Bản án về tội giết người số 101/2021/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH ĐẮK LẮK

BẢN ÁN 101/2021/HS-ST NGÀY 14/12/2021 VỀ TỘI GIẾT NGƯỜI

Ngày 14 tháng 12 năm 2021 tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Đắk Lắk xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 107/2021/TLST-HS ngày 05 tháng 11 năm 2021.

Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 103/2021/QĐXXST-HS ngày 30/11/2021, đối với bị cáo:

Họ và tên: Bàn Tòn K, sinh năm 2001, tại: Tỉnh Cao Bằng; nơi cư trú: Thôn 16, xã C, huyện E, tỉnh Đắk Lắk; nghề nghiệp: Làm nông; trình độ văn hóa: 5/12; dân tộc: Dao; giới tính: Nam; tôn giáo: Tin Lành; con ông Bàn Sành O và con bà Triệu Mùi Ph, bị cáo chưa có vợ, con; tiền án, tiền sự: Không; bị cáo bị bắt tạm giam từ ngày 26/7/2021, hiện đang tạm giam tại Trại tạm giam Công an tỉnh Đăk Lăk, bị cáo có mặt tại phiên tòa.

- Người bào chữa cho bị cáo Bàn Tòn K: Ông Ngô Đình K1 - Trợ giúp viên pháp lý của Trung tâm Trợ giúp pháp lý Nhà nước tỉnh Đắk Lắk, có mặt.

-Bị hại: Anh Vàng Seo D; trú tại: Thôn T, xã C, huyện E, tỉnh Đắk Lắk, có mặt.

- Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho bị hại Vàng Seo D: Ông Phùng Văn H - Trợ giúp viên pháp lý của Trung tâm Trợ giúp pháp lý nhà nước tỉnh Đắk Lắk, có mặt.

- Người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan:

1. Anh Vàng Seo T1; trú tại: Thôn T, xã C, huyện E, tỉnh Đắk Lắk, vắng mặt.

2. Anh Hầu Seo D1; trú tại: Thôn T, xã C, huyện E, tỉnh Đắk Lắk, có mặt.

- Người làm chứng: Anh Phùng Seo T2; trú tại: Thôn B, xã C, huyện E, tỉnh Đắk Lắk, có mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Vào khoảng 09 giờ ngày 09/02/2021, Vàng Seo T1 (sinh năm 2001) và Hầu Seo D1 (sinh năm 1997), đều trú tại: Thôn T, xã C, huyện E thấy Bàn Tòn K (sinh năm 2001, trú tại: Thôn B, xã Cư Kbang) đang đứng phía trước tiệm cắt tóc HL tại thôn T, xã C nói chuyện với Đặng Chòi N (sinh năm 2001, trú tại: Thôn B, xã C), nên đã đi đến nói sao K chạy xe máy nẹt pô. Sau đó, T1 dùng chân đá vào xe môtô của K, sợ bị đánh nên K xuống xe mở cốp lấy 01 con dao bấm bằng kim loại dài 24cm, trong đó lưỡi dao dài 10cm, mũi dao nhọn, một cạnh sắc, nhưng chưa bấm lưỡi dao, bỏ vào túi quần bên phải rồi lùi xe ra đường thì T1 tiến tới dùng chân đá vào bánh xe làm bánh xe bị lọt xuống cống thoát nước. T1 tiếp tục đi đến dùng tay đẩy vào vai K, lúc này Vàng Seo D (sinh năm 1997, trú tại: Thôn T, xã C) là anh trai của T1 đi ngang qua nghĩ T1 và K đánh nhau nên D chạy đến đấm hai cái vào mặt, đầu K rồi dừng lại. Bị D đánh thì K lấy dao đã bỏ vào trong túi quần trước đó ra cầm ở tay phải đồng thời bật lưỡi dao ra với mục đích nếu tiếp tục bị đánh sẽ sử dụng dao để đánh lại. Lúc này, T1 hỏi K:“Mày đi xe nẹt pô như vậy mà không sợ à?”, thì K trả lời “Ở cái làng này tao không sợ ai hết!”. Nghe K trả lời như vậy thì D lao vào với mục đích để đánh K nhưng chưa kịp đánh thì bị K dùng dao đã chuẩn bị sẵn đâm trúng vào bụng. Thấy K dùng dao đâm D thì Sùng Seo T2 (sinh năm 1999, trú tại: Thôn B, xã C) và D1 chạy lại giữ tay cầm dao của K, sau đó T2 giật lấy dao vứt vào Trường mầm non HB ngay bên cạnh. Thấy D bị đâm nên T1 và D1 cùng một số người dân lao vào đánh và khống chế K, đồng thời báo cho Công an xã C đến giải quyết, còn D được đưa đi cấp cứu tại Bệnh viện đa khoa V.

