vết số 4 cách vết số 3 1.5m, cách mặt nền hiên 53cm.

- 03 mẫu thấm chất màu nâu thu tại mép trong cửa phía sau bên phải; dây đai an toàn ghế sau bên phải và ghế ngồi phía sau xe ô tô.

- Mẫu máu của bà Lê Thị H.

- Mẫu niêm mạc miệng của Võ Viết Đ.

- Mẫu niêm mạc miệng của Đoàn Thanh T.

Việc xử lý vật chứng:

- Cơ quan CSĐT Công an tỉnh Quảng Trị đã ra Q định xử lý vật chứng trả lại xe mô tô 74D1-067.77 cho bà Lê Thị Diệu T - Người đại diện hợp pháp của bị hại. Trả đầu thu camera nhãn hiệu Vantech cho ông Đoàn Quang V, sinh năm 1972, trú tại thôn D, xã T, huyện T, tỉnh Quảng Trị đại diện chùa D. Trả Camera hành trình nhãn hiệu Vietmap, số S/N: A4520171101924, model A45, bên trong kèm theo thẻ nhớ cho chủ sở hữu là ông Trần Viết Q. Trả xe mô tô 74D1-278.30 cho chủ sở hữu là ông Võ Viết Đ, sinh năm 1983, trú tại tỉnh Thừa Thiên Huế. Trả xe mô 74D1-275.63 cho chủ sở hữu là bà Lê Thị Nhớ, sinh năm 1976, trú tại thôn Đại Thượng Hạ, xã L, huyện T, tỉnh Quảng Trị.

Các mẫu phục vụ giám định đã sử hết trong quá trình giám định, gồm: Mẫu dịch âm đạo của bà Lê Thị H; 04 mẫu thấm chất màu nâu thu tại 04 vị trí tại hiện trường gây án; 03 mẫu thấm chất màu nâu thu tại mép trong cửa phía sau bên phải xe ô tô và tại dây đai an toàn ghế sau bên phải và ghế ngồi phía sau xe ô tô; Mẫu máu của bà Lê Thị H; mẫu niêm mạc miệng của Võ Viết Đ; mẫu niêm mạc miệng của Đoàn Thanh T.

Các vật chứng, đồ vật, tài liệu còn lại được chuyển theo hồ sơ vụ án. Đĩa CD chứa file ghi âm lời khai của Đ, T chuyển kèm theo hồ sơ vụ án.

Cáo trạng số39/CT-VKS-P2 ngày 30/9/2021 của Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Quảng Trị đã truy tố bị cáoVõ Viết Đ, Đoàn Thanh T về tội “Giết người” theo điểm n khoản 1 Điều 123 Bộ luật hình sự.

Tại Bản án hình sự sơ thẩm số 34/2022/HS-ST ngày 04/11/2022 của Toà án nhân dân tỉnh Quảng Trị đã quyết định:

1. Tuyên bố bị cáo Võ Viết Đ và Đoàn Thanh T phạm tội: “Giết người”.

2. Áp dụng điểm n khoản 1 Điều 123; điểm s khoản 1 Điều 51 BLHS. Riêng Võ Viết Đ áp dụng thêm điểm e khoản 1 Điều 52 BLHS xử phạt:

Bị cáoVõ Viết Đ:Tù chung thân, thời hạn tù tính từ ngày bị tạm giữ, tạm giam 12/12/2021.

Bị cáo Đoàn Thanh T: 12 (mười hai) năm tù, thời hạn tù tính từ ngày bị tạm giữ, tạm giam 12/12/2021.

Ngoài ra, Bản án sơ thẩm còn tuyên về phần xử lý vật chứng, về án phí và thông báo về quyền kháng cáo.

Ngày 18/11/2022, bị cáo Võ Viết Đ có đơn kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt, Ngày 10/11/2022, bị cáo Đoàn Thanh T có đơn kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt, Ngày 17/11/2022, người đại diện hợp pháp của bị hại Lê Thị H là bà Lê Thị C có đơn kháng cáo với nội dung: Đề nghị tăng hình phạt tử hình đối với bị cáo Võ T Đ, tăng hình phạt 20 năm tù đối với bị cáo Đoàn Thanh T, hoặc hủy bản án sơ thẩm để điều tra truy tố thêm hành vi “Xâm phạm thi thể” và “Cướp tài sản” của các bị cáo Võ Viết Đ, Đoàn Thanh T.

