Bản án về tội giết người số 118/2023/HS-PT

TÒA ÁN NHÂN DÂN CẤP CAO TẠI ĐÀ NẴNG

BẢN ÁN 118/2023/HS-PT NGÀY 10/04/2023 VỀ TỘI GIẾT NGƯỜI

Ngày 10-4-2023, từ điểm cầu Trung tâm tại trụ sở Tòa án nhân dân cấp cao tại Đà Nẵng nối với điểm cầu Thành phần tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Bình Định. Tòa án nhân dân cấp cao tại Đà Nẵng Nẵng xét xử phúc thẩm công khai theo hình thức trực tuyến vụ án hình sự thụ lý số 101/2023/TLPT-HS ngày 16-02-2023 đối với bị cáo Phan Tấn K cùng đồng phạm. Do có kháng cáo của các bị cáo đối với Bản án hình sự sơ thẩm số 02/2023/HS-ST ngày 11-01-2023 của Tòa án nhân dân tỉnh Bình Định.

- Các bị cáo kháng cáo:

1. Phan Tấn K, sinh ngày 16-4-2002 tại Bình Định; nơi đăng ký NKTT và chỗ ở: tỉnh Bình Định; dân tộc: Kinh; quốc tịch: Việt Nam; tôn giáo: Không; giới tính: Nam; trình độ văn hoá: 9/12; nghề nghiệp: Lao động tự do; con ông Phan Thanh H và bà Phan Thị Bích Q; tiền án, tiền sự: Không.

Bị cáo bị tạm bắt giam ngày 05-10-2021; đến ngày 02-5-2022, được thay đổi bằng biện pháp ngăn chặn Cấm đi khỏi nơi cư trú. Ngày 29-5-2022, bị bắt lại, hiện đang tạm giam tại Trại tạm giam Công an tỉnh Bình Định, có mặt tại điểm cầu Thành phần.

2. Phan Tuấn K1, sinh ngày 12-9-1999 tại Bình Định; nơi đăng ký NKTT và chỗ ở: tỉnh Bình Định; dân tộc: Kinh; quốc tịch: Việt Nam; tôn giáo: Không; giới tính: Nam; trình độ văn hoá: 12/12; nghề nghiệp: Đầu bếp; con ông Phan Thanh H và bà Phan Thị Bích Q; tiền án, tiền sự: Không.

Bị cáo bị bắt ngày 02-5-2022, hiện đang tạm giam tại Trại tạm giam Công an tỉnh Bình Định, có mặt tại điểm cầu Thành phần.

3. Bùi Minh T, sinh ngày 17-7-2003 tại Bình Định; nơi đăng ký NKTT và chỗ ở: tỉnh Bình Định; dân tộc: Kinh; quốc tịch: Việt Nam; tôn giáo: Không; giới tính:

Nam; trình độ văn hoá: 9/12; nghề nghiệp: Lao động tự do; con ông Bùi Công T và bà Lê Thị Cẩm Đ; tiền án, tiền sự: Không.

Bị cáo bị bắt ngày 02-5-2022, hiện đang tạm giam tại Trại tạm giam Công an tỉnh Bình Định, có mặt tại điểm cầu Thành phần.

- Người tham gia tố tụng có liên quan đến kháng cáo: Người bào chữa:

1. Người bào chữa cho các bị cáo Phan Tấn K và Bùi Minh T:

Luật sư Nguyễn Thế V - Công ty Luật TNHH MTV N, thuộc Đoàn Luật sư tỉnh Bình Định, có mặt tại điểm cầu Thành phần.

2. Người bào chữa cho bị cáo Phan Tuấn K1:

Luật sư Nguyễn Văn T - Văn phòng Luật sư T và cộng sự, thuộc Đoàn Luật sư tỉnh Bình Định, có mặt tại điểm cầu Thành phần.

Người đại diện hợp pháp của bị cáo Bùi Minh T:

Ông Bùi Công T, sinh năm 1970 và bà Lê Thị Cẩm Đ, sinh năm 1970 (là bố, mẹ bị cáo); cùng địa chỉ cư trú: Khu phố T, thị trấn T, huyện H, Bình Định, đều có mặt tại điểm cầu Thành phần.

Bị hại:

Anh Đào Xuân T2, sinh năm 1992; địa chỉ cư trú: huyện H, tỉnh Bình Định, vắng mặt.

Người giám hộ của bị hại:

Ông Đào Xuân V, sinh năm 1974 và bà Trần Thị T, sinh năm 1975 (là bố, mẹ của bị hại); cùng địa chỉ cư trú: huyện H, tỉnh Bình Định, vắng mặt.