Tại Bản kết luận giám định pháp y về thương tích số 292/TGT-TTPY ngày 10/3/2021 của Trung tâm Pháp y thuộc Sở Y tế tỉnh Đắk Lắk đối với Vàng Seo D là: Vết mổ trùng với vết thương dọc theo đường trắng giữa, kích thước (14 x 0,2)cm; vết dẫn lưu để lại sẹo hố chậu phải kích thước (2 x 1)cm; hai vết thương để lại 2 sẹo nằm ngang mặt sau 1/3 trên cẳng tay trái (2 x 0,4)cm và (2 x 0,2)cm; rách mạc nối và thủng ở mặt sau đại tràng ngang đã phẫu thuật. Tỷ lệ tổn thương cơ thể do thương tích gây nên hiện tại là 42%. Tỷ lệ tổn thương cơ thể do từng vết thương gây nên là: Vết mổ trùng với vết thương dọc theo đường trắng giữa, kích thước (14 x 0,2)cm, tỷ lệ 2%; vết dẫn lưu để lại sẹo hố chậu phải kích thước (2 x 1)cm, tỷ lệ 2%; vết thương để lại sẹo nằm ngang mặt sau 1/3 trên cẳng tay trái kích thước (2 x 0,4)cm, tỷ lệ 1%; vết thương để lại sẹo nằm ngang mặt sau 1/3 trên cẳng tay trái kích thước (2 x 0,2)cm, tỷ lệ 1%; thủng một lỗ ở mặt sau đại tràng ngang đã phẫu thuật, tỷ lệ 36%; rách mạc nối tỷ lệ 4%. Vật tác động sắc nhọn. Cơ chế hình thành thương tích: Vết thương vùng ngang rốn làm rách mạc nối và thủng ở mặt sau đại tràng ngang do vật sắc nhọn tác động trực tiếp gây nên có chiều hướng từ dưới lên trên, từ trước ra sau. Hai vết thương để lại 2 sẹo nằm ngang mặt sau 1/3 trên cẳng tay trái do vật sắc tác động trực tiếp gây nên có chiều hướng từ trên xuống dưới, từ trước ra sau; vết mổ trùng với vết thương dọc theo đường trắng giữa và vết dẫn lưu để lại sẹo hố chậu phải do quá trình phẫu thuật ổ bụng tạo nên.

Tại Bản kết luận giám định pháp y về thương tích số 742/TgT-TTPY ngày 25/6/2021 của Trung tâm Pháp y thuộc Sở Y tế tỉnh Đắk Lắk đối với Bàn Tòn K là: Tổn thương làm biến đổi sắc tố da vùng má trái, đầu trong cách cánh mũi bên trái 2,5cm, kích thước (2 x 0,2)cm, tỷ lệ 1%; mảng xây xát để lại sẹo nông mờ vùng hông lưng phải, đầu dưới sát với đường nối giữa hai mào chậu, kích thước (6 x 3)cm, tỷ lệ 3%; các chấn thương phần mềm khác gồm: Sưng nề đuôi mày phải, xước da đuôi mày phải, xước da đuôi mày trái; xước da má phải, xước da cánh mũi phải, xước da thái dương phải, xước da dái tai phải, rách da cổ phải, xước da trên quai xanh trái, bầm tím vai phải, xước da thắt lưng trái, rách da gối trái, rách da đầu lưỡi, bầm niêm mạc môi dưới tại thời điểm giám định đã lành không để lại sẹo, không làm biến đổi sắc tố da trong Bảng tỷ lệ phần trăm tổn thương cơ thể do thương tích không có đánh giá tỷ lệ phần trăm tổn thương cơ thể hay tỷ lệ phần trăm tổn thương cơ thể là 0%.

