TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH KHÁNH HÒA
BẢN ÁN 125/2022/HS-ST NGÀY 23/11/2022 VỀ TỘI GIẾT NGƯỜI
Ngày 23 tháng 11 năm 2022, tại Trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Khánh Hòa, xét xử công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số 157/2022/TLST-HS ngày 01/11/2022, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 151/2022/QĐXXST-HS ngày 04/11/2022, Quyết định hoãn phiên tòa số 115/2022/HSST-QĐ ngày 18/11/2022, đối với bị cáo:
Trần Quốc B, sinh năm: 1985, tại: Khánh H1; Nơi ĐKNKTT: Thôn Tân L1, xã Cam Phước T3, huyện Cam L2, tỉnh Khánh H1; Chỗ ở hiện nay: Tổ dân phố Đá B1, phường Cam L, thành phố Cam R, tỉnh Khánh H1; Nghề nghiệp: Lái xe ô tô; Trình độ học vấn: 7/12; Dân tộc: Kinh; Giới tính: Nam; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; con ông Trần Văn M (Chết) và bà Nguyễn Thị Viên Y, sinh năm 1957; Vợ Phan Thị Ngọc Q1, sinh năm 1993 và con Trần Thị Bảo P, sinh năm 2005; Tiền án: Bản án số 78/2006/HSST ngày 29/12/2006 của Tòa án nhân dân thị xã Đông H1, tỉnh Quảng T4 xử phạt bị cáo Trần Quốc B 06 (sáu) tháng tù nhưng cho hưởng án treo, thời gian thử thách 12 (mười hai) tháng tính từ ngày tuyên án sơ thẩm. Thi hành xong phần án phí hình sự sơ thẩm và án phí dân sự sơ thẩm ngày 16/9/2010, chưa thi hành phần bồi thường dân sự 1.250.000đ; tiền sự: Không; Bị cáo bị tạm giữ, tạm giam từ ngày 21/5/2022, bị cáo có mặt tại phiên tòa.
* Người bào chữa cho bị cáo Trần Quốc B: Luật sư Huỳnh Tuấn K1, Văn phòng Luật sư Nguyễn Đình T5, thuộc Đoàn Luật sư tỉnh Khánh H1. (Vắng mặt) * Người bị hại : Ông Đặng Xuân K, sinh năm 1987;
Địa chỉ: Thôn An T6, xã Nhơn P1, huyện An N3, tỉnh Bình Đ2.
Người đại diện theo ủy quyền của người bị hại: Bà Nguyễn Thị Hoàng G; địa chỉ: Tổ dân phố Sông T7, thị trấn Ba N5, thành phố Cam R, tỉnh Khánh H1. (Có mặt) * Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan :
1/ Ông Mai Trung T, sinh năm 1972;
Địa chỉ: Thôn Thống N4, xã Cam Phước Đ1, thành phố Cam R, tỉnh Khánh H1.
(Có mặt) 2/ Bà Nguyễn Thị Viên Y, sinh năm 1957, Địa chỉ: Thôn Tân L1, xã Cam Phước T3, huyện Cam L2, tỉnh Khánh H1.
(Có mặt) * Người làm chứng :
1/ Ông Phạm Văn Đ, sinh năm 1983; địa chỉ: Thôn Bà R1, xã Lợi H3, huyện Thuận B, tỉnh Ninh T8. (Vắng mặt) 2/ Bà Nguyễn Thị Mộng C, sinh năm 1993; địa chỉ: Thôn Lam S, xã Cam Thành B, huyện Cam L2, tỉnh Khánh H1. (Vắng mặt) 3/ Bà Nguyễn Thị Kim T1, sinh năm 1994; địa chỉ: Tổ dân phố Trà L3 1, phường Ba N5, thành phố Cam R, tỉnh Khánh H1. (Vắng mặt) 4/ Ông Lê Văn T2, sinh năm 1992; địa chỉ: Thôn Hòn Q, xã Cam Thịnh Đ1, thành phố Cam R, tỉnh Khánh H1. (Vắng mặt) 5/ Ông Nguyễn Trọng H, sinh năm 1993; địa chỉ: Thôn Phú N6, xã Hòa Mỹ Đ1, huyện Tây H1, tỉnh Phú Y1. (Vắng mặt)
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Trần Quốc B, Mai Trung T, Đặng Xuân K đều là tài xế lái xe ben của Công ty TNHH đá Hóa A 1, có văn phòng đặt tại Cảng Cam R thuộc tổ dân phố Đá B1, phường Cam L, thành phố Cam R, tỉnh Khánh H1. Trong quá trình lái xe giữa B và K có xảy ra mâu thuẫn vì K thường xuyên làn đường ép xe của B.