(Vụ án có 02 người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan và có 05 người làm chứng, nhưng không liên quan đến kháng cáo, nên Hội đồng xét xử phúc thẩm không triệu tập).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 22 giờ 00 phút ngày 27-5-2021, Lê Minh T cùng Phan Tấn K và Võ Thị Trà M (bạn gái của K) nhậu tại quán “Lẩu Mực” trên đường T, thuộc thị trấn T, huyện H. Đến khoảng 23 giờ cùng ngày, T nhìn thấy Đào Xuân T2 và Đào Xuân N (là anh họ của T2) đi ra từ quán nhậu (phía đối diện) nên rủ nhậu cùng. Trong lúc nhậu, giữa T2 và K xảy ra mâu thuẫn cãi nhau, vì T2 cho rằng K nhỏ tuổi mà nói chuyện ngang hàng với mình, nên đi vào khu vực tủ bán hàng của quán tìm kiếm hung khí để đánh K, nhưng được T can ngăn. T2 chỉ mặt K nói “Mầy chờ đấy”, K nói lại “Anh lớn mà cứ thích đôi co với lũ nhỏ, anh thích thì ra ngoài nói chuyện”, T2 nói tiếp “Mầy thích thì ra trường mẫu giáo nói chuyện”. Sau đó, N điều khiển xe mô tô chở T2 về nhà, còn M cũng điều khiển xe đạp điện chở K đi về nhà của K. Khoảng 00 giờ 50 phút ngày 28-5-2021, thì N chở T2 về đến nhà, nhưng T2 không chịu đi vào nhà mà đòi đến Trường Mầm non T để gặp K nói chuyện, nên N vào nhà gọi Đào Xuân T (là em ruột của T2) ra cùng đi. Khi đi, T2 điều khiển xe mô tô mang theo 02 cái rựa, 01 cây mã tấu chở N và T đi đến đứng trước cổng Trường Mầm non T. Lúc này, Lê Minh T cũng điều khiển xe mô tô chở theo Lê Văn T (trú tại khu phố T, thị trấn T, huyện H) đến với mục đích can ngăn, giải hòa, không cho T2 và K đánh nhau.

Khi về đến nhà, K vào lấy hung khí, thì thấy Phan Tuấn K1 (là anh ruột của K) và Bùi Minh T (là bạn của K) đang ngồi chơi điện thoại, K đi ra chuồng heo phía sau nhà lấy 01 bao đựng hung khí (gồm 03 cây mác tự chế, mỗi cây dài 146 cm và 02 cái rựa) rồi hỏi mượn xe mô tô của T nói đi công việc. Thấy K mang theo hung khí, K1 và T hỏi có chuyện gì, K kể việc mâu thuẫn với T2 và nói giờ ra Trường Mầm non T đánh nhau với T2. Nghe vậy, K1 và T cũng đòi đi theo với mục đích giúp K đánh T2. Khoảng 01 giờ 45 phút ngày 28-5-2022, T điều khiển xe mô tô biển kiểm soát 77K1-326.16 (của anh ruột là Bùi Minh T) chở K1 ngồi giữa, K ngồi sau cầm bao hung khí đi đến điểm hẹn. Đến nơi, K, K1 và T mỗi người cầm một cây mác.

Khi thấy nhóm K đến, Lê Văn T nói lớn “Từ từ, đứng lại đó, anh em hết để nói chuyện”. T vừa nói xong thì Đào Xuân T2 hai tay cầm hai cái rựa chạy về phía K, K1 và T đang đứng rồi dùng rựa chém (gây xước da tại vùng đầu bên trái của K và gây xước da mu bàn tay phải của K1). Ngay lập tức, K dùng hai tay cầm cây mác chém liên tiếp 3, 4 cái trúng vào tay trái, đầu của T2, làm T2 té ngã xuống đường bê tông xi măng bất tỉnh. Đào Xuân T thấy T2 bị chém ngã, thì cầm cây mã tấu chạy về hướng K, K1 và T. Thấy vậy, T cầm cây mác giơ lên định đánh nhau với T, thì Lê Văn T đến can ngăn không cho hai bên đánh nhau nữa, nên K, K1 và T cầm mác bỏ vào lại trong bao rồi T điều khiển xe mô tô chở K, K1 về lại nhà K cất giấu hung khí. Đào Xuân T2 bị thương tích được đưa đi cấp cứu.