Vật tác động và cơ chế hình thành thương tích: Tổn thương làm biến đổi sắc tố da vùng má trái do vật tày cứng tác động trực tiếp gây nên có chiều hướng từ trên xuống dưới, từ trước ra sau, mảng xây xát để lại sẹo nông mờ vùng hông lưng phải do tác động trực tiếp với vật tày diện rộng gây nên (theo cơ chế chà xát, mài mòn) có chiều hướng từ trên xuống dưới, từ sau ra trước.

Tại bản cáo trạng số: 102/CT-VKST-P2 ngày 03 tháng 11 năm 2021 của Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Đắk Lắk truy tố bị cáo Bàn Tòn K, về tội “Giết người” theo khoản 2 Điều 123 Bộ luật Hình sự 2015.

* Ý kiến của đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Đắk Lắk:

Quá trình tranh luận, đại diện Viện kiểm sát đánh giá tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội đối với hành vi phạm tội của bị cáo, đồng thời giữ nguyên quyết định truy tố bị cáo như nội dung bản cáo trạng và đề nghị Hội đồng xét xử:

Tuyên bố bị cáo Bàn Tòn K phạm tội “Giết người”;

Áp dụng khoản 2 Điều 123; điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 15; khoản 3 Điều 57 BLHS năm 2015.

Xử phạt bị cáo Bàn Tòn K mức án từ 07 đến 08 năm tù.

Về trách nhiệm dân sự: Áp dụng Điều 48 Bộ luật Hình sự; Điều 586, Điều 590 Bộ luật Dân sự: Buộc bị cáo Bàn Tòn K phải bồi thường cho bị hại số tiền 52.452.000 đồng, được khấu trừ vào số tiền 10.000.000 đồng gia đình bị cáo đã bồi thường, bị cáo còn tiếp tục bồi thường cho người bị hại số tiền 42.452.000 đồng.

Về xử lý vật chứng:

Đối với 01 con dao bằng kim loại dài 24cm, mũi dao nhọn, sắc 1 cạnh là vật chứng của vụ án không có giá trị đề nghị tịch thu tiêu hủy.

* Người bào chữa cho bị cáo ông Ngô Đình K1 trình bày: Viện kiểm sát truy tố và đưa bị cáo ra xét xử về tội “Giết người” theo khoản 2 Điều 123 BLHS là có căn cứ. Tuy nhiên, bị cáo phạm tội lần đầu, tại cơ quan Điều tra cũng như tại phiên tòa hôm nay bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải về hành vi phạm tội của mình, sau khi phạm tội bị cáo đã tác động gia đình bồi thường một phần thiệt hại cho người bị hại, bị cáo là người dân tộc thiểu số nên nhận thức pháp luật có phần hạn chế. Bị cáo phạm tội trong trường hợp bị kích động về tinh thần do hành vi trái pháp luật của bị hại gây ra, bị cáo phạm tội chưa đạt. Do đó, đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng các tình tiết giảm nhẹ tại các điểm b, e, s khoản 1, khoản 2 Điều 51 và áp dụng Điều 15; khoản 3 Điều 57, Điều 54 Bộ luật hình sự đề nghị xử phạt bị cáo mức án dưới khung hình phạt mà điều luật quy định.

Về án phí: Bị cáo là người đồng bào dân tộc thiểu số, sống ở vùng kinh tế xã hội đặc biệt khó khăn nên đề nghị miễn án phí cho bị cáo.

* Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho bị hại, ông Phùng Văn H trình bày: Thống nhất quan điểm của Viện kiểm sát về tội danh truy tố và các tình tiết giảm nhẹ cho bị cáo. Tuy nhiên, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người bị hại không đồng ý với người bào chữa về việc áp dụng tình tiết giảm nhẹ tại điểm e khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự. Bởi lẽ, khi bị hại xông vào đánh bị cáo, bị cáo có đủ điều kiện về không gian và thời gian bỏ chạy để tránh bị hại đánh bị cáo nhưng bị cáo không làm điều đó mà ngược lại bị cáo rút dao ra đâm bị hại nên không thể cho rằng bị cáo phạm tội trong trường hợp bị kích động về tinh thần do hành vi trái pháp luật của bị hại gây ra, đề nghị Hội đồng xét xử xử đúng quy định của pháp luật.

