Bản án về tội giết người số 119/2023/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH GIA LAI

BẢN ÁN 119/2023/HS-ST NGÀY 04/12/2023 VỀ TỘI GIẾT NGƯỜI

Ngày 04/12/2023, tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh G, công khai xét xử sơ thẩm vụ án hình sự thụ lý số 118/2023/TLST-HS ngày 20/10/2023 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 15/2023/QĐXXST-HS ngày 10/11/2023 đối với bị cáo sau:

Đoàn Long Nh. Sinh ngày 01/4/2001 tại KBang, G; nơi ĐKHKTT: thôn 1, xã Sơ Pai, huyện K, tỉnh G; giới tính: nam; quốc tịch: Việt Nam; dân tộc: kinh; tôn giáo: không; nghề nghiệp: làm nông; học vấn: 7/12; cha là Đoàn Trọng B, sinh năm 1978, mẹ là Phạm Thị H, sinh năm 1980; gia đình bị cáo có 3 anh em, bị cáo là con lớn nhất; chưa có vợ; tiền án, tiền sự: không.

Bị bắt ngày 05/7/2023, tạm giam đến nay, hiện đang bị tạm giam tại Trại tạm giam Công an tỉnh G. Có mặt.

* Người bào chữa theo chỉ định cho bị cáo: Luật sư Lương Ngọc P, VPLS Lương Gia P, thuộc Đoàn Luật sư tỉnh G. Địa chỉ: 228 Hoàng Hoa Thám, phường An Tân, thị xã A, tỉnh G. Có mặt

* Người bào chữa theo yêu cầu của bị cáo: Luật sư Phan Quang H, công ty Luật Hoàng S, thuộc Đoàn Luật sư tỉnh Đ. Địa chỉ: 81 Lê Duẩn, phường Phù Đổng, thành phố Pleiku, tỉnh G. Có mặt

* Bị hại: Anh Trần Ngọc H, sinh năm 1999. Địa chỉ: thôn 2, xã Sơ Pai, huyện K, tỉnh G. Có mặt Đại diện theo uỷ quyền của anh Trần Ngọc H: Anh Trần Ngọc B, sinh năm 1976. Địa chỉ: thôn 2, xã Sơ Pai, huyện K, tỉnh G. Có mặt

* Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: Chị Phạm Thị H, sinh năm 1980. Địa chỉ: thôn 1, xã Sơ Pai, huyện KB, tỉnh G. Có mặt

* Người làm chứng: đều vắng mặt - Anh Đinh X, sinh năm 1993. Địa chỉ: buôn Lưới, xã Sơ Pai, huyện K, tỉnh G.

- Anh Đinh Th, sinh năm 1981. Địa chỉ: làng Tơ Kơr, xã Sơ Pai, huyện K, tỉnh G.

- Anh Nguyễn Văn H, sinh năm 1992. Địa chỉ: thôn 1, xã Sơ Pai, huyện KBang, tỉnh G.

- Anh Đỗ Văn T, sinh năm 1990. Địa chỉ: thôn 1, xã Sơ Pai, huyện K, tỉnh G.

NỘI DUNG VỤ ÁN

1. Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

a. Về hành vi phạm tội của bị cáo: Tối ngày 09/05/2023, Đoàn Long Nh ngồi nhậu cùng với người yêu tên Nguyễn Thị Ng (sinh năm: 2006, cùng trú: thôn 1, xã Sơ Pai, huyện K) và bố mẹ hai bên tại nhà Ngân. Khoảng 22 giờ cùng ngày, Trần Ngọc H (là nhân viên bảo vệ rừng Công ty Trách nhiệm hữu hạn Một thành viên Lâm nghiệp Sơ Pai) gọi điện thoại cho Ng qua tài khoản Facebook của mình tên “H Em”, lúc này Nh nghe điện thoại và nói “tại sao lại điện thoại cho người yêu tôi”. H đang ngồi uống cà phê tại quán Bình Mị cùng với Đinh X, Đinh Ngâu (cùng trú: làng Buôn Lưới, xã Sơ Pai, huyện K) và ồn ào nên hẹn Nh đến quán để nói chuyện. Nh không đi nên H cùng X, Ng đi xe máy của X lên nhà Ng tìm Nh.

Đến nơi, H vào nhà gọi Nh ra nói chuyện, Nh đi ra phía trước cửa cổng nhà Ng để nói chuyện với H nhưng do X và Ngâu có quen biết Nh nên nói với Hđi về và X chở H đến trạm gác bảo vệ rừng để trực (thuộc xã S Lang, huyện K, tỉnh G).