Tại phiên tòa phúc thẩm: Các bị cáo Võ Viết Đ và Đoàn Thanh T đều yêu cầu xét xử vắng mặt người bào chữa và giữ nguyên yêu cầu kháng cáo xin giảm hình phạt tù.

Kiểm sát viên đại diện cho Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Đà Nẵng phát biểu quan điểm về giải quyết vụ án như sau: Tào án sơ thẩm đã xét xử các bị cáo Đ và T về tội giết người và tuyên phạt Đ tù chung thân, T tù 12 năm là có căn cứ đúng pháp luật các bị cáo kháng cáo không có tình tiết giảm nhẹ mới nên không chấp nhận kháng cáo của hai bị cáo Đ và T; đồi với kháng cáo của đại diện hợp pháp cho người bị hại thấy: Bị cáo Đ thực hiện hành vi xảo quyệt do đó chấp nhận một phần kháng cáo của đại diện người bị hại, tuy nhiên mức án phạt tù chung thân đối với bị cáo Đ là phù hợp, do đó không chấp nhận kháng cáo của đại diện người bị hại giữ nguyên Bản án sơ thẩm.

Tại Luận cứ bào chữa của người bào chữa cho hai bị cáo: - Đối với bị cáo Võ Viết Đ không phạm tội có tính chất côn đồ, không cố tình phạm tội đến cùng nên chỉ xử Võ Viết Đ khoản 2 Điều 123 BLHS là có căn cứ; - đối với bị cáo Đoàn Thanh T không phạm tội cần được minh oan.

Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho người bị hại trình bày: Hành vi phạm tội của các bị cáo có tổ chức, có hành động xảo quyệt nhằm che dấu tội phạm; theo lời khai các nhân chứng thì có thấy bà H có tài sản là trang sức nhưng chưa được điều tra làm rõ, đề nghị tăng hình phạt đối với hai bị cáo hoặc hủy Bản án sơ thẩm để điều tra lại.

Người đại diện hợp pháp của người bị hại: Thống nhất với người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho người bị hại.

Bị cáo Võ Viết Đ thừa nhận hành vi phạm tội xin giảm hình phạt. Bị cáo Đoàn Thanh T xin giảm hình phạt tù.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Xét lời khai nhận hành vi phạm tội của các bị cáo tại phiên tòa phù hợp với các tài liệu chứng cứ có trong hồ sơ vụ án, Hội đồng xét xử có đủ cơ sở xác định:

Sau khi đã bàn bạc, thống nhất về việc đánh bà Lê Thị H, vào khoảng 18 giờ 00 phút ngày 11/12/2021, tại chùa D, Đoàn Thanh T đã có hành vi dùng tay đấm vào đầu bà H nhưng không trúng, ngay lúc Võ Viết Đ đã sử dụng gậy tre đánh vào lưng, vai và vùng mặt của bà H làm gãy 9 răng hàm trên và 2 răng hàm dưới, gãy xương hàm dưới. Khi thấy bà H van xin, T giật gậy tre trên tay Đ vứt đi nhưng Võ Viết Đ vẫn tiếp tục lấy gậy sắt đánh 01 phát trúng vào vùng thái dương và nhiều phát vào vùng tay, chân bà H hậu quả làm bà H chết. Sợ hành vi của mình bị phát hiện Võ Viết Đ và Đoàn Thanh T đã bàn bạc để Đ mượn xe ô tô chở xác bà H phi tang; cả hai bị cáo cùng đưa thi thể bà H lên xe ô tô, sau đó Đ một mình lái xe chở thi thể bà H đi vứt xuống bờ kè thôn Đ, xã L.

Tòa án sơ thẩm đã xét xử bị cáo Võ Viết Đ, Đoàn Thanh T về tội “Giết người” theo điểm n khoản 1 Điều 123 BLHS là có căn cứ, đúng pháp luật.