Về trách nhiệm dân sự: Buộc bị cáo Bàn Tòn K phải bồi thường cho bị hại số tiền 52.452.000 đồng, được khấu trừ vào số tiền 10.000.000 đồng gia đình bị cáo đã bồi thường, bị cáo còn tiếp tục bồi thường cho người bị hại số tiền 42.452.000 đồng.

Viện kiểm sát đối đáp với quan điểm của người bào chữa cho bị cáo: Quan điểm của người bào chữa về các tình tiết giảm nhẹ cho bị cáo trùng với quan điểm của Viện kiểm sát. Tuy nhiên, Viện kiểm sát không đồng ý với quan điểm của người bào chữa về tình tiết giảm nhẹ tại điểm e khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự. Bởi lẽ, khi bị hại xông vào đánh bị cáo thì bị cáo có đủ điều kiện về không gian và thời gian để tránh hành vi của bị hại đánh bị cáo nhưng bị cáo không làm điều đó mà ngược lại bị cáo rút dao ra đâm bị hại nên không thể cho rằng bị cáo phạm tội trong trường hợp bị kích động về tinh thần do hành vi trái pháp luật của bị hại gây ra. Do vậy, Viện kiểm sát vẫn giữ nguyên quan điểm.

Tại phiên tòa bị cáo không tranh luận bào chữa gì chỉ đề nghị HĐXX xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1]. Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng thẩm quyền, trình tự, thủ tục theo quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra, truy tố và tại phiên tòa, bị cáo và người bị hại không có ai có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2]. Lời khai nhận của bị cáo tại phiên tòa hôm nay là cơ bản phù hợp với lời khai của bị cáo tại cơ quan điều tra, phù hợp với lời khai của những người tham gia tố tụng khác và phù hợp các tài liệu, chứng cứ khác đã được thu thập có trong hồ sơ vụ án. Như vậy, đã có đủ cơ sở để kết luận: Vào khoảng 09 giờ ngày 09/02/2021, cho rằng Bàn Tòn K nẹt pô xe nên Vàng Seo T1, Hầu Seo D1 đến nói chuyện với K. Trong lúc nói chuyện với nhau T1 dùng chân đá vào xe và dùng tay xô vào người của K nên K mở cốp xe môtô của mình lấy 01 con dao bấm bằng kim loại dài 24cm, trong đó lưỡi dao dài 10cm bỏ vào trong túi quần. Lúc này, Vàng Seo D là anh trai của T1 đi ngang qua nghĩ K và T1 đánh nhau nên dừng lại lao đến đấm 2 đến 3 cái vào mặt và đầu K rồi dừng lại. Sợ tiếp tục bị đánh nên K lấy dao đã bỏ vào trong túi quần trước đó bấm lưỡi dao ra với mục đích nếu tiếp tục bị đánh thì sẽ sử dụng dao đánh lại, sau đó D lao vào để đánh K nhưng chưa kịp đánh thì bị K dùng dao đâm 01 nhát vào bụng D làm D bị rách mạc nối, thủng mặt sau đại tràng ngang. Hậu quả Vàng Seo D bị tổn thương cơ thể 42%. Hành vi của bị cáo dùng dao là hung khí nguy hiểm tác động vào vùng trọng yếu (đâm vào bụng) của bị hại có thể dẫn đến hậu quả chết người, việc bị hại chỉ bị thương tích 42% sức khỏe và hậu quả chết người chưa xảy ra là ngoài ý muốn chủ quan của bị cáo. Do vậy, hành vi của bị cáo Bàn Tòn K đã phạm tội “Giết người”, tội phạm và hình phạt được quy định tại khoản 2 Điều 123 BLHS 2015.