Đến khoảng 23 giờ cùng ngày, bực tức việc H gọi điện cho người yêu của mình và còn lên nhà tìm nên Nh điều khiển xe mô tô biển kiểm soát 81H1-xxxxx (trên xe có sẵn 01 con dao rựa, do gia đình Nh thường xuyên sử dụng đi rẫy) lên trạm gác nơi H trực để nói chuyện. Đến nơi, Nh gặp anh Nguyễn Văn H (sinh năm:

1976, trú: Thôn 2, xã Sơ Pai, huyện K, tỉnh G) và anh Đinh Th (sinh năm:

1981, trú: làng Tơ Kơr, xã Sơ Pai, huyện Kbang, tỉnh G) đều là nhân viên bảo vệ rừng đang trực tại trạm gác. Nh nói là bạn và tìm H để nói chuyện. Anh Hòa đi lên trên tầng gọi H, H đi xuống và ngồi đối diện với Nh tại bộ bàn ghế gỗ của trạm để nói chuyện. Còn anh Thành đi ra ngoài đường nói chuyện điện thoại.

Nhật hỏi “tại sao đêm hôm rồi mà anh điện cho người yêu em làm gì, anh xuống kiếm em có việc gì”, H trả lời “mày muốn làm sao” rồi Nh và H cãi nhau. H chồm qua bàn dùng tay pH đấm vào mặt Nh nhưng Nh né được nên không trúng. Nh chạy ra xe lấy 01 con dao rựa, H cũng đi lấy 01 con dao rựa và 01 cây gậy ba khúc tại trạm gác rồi H và Nh đứng đối điện thách thức đánh nhau, cách nhau khoảng 01 mét. Thấy vậy, anh H ở trên gác la lớn can ngăn, nói Nh đi về rồi anh Hòa tắt điện để Nh đi về. Lúc này, Nh cầm dao và nói “Địt mẹ mày tin tao chém chết mày không” thì H nói “địt mẹ mày gan mày chém đi”, Nh thách thức “mày chém đi”. Thấy H cầm dao rựa giơ lên thì Nh cầm dao rựa ở tay pH lao tới chém từ trên xuống dưới, trúng vào thái dương đỉnh trái phần đầu của H. Bị chém H bỏ chạy ra phía sau trạm, Nh đuổi theo nhưng bị vướng dây phơi quần áo của trạm nên không đuổi theo nữa mà ra lấy xe mô tô đi về. Sau đó, Nh quay lại trạm gác để lấy dép rồi đi về quán bida ở thôn 3, xã Sơ Pai, huyện Kbang thì gặp Đỗ Văn T (người làm công cho gia đình Nh). Thấy Nh cầm dao rựa trên tay, Tiến nghĩ rằng Nh cầm dao rựa để đánh nhau nên can ngăn, lấy dao rựa đi cất rồi chở Nh về nhà ngủ.

Ngay sau khi bị chém, H được gia đình đưa đi cấp cứu tại Bệnh viện đa khoa tỉnh Đ, sau đó chuyển tuyến đến Bệnh viện Chợ Rẫy và Bệnh viện Ngoại thần kinh quốc tế tiếp tục điều trị.

Sau khi sự việc xảy ra, Công an xã S Lang đã tiếp nhận tin báo và chuyển đến Cơ quan Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Kbang.

Ngày 10/5/2023, Đoàn Long Nh đến Công an xã Sơ Pai, huyện Kbang, tỉnh G khai nhận hành vi phạm tội và giao nộp:

+ 01 (Một) con dao rựa dài 61,5cm; cán bằng tre, dài 31cm, có khuy dao bằng kim loại; lưỡi dao bằng kim loại dài 30,5cm, có mũi quắp, lưỡi sắc bản một bên, chỗ rộng nhất 05cm.

+ 01 (một) xe mô tô biển kiểm soát 81H1-xxxxx, nhãn hiệu Yamaha, số loại Jupiter.

- Ngày 10/5/2023, anh Nguyễn Văn Hòa đến Công an xã Sơ Pai, huyện Kbang, tỉnh G giao nộp: 01 (Một) con dao rựa dài 62,5cm; cán bằng gỗ có khuy dao bằng kim loại, cán dài 39,5cm, đường kính cán lớn nhất 2,7cm; lưỡi dao bằng kim loại dài 23cm, mũi quắp, lưỡi sắc cạnh một bên, chỗ rộng nhất 4,2cm; cán có cuốn dây thun và dính dịch màu đỏ sẫm.

- Ngày 10/5/2023, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Kbang đã tiến hành truy tìm vật chứng, là một cây gậy ba khúc bằng kim loại nhưng không thu giữ được.