Tại Bản kết luận giám định về thương tích số 229/2021/PY-TgT ngày 14-9-2021, Trung tâm Pháp y tỉnh Bình Định kết luận thương tích của Đào Xuân T2:

Chấn thương gây rách da vùng chẩm, hôn mê Glasgow 6 điểm, đồng tử phải giãn 4 mm, phản xạ ánh sáng âm tính, liệt ½ người trái, thở khò khè; SpO2: 90% dập, xuất huyết não vùng gối bao trong - nhân bèo, trái, thái dương phải, tụ máu khí dưới màng cứng trái - thái dương đỉnh phải. Tụ máu dưới màng cứng vùng thái dương - đỉnh trái, tụ máu liềm đại não, tụ máu xoang sàng hai bên, xoang bướm trái đã phẫu thuật lấy máu tụ dưới màng cứng bán cầu phải. Hiện: liệt ½ người trái, tiểu tiện không tự chủ; tỉnh, tiếp xúc chậm, khuyết sọ trán - đỉnh chẩm phải, đáy phập phồng. Kết luận: tỷ lệ tổn thương cơ thể do thương tích gây nên hiện tại là 78% (bảy mươi tám phần trăm).

Trách nhiệm dân sự:

Gia đình các bị cáo đã bồi thường cho bị hại Đào Xuân T2, với tổng số tiền là 215.000.000 đồng (gia đình Phan Tấn K, Phan Tuấn K1: 180.000.000 đồng; gia đình Bùi Minh T: 35.000.000 đồng) và được bị hại có đơn bãi nại.

Tại Bản án hình sự sơ thẩm số 02/2023/HSCTN-ST ngày 11-01-2023, Toà án nhân dân tỉnh Bình Định:

1. Áp dụng điểm n khoản 1 Điều 123; Điều 15; Điều 17; các điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; điểm o khoản 1 Điều 52 và Điều 57 của Bộ luật Hình sự, xử phạt:

- Phan Tấn K 12 (mười hai) năm tù về tội “Giết người”. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 29-5-2022 (được trừ thời hạn tạm giam từ ngày 05-10-2021 đến ngày 02-5-2022).

2. Áp dụng điểm n khoản 1 Điều 123; Điều 15; Điều 17; các điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; khoản 1 Điều 54 và Điều 57 của Bộ luật Hình, xử phạt:

- Phan Tuấn K1 10 (mười) năm tù về tội “Giết người”. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 02-5-2022.

3. Áp dụng điểm n khoản 1 Điều 123; Điều 15; Điều 17; các điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; khoản 1 Điều 54; Điều 57, Điều 91 và Điều 101 của Bộ luật Hình sự, xử phạt:

- Bùi Minh T 08 (tám) năm tù về tội “Giết người”. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 02-5-2022.

Ngoài ra, bản án sơ thẩm còn quyết định về trách nhiệm dân sự, xử lý vật chứng, án phí và thông báo quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.

- Ngày 18-01-2023, Phan Tấn K, Phan Tuấn K1 và Bùi Minh T kháng cáo xin giảm hình phạt.

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa,

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

[1]. Sau khi xét xử sơ thẩm, các bị cáo Phan Tấn K, Phan Tuấn K1 và Bùi Minh T kháng cáo bản án; đơn kháng cáo của các bị cáo là trong thời hạn quy định tại khoản 1 Điều 333 của Bộ luật Tố tụng hình sự, do đó Hội đồng xét xử quyết định đưa vụ án ra xét xử phúc thẩm.

Tại phiên tòa phúc thẩm, các bị cáo giữ nguyên kháng cáo; đại diện Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Đà Nẵng đề nghị Hội đồng xét xử phúc thẩm căn cứ điểm a khoản 1 Điều 355 và Điều 356 của Bộ luật Hình sự:

- Không chấp nhận kháng cáo của các bị cáo; giữ nguyên quyết định của bản án sơ thẩm về Trách nhiệm hình sự đối với các bị cáo.

Luật sư bào chữa và các bị cáo tranh luận công khai; nói lời sau cùng, các bị cáo đều xin giảm hình phạt.

[2]. Xét kháng cáo của các bị cáo:

[2.1]. Về tội danh:

Do có mâu thuẫn tại quán nhậu, nên khoảng 01 giờ 45 phút ngày 28-5-2022, Phan Tấn K, Phan Tuấn K1 và Bùi Minh T cùng đi trên 01 xe mô tô (do T điều khiển) mang theo hung khí đến điểm hẹn là Trường Mầm non T thuộc khu phố T, thị trấn T, huyện H, tỉnh Bình Định để đánh nhau với anh Đào Xuân T2. Tại điểm hẹn, anh T2 cùng anh Đào Xuân T (là em ruột của anh T2) và Đào Xuân N cầm hung khí chờ sẵn. Khi thấy nhóm của K vừa tới, anh T2 hai tay cầm hai cái rựa chạy đến dùng rựa chém về phía K, K1 và T nhưng chỉ gây xước da vùng đầu bên trái của K và xước da mu bàn tay phải của K1. Ngay lập tức, K dùng hai tay cầm cây mác chém liên tiếp 3, 4 nhát theo hướng từ trên xuống dưới, từ phải qua trái trúng vào tay trái, đầu của anh T2; hậu quả, anh T2 bị thương tích tại vùng chẩm gây liệt ½ người trái, tiểu tiện không tự chủ, khuyết sọ trán - đỉnh chẩm phải.