Điều 123 Bộ luật Hình sự quy định:

“1. Người nào giết người thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 12 đến 20 năm, tù chung thân hoặc tử hình:

2. Phạm tội không thuộc các trường hợp quy định tại khoản 1 Điều này, thì bị phạt tù từ 07 năm đến 15 năm”.

[3] Xét tính chất vụ án do bị cáo gây ra là rất nghiêm trọng, hành vi phạm tội của bị cáo là rất nguy hiểm cho xã hội, không những đã xâm phạm nghiêm trọng đến sức khỏe của người bị hại được pháp luật bảo vệ, mà còn gây mất trật tự trị an ở địa phương. Bị cáo nhận thức được sức khỏe, tính mạng của con người được pháp luật bảo vệ, mọi hành vi xâm phạm trái pháp luật đều bị trừng trị. Song, do ý thức coi thường pháp luật, coi thường sức khỏe, tính mạng của người khác bị cáo đã cố ý thực hiện hành vi phạm tội. Do vậy, cần áp dụng đối với bị cáo mức hình phạt nghiêm khắc, cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời gian tương xứng, nhằm trừng trị người phạm tội, đồng thời để bị cáo có thời gian cải tạo, rèn luyện mình trở thành người công dân tốt, sống biết tôn trọng pháp luật.

[4] Về các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: [4.1] Tình tiết tăng nặng:

Bị cáo không có tình tiết tăng nặng.

[4.2] Tình tiết giảm nhẹ:

Quá trình điều tra cũng như tại phiên tòa bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải về hành vi phạm tội của mình, bị cáo đã tác động gia đình khắc phục một phần chi phí điều trị cho người bị hại để khắc phục hậu quả, bị cáo là đồng bào dân tộc thiểu số nên khả năng nhận thức pháp luật còn hạn chế, hành vi phạm tội của bị cáo cũng do một phần lỗi của người bị hại.Vì vậy, Hội đồng xét xử áp dụng các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại các điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự, bị cáo phạm tội trong trường hợp chưa đạt nên cần áp dụng Điều 15, khoản 3 Điều 57 Bộ luật hình sự khi quyết định hình phạt.

Trong vụ án này đối với thương tích 04% của Bàn Tòn K là do người dân bức xúc đánh, vật ngã khống chế K gây ra. Tuy nhiên, quá trình điều tra không xác định được cụ thể là ai, đồng thời bị cáo K không yêu cầu xử lý nên Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an tỉnh Đắk Lắk không đề xập xử lý về hình sự là phù hợp.

Đối với việc Vàng Seo D, Vàng Seo T1 và Hầu Seo D1 có hành vi dùng tay đánh Bàn Tòn K. Tuy nhiên, không gây thương tích gì cho bị cáo, đồng thời bị cáo không yêu cầu xử lý nên Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an tỉnh Đắk Lắk không đề cập xử lý về hình sự là phù hợp.

Đối với việc bị cáo Bàn Tòn K cùng với Vàng Seo D, Hầu Seo D1, Vàng Seo T1 đánh nhau. Tuy nhiên, sự việc diễn ra trong thời gian ngắn, không gây ảnh hưởng xấu đến các hộ dân xung quanh. Vì vậy, hành vi này chưa đủ yếu tố cấu thành tội Gây rối trật tự công cộng theo quy định tại Điều 318 Bộ luật Hình sự, nên Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an tỉnh Đắk Lắk không đề cập xử lý hình sự là phù hợp.

[3] Về biện pháp tư pháp [3.1] Về xử lý vật chứng: Đối với 01 con dao bằng kim loại dài 24cm, mũi dao nhọn, sắc 1 cạnh là công cụ sử dụng vào việc phạm tội, không có giá trị sử dụng nên cần tịch thu tiêu hủy.

[3.2] Về trách nhiệm dân sự: Qúa trình điều tra cũng như tại phiên tòa, người bị hại yêu cầu bị cáo Bàn Tòn K có trách nhiệm bồi thường cho người bị hại chi phí điều trị thương tích gồm các khoản như sau:

- Tiền thuốc: 352.000 đồng;

- Tiền thuê xe chở đi cấp cứu: 1.000.000 đồng.

- Tiền viện phí: 100.000 đồng;

-Tiền thu nhập bị mất của bị cáo và người chăm sóc bị cáo trong thời gian nằm viện và điều trị là 40 ngày x 200.000đ/ngày x 2 người= 16.000.000 đồng.

- Tiền bồi dưỡng sức khỏe: 5.000.000 đồng.

- Tiền bù đắp tổn thất tinh thần: 30.000.000 đồng. Tổng cộng là 52.452.000 đồng.