Ngày 12/6/2023, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Kbang ra Quyết định trưng cầu giám định số 28/QĐ, giám định tỷ lệ phần trăm tổn hại sức khỏe của anh Trần Ngọc H. Tại Bản kết luận giám định tổn thương cơ thể trên người sống số 311/KLTTCT-TTPY ngày 20/6/2023 của Trung tâm pháp y Sở Y tế tỉnh G kết luận như sau:

“1. Các kết quả chính:

- 01 sẹo vết thương phần mềm + sẹo mổ nằm ngang cùng thái dương chẩm trái.

- 01 sẹo mổ dẫn lưu vùng đỉnh chẩm trái.

- Chấn thương sọ não vỡ xương đỉnh thái dương trái gây hậu quả khuyết sọ đỉnh thái dương trái kích thước (7,82x1,95)cm, đáy phập phồng.

- Chấn thương sọ não gây dập, xuất huyết não vùng thái dương đỉnh trái, tại thời điểm giám định còn hình ảnh tổn thương dập não xuất huyết bán cấp muộn, nhuyễn phần lớn nhu mô não thùy thái dương, thùy chẩm và một phần nhu mô não thùy trán – đính bên trái. Bên trong tổn thương thùy thái dương trái có khối hematoma dạng nang tụ máu mạn tính kích thước (2,7x3,4x5,5)cm, thoát vị diện nhỏ cực trước thùy thái dương trái qua pH và lồi nhu mô não thùy thái dương trái vào vùng mở sọ, chèn ép não thất bên bên trái, đẩy lệch đường giữa sang pH #5mm, dãn sừng thái dương não thất bên bên trái trên phim CT-Scanner.

- Chấn thương sọ não gây tụ máu dưới màng cứng vùng trán thái dương, đỉnh trái tại thời điểm giám định không còn hình ảnh trên phim CT-Scanner.

- Chấn thương sọ não gây xuất huyết khoang dưới nhện thùy thái dương chẩm trái tại thời điểm giám định không còn hình ảnh trên phim CT-Scanner.

- Chấn thương sọ não gây tụ máu ngoài màng cứng, lều tiểu não và liềm đại não tại thời điểm giám định không còn hình ảnh trên phim CT-Scanner.

2. Kết luận: Căn cứ Thông tư số 22/2019/TT-BYT ngày 28/8/2019 của Bộ y tế quy định tỷ lệ phần trăm tổn thương cơ thể sử dụng trong giám định pháp y, giám định pháp y tâm thần, xác định tỷ lệ phần trăm tổn thương cơ thể của Trần Ngọc H tại thời điểm giám định là: 66%, áp dụng phương pháp cộng tại Thông tư.” Ngày 06/9/2023, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an tỉnh G ra Quyết định trưng cầu giám định bổ sung số 06/QĐ-CSĐT-Đ3, giám định bổ sung cơ chế hình thành vết thương và vật gây ra thương tích. Tại bản Kết luận giám định vật gây thương tích số 482/KLVGTT-TTPY ngày 15/9/2023 của Trung tâm pháp y Sở Y tế tỉnh G kết luận:

- Cơ chế: Do sự tác động trực tiếp của ngoại lực.

- Vật gây thương tích: Phù hợp với sự tác động của vật sắc có cạnh bén. Vì vậy, 01 (một) con dao rựa được Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an tỉnh G trưng cầu là vật phù hợp có thể gây ra thương tích nêu trên.

Ngày 31/8/2023, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an tỉnh G ra Quyết định trưng cầu giám định số 258/QĐ-CSĐT-Đ3, giám định dấu vết máu trên con dao vật chứng do Đoàn Long Nh giao nộp. Tại Bản Kết luận giám định số 811/KL- KTHS ngày 08/9/2023 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh G kết luận: Trên con dao (dao rựa) dài 61,5cm; lưỡi dao bằng kim loại dài 30,5cm, mũi cong, phần rộng nhất 05cm, cán dao bằng tre dài 31cm (Mẫu ký hiệu A1) gửi giám định: có máu người, do lượng mẫu ít nên không xác định được nhóm máu hệ ABO.

Cáo trạng số 162/CT-VKS-P2 ngày 19/10/2023, Viện kiểm sát nhân dân tỉnh G đã truy tố bị cáo Đoàn Long Nh về tội: “Giết người” theo điểm n khoản 1 Điều 123 Bộ luật Hình sự.

2. Diễn biến tại phiên tòa:

* Bị cáo đồng ý nội dung cáo trạng; tại phiên toà bị cáo đồng ý bồi thường cho bị hại theo yêu cầu của bị hại. Trong lời nói sau cùng, bị cáo xin Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt.