Như vậy, chỉ vì mâu thuẫn rất nhỏ, Phan Tấn K đã sử dụng hung khí nguy hiểm (cây mác) trực tiếp tấn công vào vùng trọng yếu trên cơ thể bị hại (vùng đầu); bị hại không chết mà chỉ bị tổn thương cơ thể 78% là ngoài ý thức chủ quan của bị cáo. Đối với Phan Tuấn K1 và Bùi Minh T, mặc dù không trực tiếp tấn công bị hại, nhưng cùng chung ý chí, cùng thống nhất với hành động của Phan Tấn K, do đó các bị cáo là đồng phạm giúp sức với vai trò tích cực.

Hành vi phạm tội nêu trên của các bị cáo Phan Tấn K, Phan Tuấn K1 và Bùi Minh T đã đủ yếu tố cấu thành tội “Giết người”, với lỗi cố ý gián tiếp. Toà án cấp sơ thẩm kết án các bị cáo về tội “Giết người”, theo điểm n khoản 1 Điều 123 của Bộ luật Hình sự là có căn cứ, đúng pháp luật.

[2.2]. Về hình phạt:

Đây là vụ án đồng phạm nhưng mang tính giản đơn, giữa các bị cáo không có sự câu kết chặt chẽ, không phân công nhiệm vụ cụ thể, do đó Hội đồng xét xử phúc thẩm sẽ xem xét, đánh giá tính chất, mức độ nguy hiểm của hành vi và hậu quả của vụ án để có mức hình phạt cụ thể đối với từng bị cáo.

- Đối với Phan Tấn K:

Bị cáo là người khởi xướng, chuẩn bị hung khí và trực tiếp chém nhiều nhát vào bị hại, hậu quả bị hại bị liệt ½ người trái, với tỷ lệ tổn thương cơ thể 78% là do bị cáo gây ra. Hành vi phạm tội của bị cáo là đặc biệt nguy hiểm, không những xâm phạm trái pháp luật đến tính mạng, sức khoẻ của người khác, mà còn làm mất trật tự trị an địa phương, gây dư luận xấu trong nhân dân, do đó Toà án cấp sơ thẩm đã xử phạt bị cáo 12 (mười hai) năm tù.

Bị cáo kháng cáo xin giảm hình phạt, tại phiên toà phúc thẩm bị cáo cho rằng đã bồi thường thêm cho bị hại và được bị hại xin giảm nhẹ hình phạt, nên đề nghị chấp nhận kháng cáo. Đây được coi là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự mới tại cấp phúc thẩm. Tuy nhiên, hành vi phạm tội của bị cáo “Có tính chất côn đồ”, phạm tội thuộc trường hợp đặc biệt nghiêm trọng, hậu quả bị cáo gây ra làm cho bị hại bị liệt ½ người trái; phạm tội với tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự “Xúi giục người dưới 18 tuổi phạm tội”, do đó việc cách ly bị cáo ra khỏi xã hội một thời gian dài là điều cần thiết; có như vậy, mới đủ tác dụng để cải tạo, giáo dục đối với bị cáo, cũng như ngăn chặn và phòng ngừa chung đối với loại tội phạm này. Vì vậy, Hội đồng xét xử phúc thẩm không giảm hình phạt cho bị cáo.

- Đối với Phan Tuấn K1:

Mặc dù, không có mâu thuẫn với anh Đào Xuân T2, nhưng khi biết Phan Tấn K đem theo hung khí đi đánh nhau, bị cáo đã đòi đi theo để giúp sức cho em mình. Đến điểm hẹn, bị cáo cũng sử dụng một cây mác, tuy bị cáo chưa kịp chém bị hại, nhưng hành vi của bị cáo là giúp sức, củng cố về tinh thần để K thêm quyết tâm phạm tội, nên bị cáo cũng phải chịu trách nhiệm hình sự chung với hậu quả mà Phan Tấn K đã gây ra, do đó Toà án cấp sơ thẩm xử phạt bị cáo 10 (mười) năm tù.