Khoảng 11h00’ ngày 20/4/2019, Trần Quốc B, Mai Trung T, Phạm Văn Đ, Lâm Văn T7, Ngô Văn Đông D và D1 (chưa xác định lai lịch) ngồi ăn uống tại nhà của Đ tại thôn Giải P1, xã Cam Phước Đ1, thành phố Cam R, tỉnh Khánh H1. Quá trình ngồi ăn uống, B nói muốn đánh Đặng Xuân K vì K hay chạy ép xe của B. T và những người ngồi ăn uống khuyên B bỏ qua vì K đã điện thoại xin lỗi, B nghe xong không nói nữa.
Khoảng 14h 30’ cùng ngày, B điều khiển xe mô tô chở T đi xuống cảng Cam R để kiểm tra xe ô tô do T phụ trách. Khi T kiểm tra xe thì B phát hiện xe ô tô do K điều khiển đi vào bãi đỗ xe. B điều khiển xe mô tô đuổi theo thì K xuống xe bỏ chạy vào văn phòng của Công ty TNHH Đá Hóa A 1 tại Cảng Cam R thuộc tổ dân phố Đá B1, phường Cam L, thành phố Cam R, tỉnh Khánh H1. T thấy vậy chạy theo can ngăn B. Lúc này, K được Phạm Văn Đ khuyên ra ngoài nói chuyện với B, K đồng ý. Khi K và Đ đi ra ngoài nói chuyện với T thì B chạy đến bên hông cửa phòng lấy đoạn tre dài 90cm đánh liên tiếp 02 cái vào đầu của K từ phía sau. B đánh cái thứ 3 thì T giơ tay phải lên đỡ cho K nên trúng tay T. Thấy K ngã xuống đất nằm bất tỉnh, B vứt đoạn tre tại đây rồi bỏ đi, còn K được người dân đưa đi cấp cứu tại Bệnh viện Cam R, rồi chuyển đến Bệnh viện tỉnh Khánh H1: Bệnh viện Chợ R1 thành phố Hồ Chí M; Bệnh viện Quận 2, thành phố Hồ Chí M. Đến ngày 21/6/2019, K xuất viện. Đối với B và T do sợ bị người nhà của K trả thù nên đã bỏ trốn khỏi địa phương. Ngày 23/4/2019, T đến Công an thành phố Cam R trình diện. Ngày 20/5/2022, B bị bắt theo Quyết định truy nã số 872 ngày 16/7/2019 của Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an tỉnh Khánh H1.
Tại Bản kết luận giám định Pháp y về thương tích số 148/TgT ngày 27/5/2019 của Trung tâm pháp y - Sở y tế tỉnh Khánh H1 kết luận Đặng Xuân K:
1. Dấu hiệu chính qua giám định:
- 01 vết sẹo có kích thước nhỏ (sẹo vết thương). Tỷ lệ thương tật: 2%;
- Chấn thương vùng đầu gây tụ máu ngoài và dưới màng cứng thái dương đỉnh chẩm phải, vỡ lún xương sọ đỉnh phải; đã được phẫu thuật. Hiện tại: hôn mê, đặt nội khí quản, tứ chi liệt, đại tiểu tiện không tự chủ. Tỷ lệ thương tật 81%;
2. Tỷ lệ tổn thương cơ thể do thương tích gây nên hiện tại là 81%.
Theo Cáo trạng số 102/CT-VKSKH-P1 ngày 12 tháng 9 năm 2022, Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Khánh H1 đã truy tố bị cáo Trần Quốc B về tội “Giết người” theo điểm n khoản 1 Điều 123 của Bộ luật Hình sự 2015.
Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Khánh H1 vẫn giữ nguyên quyết định truy tố bị cáo theo như nội dung bản Cáo trạng và đề nghị Hội đồng xét xử:
Áp dụng điểm n khoản 1 Điều 123, điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51, điểm h khoản 1 Điều 52, Điều 15, khoản 3 Điều 57 Bộ luật hình sự 2015; xử phạt bị cáo Trần Quốc B từ 13 (mười ba) năm đến 15 (mười lăm) năm tù.
Về trách nhiệm dân sự: Bị cáo Trần Quốc B đã bồi thường số tiền 100.000.000đ (Một trăm triệu đồng) cho người bị hại Đặng Xuân K. Tại phiên tòa đại diện hợp pháp của người bị hại bà Nguyễn Thị Hoàng G không yêu cầu bị cáo Trần Quốc B bồi thường gì thêm nên đề nghị Hội đồng xét xử không xem xét; Về vật chứng: Đề nghị Hội đồng xét xử tịch thu, tiêu hủy: 01 (một) đoạn tre dài 90cm;
Luật sư Huỳnh Tấn K1 gửi bài bào chữa cho bị cáo Trần Quốc B: hành vi của bị cáo đã cấu thành tội “Giết người” theo điểm n khoản 1 Điều 123 Bộ luật hình sự năm 2015. Luật sư K1 thống nhất với ý kiến luận tội của đại diện Viện kiểm sát tại phiên tòa. Bị cáo Trần Quốc B đã bồi thường thiệt hại cho người bị hại và người bị hại đã có đơn xin bãi nại nên đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng Điều 54 của Bộ luật hình sự năm 2015 theo đề nghị của đại diện viện kiểm sát để giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo Trần Quốc B.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:
[1.] Về thủ tục tố tụng: Luật sư Huỳnh Tuấn K1 là người bào chữa cho bị cáo có đơn xin xét xử vắng mặt và có gửi Luận cứ bảo vệ cho bị cáo Bảo. Tại phiên tòa bị cáo Trần Quốc B đồng ý xét xử vắng mặt Luật sư Khải và công bố luận cứ bào chữa. Do đó, Tòa án vẫn tiến hành xét xử vụ án là đúng theo quy định tại khoản 2 Điều 291 của Bộ luật tố tụng hình sự.
[2.] Về nội dung vụ án:
[2.1.] Tại phiên tòa, bị cáo Trần Quốc B đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của bị cáo như nội dung bản Cáo trạng mà Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Khánh Hòa đã truy tố đối với bị cáo. Lời khai của bị cáo phù hợp với lời khai của người bị hại, các người làm chứng và các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án, đã được xét hỏi tại phiên tòa.
[2.2.] Do mâu thuẫn nhỏ nhặt trong công việc là tài xế lái xe ben của Công ty TNHH đá Hóa A 1. Bị cáo Trần Quốc B đã dùng đoạn tre dài 90cm đánh liên tiếp 02 (hai) cái vào đầu của Đặng Xuân K từ phía sau, với tỷ lệ tổn thương cơ thể do thương tích gây nên là 81%. Hành vi của bị cáo Trần Quốc B đã đủ yếu tố cấu thành tội “Giết người” theo điểm n khoản 1 Điều 123 Bộ luật hình sự năm 2015 và thuộc trường hợp phạm tội chưa đạt được quy định tại Điều 15 của Bộ luật hình sự năm 2015.
[2.3.] Do đó, Cáo trạng số 102/CT-VKSKH-P1 ngày 12 tháng 9 năm 2022, Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Khánh H1 đã truy tố bị cáo Trần Quốc B về tội “Giết người” theo điểm n khoản 1 Điều 123 của Bộ luật Hình sự 2015 là có căn cứ, đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.
[2.4.] Đánh giá tính chất vụ án là đặc biệt nghiêm trọng, hành vi của bị cáo đặc biệt nguy hiểm cho xã hội, gây mất trật tự trị an ở địa phương, bị cáo đã có một tiền án mà tiếp tục phạm tội nên thuộc trường hợp tái phạm, sau khi thực hiện hành vi phạm tội thì bị cáo đã bỏ trốn và đã bị bắt theo quyết định truy nã. Do đó, cần phải xử phạt bị cáo một mức hình phạt nghiêm khắc mới tương xứng với tính chất, mức độ hành vi phạm tội của bị cáo để răn đe, giáo dục và phòng ngừa chung cho xã hội.