Tại phiên tòa bị cáo chấp nhận bồi thường các khoản chi phí điều trị thương tích theo yêu cầu của người bị hại. Xét việc thỏa thuận bồi thường giữa người bị hại và bị cáo tại phiên tòa là hoàn toàn tự nguyện, phù hợp với quy định của pháp luật nên cần công nhận sự thỏa thuận giữa bị hại và bị cáo tại phiên tòa như sau: Bị cáo Bàn Tòn K phải có trách nhiệm bồi thường cho người bị hại anh Vàng Seo D số tiền 52.452.000 đồng tiền chi phí điều trị thương tích, được khấu trừ vào số tiền 10.000.000 đồng gia đình bị cáo đã bồi thường, bị cáo còn phải tiếp tục bồi thường cho bị hại số tiền còn lại 42.452.000đồng.

[4] Về án phí:

[4.1] Về án phí hình sự sơ thẩm: Bị cáo Bàn Tòn K phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm.

[4.2] Về án phí dân sự sơ thẩm: Bị cáo là người dân tộc thiểu số, sống ở vùng kinh tế xã hội đặc biệt khó khăn nên căn cứ điểm đ khoản 1 Điều 12 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án, miễn án phí dân sự sơ thẩm cho bị cáo.

Vì các lẽ trên, Tuyên xử;

QUYẾT ĐỊNH

[1] Tuyên bố bị cáo Bàn Tòn K, phạm tội “Giết người”.

Áp dụng khoản 2 Điều 123; các điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51, Điều 15; khoản 3 Điều 57 Bộ luật Hình sự năm 2015.

Xử phạt bị cáo Bàn Tòn K 06 (Sáu) năm tù, về tội “Giết người”. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt, ngày 26 tháng 7 năm 2021.

[2] Về biện pháp tư pháp:

[2.1]Về xử lý vật chứng: Áp dụng điểm a khoản 1 Điều 47 BLHS, điểm a khoản 2 Điều 106 BLTTHS.

Tuyên tịch thu tiêu hủy 01 con dao bằng kim loại dài 24cm, mũi dao nhọn, sắc 1 cạnh, là công cụ phạm tội không có giá trị sử dụng.

(Đặc điểm cụ thể theo biên bản giao nhận vật chứng ngày 03/11/2021 giữa cơ quan cảnh sát điều tra công an tỉnh Đắk Lắk và Cục thi hành án dân sự tỉnh Đắk Lắk) [2.2] Về trách nhiệm dân sự: Áp dụng Điều 48 BLHS năm 2015, Điều 586, Điều 590 BLDS năm 2015.

Công nhận sự tự nguyện thỏa thuận giữa bị hại và bị cáo tại phiên tòa như sau:

Bị cáo Bàn Tòn K phải có trách nhiệm bồi thường cho người bị hại anh Vàng Seo D số tiền 52.452.000 đồng chi phí điều trị thương tích, được khấu trừ vào số tiền 10.000.000 đồng gia đình bị cáo đã bồi thường. Bị cáo còn tiếp tục bồi thường cho anh Vàng Seo D số tiền còn lại là 42.452.000 đồng.

Kể từ ngày có đơn yêu cầu thi hành án của người được thi hành án cho đến khi thi hành xong bên phải thi hành án còn phải chịu khoản tiền lãi của số tiền còn phải thi hành án theo mức lãi suất quy định tại Điều 357, khoản 2 Điều 468 Bộ luật dân sự năm 2015.

[4] Về án phí: Áp dụng Điều 23, điểm đ khoản 1 Điều 12 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án;

[4.1] Về án phí hình sự sơ thẩm: Bị cáo Bàn Tòn K phải nộp 200.000 đồng (Hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

[4.2] Về án phí dân sự sơ thẩm: Bị cáo Bàn Tòn K được miễn án phí dân sự sơ thẩm.

Bị cáo, bị hại, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan có mặt tại phiên tòa được quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan vắng mặt tại phiên tòa được quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết hợp lệ.

Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo các quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật thi hành án dân sự. Thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự. 

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

46
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội giết người số 101/2021/HS-ST

Số hiệu:101/2021/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Đăk Lăk
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 14/12/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về