Cũng như Phan Tấn K, bị cáo kháng cáo xin giảm hình phạt, tại phiên toà phúc thẩm bị cáo cho rằng đã bồi thường thêm cho bị hại và đượ c bị hại xin giảm nhẹ hình phạt. Đây được coi là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự mới tại cấp phúc thẩm. Tuy nhiên, hành vi đồng phạm của bị cáo thuộc trường hợp đặc biệt nghiêm trọng, nên việc cách ly bị cáo ra khỏi xã hội một thời gian nhất định để bị cáo lấy đó làm bài học mà cải tạo, sửa chữa là điều cần thiết. Vì vậy, Hội đồng xét xử phúc thẩm không giảm hình phạt cho bị cáo.

- Đối với Bùi Minh T:

Hành vi phạm tội của bị cáo là giúp sức về tinh thần cho Phan Tấn K, nên cũng cần xử phạt bị cáo hình phạt nghiêm khắc. Tuy nhiên, khi thực hiện hành vi phạm tội, bị cáo là người chưa thành niên; nhân thân mới lần đầu phạm tội; sau khi phạm tội đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải; tự nguyện bồi thường cho bị hại 35.000.000 đồng và được bị hại xin giảm nhẹ hình phạt; gia đình bị cáo có công với cách mạng; ngoài ra, trong vụ án này, bị hại cũng có lỗi, đã sử dụng hung khí chém về phía bị cáo. Vì vậy, để thể hiện chính sách nhân đạo đối với người chưa thành niên phạm tội, Hội đồng xét xử phúc thẩm chấp nhận kháng cáo của bị cáo.

Như vậy, kháng cáo của các bị cáo đã được Hội đồng xét xử phúc thẩm xem xét và chỉ có cơ sở chấp nhận kháng cáo của bị cáo Bùi Minh T.

[3]. Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, không bị kháng cáo, kháng nghị, Hội đồng xét xử phúc thẩm không xem xét.

[4]. Về án phí:

Bị cáo Phan Tấn K và Phan Tuấn K1 không được chấp nhận kháng cáo, nên các bị cáo phải chịu án phí hình sự phúc thẩm theo quy định của pháp luật.

Bị cáo Bùi Minh T được chấp nhận kháng cáo, nên không phải chịu án phí hình sự phúc thẩm.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

1. Căn cứ các điểm a, b khoản 1 Điều 355, Điều 356 và điểm c khoản 1 Điều 357 của Bộ luật Tố tụng hình sự.

- Không chấp nhận kháng cáo của các bị cáo Phan Tấn K và Phan Tuấn K1.

- Chấp nhận kháng cáo của bị cáo Bùi Minh T.

- Sửa Bản án hình sự sơ thẩm số 02/2023/HSCTN-ST ngày 11-01-2023 của Toà án nhân dân tỉnh Bình Định về phần Trách nhiệm hình sự đối với bị cáo Bùi Minh T.

2. Về Trách nhiệm hình sự:

2.1. Áp dụng điểm n khoản 1 Điều 123; Điều 15; Điều 17; các điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; điểm o khoản 1 Điều 52 và Điều 57 của Bộ luật Hình sự, xử phạt:

- Phan Tấn K 12 (mười hai) năm tù về tội “Giết người”. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 29-5-2022 (được trừ thời hạn tạm giam từ ngày 05-10-2021 đến ngày 02-5-2022).

2.2. Áp dụng điểm n khoản 1 Điều 123; Điều 15; Điều 17; các điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; khoản 1 Điều 54 và Điều 57 của Bộ luật Hình, xử phạt:

- Phan Tuấn K1 10 (mười) năm tù về tội “Giết người”. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 02-5-2022.

2.3. Áp dụng điểm n khoản 1 Điều 123; Điều 15; Điều 17; các điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; khoản 1 Điều 54; Điều 57, Điều 91 và Điều 101 của Bộ luật Hình sự, xử phạt:

- Bùi Minh T 07 (bảy) năm tù về tội “Giết người”. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 02-5-2022.

3. Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, không bị kháng cáo, kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

4. Về án phí:

Căn cứ Điều 136 của Bộ luật Tố tụng hình sự; các điểm b, h khoản 2 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH 14 ngày 30-12-2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

- Phan Tấn K và Phan Tuấn K1, mỗi bị cáo phải chịu 200.000 đồng (hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự phúc thẩm.

- Bùi Minh T không phải chịu án phí hình sự phúc thẩm.

5. Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

76
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội giết người số 118/2023/HS-PT

Số hiệu:118/2023/HS-PT
Cấp xét xử:Phúc thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân cấp cao
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 10/04/2023
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về