* Ý kiến của Kiểm sát viên: đề nghị tuyên bố bị cáo Đoàn Long Nh phạm tội: “Giết người” Áp dụng điểm n khoản 1 Điều 123; Điều 38; điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 15; Điều 57 Bộ luật Hình sự: xử phạt bị cáo Đoàn Long Nh 10 năm đến 11 năm tù.

Về trách nhiệm dân sự: đề nghị công nhận sự thoả thuận giữa bị cáo và bị hại. Bị cáo pH bồi thường cho bị hại chi phí điều trị là 131.232.000 đồng và tổn thất tinh thần là 93.600.000 đồng, tổng cộng 224.832.000 đồng, đã bồi thường 50.000.000 đồng, còn pH tiếp tục bồi thường số tiền còn lại.

Về vật chứng: tịch thu tiêu hủy 02 con dao rựa là công cụ phạm tội. Về án phí: bị cáo pH chịu án phí sơ thẩm theo quy định pháp luật.

* Ý kiến của Luật sư Lương Ngọc P: đồng ý cáo trạng truy tố bị cáo tội danh giết người, đồng ý với các tình tiết giảm nhẹ như Viện kiểm sát nêu; đề nghị áp dụng tình tiết giảm nhẹ điểm e khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự là bị cáo phạm tội trong trạng thái tinh thần bị kích động. Mức án Kiểm sát viên đề nghị đối với bị cáo là nghiêm khắc, bị cáo có nhiều tình tiết giảm nhẹ, không có tình tiết tăng nặng nên đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng Điều 54 Bộ luật Hình sự, xử bị cáo mức án dưới khung hình phạt.

* Luật sư Phan Quang H: mức án đề nghị 10-11 năm tù đối với bị cáo là cao, đề nghị xử bị cáo mức án 10 năm tù là phù hợp.

* Bị hại Trần Ngọc H xác nhận tại phiên toà có thoả thuận với bị cáo việc bồi thường tổng cộng số tiền 224.832.000 đồng, đã bồi thường 50.000.000 đồng, còn pH tiếp tục bồi thường số tiền còn lại. Anh H thấy sự việc xảy ra có phần lỗi nên xin giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

* Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan chị Phạm Thị H: không có ý kiến gì đối với số tiền đã bồi thường thay cho bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên toà, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân, kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo, bị hại, người liên quan không có ý kiến khiếu nại về hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Về hành vi phạm tội của bị cáo: tại phiên tòa bị cáo khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội như bản cáo trạng truy tố. Hội đồng xét xử xét thấy lời khai nhận tội của bị cáo phù hợp với vật chứng thu được, phù hợp lời khai bị hại, cùng các tài liệu, chứng cứ khác có tại hồ sơ vụ án, đủ cơ sở kết luận:

Do bực tức Trần Ngọc H gọi điện thoại cho Nguyễn Hoàng Bảo Ng, là người yêu của Đoàn Long Nh, sau đó lại đến nhà Ngân tìm Nh, nên tối ngày 09/5/2023, Nh điều khiển xe mô tô mang theo 01 con dao rựa đến trạm gác nơi H làm việc tìm H để nói chuyện. Trong lúc nói chuyện hai bên cãi nhau, H dùng tay đánh Nh một cái nhưng không trúng thì Nh chạy ra xe mô tô lấy con dao rựa mang theo; H cũng đi lấy 01 con dao rựa và 01cây gậy ba khúc, cả hai đứng đối diện thách thức nhau, thấy H cầm dao rựa giơ lên thì Nh cầm dao rựa ở tay pH lao đến chém một nhát theo hướng từ trên xuống dưới trúng vào thái dương đỉnh trái phần đầu của H, gây tổn hại sức khỏe 66%.

Như vậy, chỉ vì mâu thuẫn nhỏ, bị cáo đã dùng dao rựa là hung khí nguy hiểm chém vào đầu là vùng trọng yếu trên cơ thể bị hại, gây thương tích với tỷ lệ cao, việc bị hại không chết là do được kịp thời cứu chữa. Hành vi của bị cáo mang tính chất côn đồ, đủ yếu tố cấu thành tội “Giết người” với tình tiết định khung “Có tính chất côn đồ” theo quy định tại điểm n khoản 1 Điều 123 Bộ luật Hình sự. Viện kiểm sát nhân dân tỉnh G truy tố bị cáo về tội danh và điều luật như trên có căn cứ, đúng tội.