[2] Xét kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt của bị cáo Võ Viết Đ, Đoàn Thanh T; kháng cáo tăng hình phạt đối với các bị cáo hoặc hủy bản án sơ thẩm để điều tra lại của đại diện hợp pháp cho người bị hại, thấy: Hành vi của các bị cáo đã xâm hại đến tính mạng của người khác đồng thời ảnh hưởng xấu đến tình hình an ninh, trật tự tại địa phương, gây bất bình, hoang mang trong dư luận nhân dân. Bị cáo Võ Viết Đ là người khởi xướng việc đánh người bị hại và cũng là người thực hành tích cực, phạm tội đến cùng; hành vi của bị cáo thực hiện trực tiếp gây ra hậu quả chết người đối với người bị hại; sau khi bị hại Lê Thị H chết một mình bị cáo chở thi thể bị hại đi vứt để phi tang. Bị cáo Đoàn Thanh T là người cùng bàn bạc với Đ, thống nhất ý chí,thực hiện hành vi dụ người bị hại Lê Thị H tới Chùa để đánh, giúp sức cho Đ về mặt tinh thần, và cùng Đ bưng xác nạn nhân lên xe ô tô chở đi phi tang. Tòa án sơ thẩm đã áp dụng điểm n khoản 1 Điều 123, điểm e khoản 1 Điều 52 BLHS năm 2015 xử phạt Võ Viết Đ tù chung thân, và áp dụng điểm n khoản 1 Điều 123 xử phạt Đoàn Thanh T 12 năm tù về tội “Giết người” là đúng người, đúng tội, đúng pháp luật không nặng. Tại cấp phúc thẩm các bị cáo kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt, đại diện hợp pháp cho người bị hại kháng cáo tăng hình phạt hoặc đề nghị hủy án nhưng không có tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự nào mới hoặc chứng cứ nào mới khác; do đó Hội đồng xét xử không chấp nhận kháng cáo của các bị cáo Võ Viết Đ và Đoàn Thanh T, đại diện hợp pháp cho người bị hại giữ nguyên quyết định của Bản án sơ thẩm.

[3] Các quyết định khác của bản án sơ thẩm về xử lý vật chứng, án phí hình sự sơ thẩm, không bị kháng nghị và không có kháng cáo có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

[4] Án phí hình sự phúc thẩm bị cáo Võ Viết Đ, Đoàn Thanh T phải chịu, theo quy định tại khoản 2 Điều 135, khoản 2 Điều 136 Bộ luật tố tụng Hình sự, Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí tòa án.

[5] Tiếp tục tạm giam các bị cáo để đảm bảo thi hành án.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ điểm a khoản 1 Điều 355, Điều 356 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015(Sửa đổi bổ sung năm 2017);

Căn cứ khoản 2 Điều 135, khoản 2 Điều 136 Bộ luật tố tụng Hình sự, Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí tòa án.

1.Không chấp nhận kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt của bị cáo Võ Viết Đ, Đoàn Thanh T; kháng cáo tăng hình phạt đối với các bị cáo hoặc hủy Bản án sơ thẩm để điều tra lại của đại diện hợp pháp cho người bị hại và giữ nguyên bản án hình sự sơ thẩm số 34/2022/HS-ST ngày 04/11/2022 của Tòa án nhân dân tỉnh Quảng Trị.

Áp dụng điểm n khoản 1 Điều 123; điểm s khoản 1 Điều 51; điểm e khoản 1 Điều 52 BLHS năm 2015(sửa đổi bổ sung năm 2017) xử phạt: Bị cáoVõ Viết Đ:Tù chung thân về tội: “Giết người”. Thời hạn tù tính từ ngày bị tạm giữ, tạm giam 12/12/2021.

Áp dụng điểm n khoản 1 Điều 123; điểm s khoản 1 Điều 51 BLHS năm 2015(sửa đổi bổ sung năm 2017) xử phạt: Bị cáo Đoàn Thanh T: 12(mười hai) năm tù về tội: “Giết người”, thời hạn tù tính từ ngày bị tạm giữ, tạm giam 12/12/2021.

2. Các Q định khác của bản án hình sự sơ thẩm số: số 34/2022/HS-ST ngày 04/11/2022 của Tòa án nhân dân tỉnh Quảng Trị về xử lý vật chứng, án phí hình sự sơ thẩm, không có kháng cáo, không bị kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật, kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

3. Án phí hình sự phúc thẩm các bị cáo Võ Viết Đ, Đoàn Thanh T phải chịu mỗi bị cáo 200.000 đồng(Hai trăm ngàn đồng).

Bản án hình sự phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

56
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội giết người số 125/2023/HS-PT

Số hiệu:125/2023/HS-PT
Cấp xét xử:Phúc thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân cấp cao
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 18/04/2023
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về