[2.5.] Tuy nhiên, tại phiên tòa sơ thẩm bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải; bị cáo đã bồi thường thiệt hại cho người bị hại và người bị hại đã có đơn xin bãi nại cho bị cáo. Do vậy, Hội đồng xét xử nghĩ nên xem xét và giảm nhẹ cho bị cáo một phần hình phạt theo điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự năm 2015 để bị cáo an tâm cải tạo sớm trở thành công dân tốt và có ích cho xã hội.
[3.] Về trách nhiệm dân sự: Người đại diện theo ủy quyền của người bị hại là bà Nguyễn Thị Hoàng G không có yêu cầu gì thêm về vấn đề bồi thường đối với bị cáo Trần Quốc B nên Hội đồng xét xử không xem xét.
[4.] Về xử lý vật chứng:
Tịch thu, tiêu hủy: 01 (một) đoạn tre dài 90cm;
(Theo biên bản giao nhận vật chứng giữa Cơ quan điều tra và Cục thi hành án dân sự tỉnh Khánh Hòa ngày 23/9/2022).
[5.] Về án phí: Bị cáo Trần Quốc B phải nộp 200.000đ (Hai trăm ngàn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.
[6.] Về kiến nghị của Hội đồng xét xử sơ thẩm: Tòa án nhân dân tỉnh Khánh H1 đã tiến hành trả hồ sơ cho Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Khánh H1 theo Quyết định trả hồ sơ để điều tra bổ sung số 51/2022/HSST-QĐ ngày 26/9/2022 nhưng Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Khánh H1 vẫn giữ nguyên nội dung Cáo trạng số 102/CT-VKSKH-P1 ngày 12 tháng 9 năm 2022. Do đó, căn cứ vào Điều 298 “Giới hạn của việc xét xử” của Bộ luật tố tụng 2015 thì Hội đồng xét xử sơ thẩm kiến nghị Cơ quan có thẩm quyền xem xét về dấu hiệu bỏ lọt tội phạm theo như nội dung trả hồ sơ để điều tra bổ sung của Tòa án nhân dân tỉnh Khánh H1.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ vào điểm n khoản 1 Điều 123, điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51, điểm h khoản 1 Điều 52, Điều 15, khoản 3 Điều 57 Bộ luật hình sự 2015; Điều 136, Điều 333 Bộ luật tố tụng hình sự 2015 đối với bị cáo Trần Quốc B.
Căn cứ vào Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 Quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án;
* X ử phạ t: Bị cáo Trần Quốc B 15 (mười lăm) năm tù về tội “Giết người”.
Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt, tạm giam 21/5/2022.
Về trách nhiệm dân sự: Người đại diện theo ủy quyền của người bị hại là bà Nguyễn Thị Hoàng G không có yêu cầu gì thêm về vấn đề bồi thường đối với bị cáo Trần Quốc B nên Hội đồng xét xử không xem xét.
Về xử lý vật chứng: Áp dụng khoản 1, khoản 2 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự 2015;
Tịch thu, tiêu hủy: 01 (một) đoạn tre dài 90cm;
(Theo biên bản giao nhận vật chứng giữa Cơ quan điều tra và Cục thi hành án dân sự tỉnh Khánh Hòa ngày 23/9/2022).
Về án phí: Bị cáo Trần Quốc B phải nộp 200.000đ (Hai trăm ngàn đồng) án phí hình sự sơ thẩm;
Về quyền kháng cáo: Bị cáo, người bị hại, các người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan được quyền kháng cáo bản án sơ thẩm trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án để đề nghị Tòa án nhân dân cấp cao tại Đà Nẵng xét xử lại theo trình tự phúc thẩm.
Bản án về tội giết người số 125/2022/HS-ST
Số hiệu: | 125/2022/HS-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Khánh Hoà |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 23/11/2022 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về