[3] Về tính chất, mức độ hành vi phạm tội và tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của bị cáo:

Hành vi phạm tội của bị cáo là đặc biệt nghiêm trọng, xâm phạm sức khoẻ, đe doạ tính mạng của người khác, gây ảnh hưởng xấu đến trật tự trị an, nên cần pH xử bị cáo mức án trong khung hình phạt tương xứng hành vi phạm tội để giáo dục, răn đe bị cáo và phòng ngừa chung cho xã hội.

Khi quyết định hình phạt có xem xét cho bị cáo các tình tiết giảm nhẹ là bị cáo có nhân thân tốt, phạm tội lần đầu; thành khẩn khai báo; quá trình điều tra đã tác động gia đình bồi thường một phần thiệt hại và tại phiên toà thỏa thuận tiếp tục bồi thường toàn bộ cho bị hại; được bị hại xin giảm nhẹ hình phạt; sự việc xảy ra bị hại cũng có phần lỗi, nên được áp dụng tình tiết giảm nhẹ tại điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự.

Ngoài ra, bị cáo còn được áp dụng quy định về phạm tội chưa đạt theo Điều 15, khoản 3 Điều 57 khi quyết định hình phạt.

Bị cáo không bị áp dụng tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự.

[4] Về dân sự: tại phiên toà, bị hại và bị cáo tự nguyện thoả thuận bị cáo pH bồi thường cho bị hại toàn bộ chi phí điều trị số tiền 131.232.000 đồng và tổn thất tinh thần số tiền 93.600.000 đồng, tổng cộng 224.832.000 đồng. Xét việc này là thỏa thuận tự nguyện nên được Hội đồng xét xử ghi nhận.

Buộc bị cáo bồi thường cho bị hại tổng số tiền 224.832.000 đồng, đã bồi thường 50.000.000 đồng, còn pH tiếp tục bồi thường số tiền 174.832.000 đồng.

[5] Về vật chứng: xét 02 con dao rựa là công cụ phạm tội nên tịch thu tiêu hủy.

[6] Về án phí: Bị cáo pH chịu án phí hình sự, dân sự sơ thẩm theo quy định pháp luật

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

1. Về tội danh và hình phạt:

Tuyên bố bị cáo Đoàn Long Nh phạm tội: “Giết người” Áp dụng điểm n khoản 1 Điều 123; điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51;

Điều 38; Điều 15, Điều 57 Bộ luật Hình sự:

Xử phạt bị cáo Đoàn Long Nh 11 (Mười một) năm tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 05/7/2023.

2. Về dân sự: căn cứ Điều 48 Bộ luật Hình sự, Điều 590 Bluậ t Dân s: Ghi nhận sự thỏa thuận của bị cáo Đoàn Long Nh và bị hại Trần Ngọc H như sau: bị cáo Đoàn Long Nh phải tiếp tục bồi thường cho anh Trần Ngọc H số tiền 174.832.000 (Một trăm bảy mươi tư triệu tám trăm ba mươi hai nghìn đồng).

Kể từ ngày bản án có hiệu lực pháp luật hoặc kể từ có đơn yêu cầu thi hành án của người được thi hành án cho đến khi thi hành xong tất cả các khoản tiền, hàng tháng bên pH thi hành án còn pH chịu khoản tiền lãi của số tiền còn pH thi hành án theo mức lãi suất quy định tại Điều 357, Điều 468 Bộ luật Dân sự năm 2015, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác.

3. Về xử lý vật chứng: căn cứ Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự:

Tịch thu tiêu huỷ 02 con dao rựa có đặc điểm mô tả tại biên bản giao nhận vật chứng số 10/2024 lập ngày 24/10/2023 giữa Cơ quan cảnh sát điều tra Công an tỉnh G và Cục thi hành án dân sự tỉnh G.

4. Về án phí: căn cứ Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự; Điều 147 Bộ luật Tố tụng dân sự; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý, sử dụng án phí lệ, phí Tòa án:

Buộc bị cáo Đoàn Long Nh phải chịu 200.000 (Hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm và 8.741.600 (Tám triệu bảy trăm bốn mươi mốt nghìn sáu trăm đồng) án phí dân sự sơ thẩm.

5. Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Lut Thi hành án dân sthì người được thi hành án dân sự, người pH thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật Thi hành án dân sự. Thời hiệu thi hành án được thực hiện theo Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.

6. Về quyền kháng cáo: Trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án, bị cáo, bị hại, đại diện hợp pháp bị hại, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có quyền kháng cáo yêu cầu xét xử phúc thẩm.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

39
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội giết người số 119/2023/HS-ST

Số hiệu:119/2023/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Gia Lai
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành:04/12/2023
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về