TÒA ÁN NHÂN DÂN CẤP CAO TẠI THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
BẢN ÁN 1000/2023/HS-PT NGÀY 22/12/2023 VỀ TỘI GIẾT NGƯỜI
Ngày 22 tháng 12 năm 2023 tại trụ sở Tòa án nhân dân cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh xét xử phúc thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 688/2023/TLPT- HS ngày 13 tháng 9 năm 2023 đối với bị cáo Nguyễn Văn T do bị cáo kháng cáo Bản án hình sự sơ thẩm số: 34/2023/HS-ST ngày 02 tháng 8 năm 2023 của Tòa án nhân dân tỉnh T.
Bị cáo có kháng cáo: Nguyễn Văn T (tên gọi khác: T1), sinh năm 1986 tại tỉnh T; nơi cư trú: Ấp MP, xã TT, huyện CB, tỉnh T; nghề nghiệp: Không; trình độ văn hóa: 8/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Nguyễn Văn L và bà Phạm Thị B; vợ Nguyễn Huỳnh Thị Ngọc T2; con: 01 người con; tiền án, tiền sự: Không; nhân thân: Năm 2011, bị Tòa án nhân dân huyện CB, tỉnh T xử phạt 01 năm 03 tháng tù về tội “Cố ý làm hư hỏng tài sản”, năm 2012 chấp hành xong án phạt; bị cáo bị bắt tạm giữ, tạm giam từ ngày 22/11/2022 đến nay, có mặt tại phiên tòa.
Người bào chữa cho bị cáo Nguyễn Văn T: Luật sư Trần Thị Hồng V – Văn phòng Luật sư TTHV và Cộng sự thuộc Đoàn Luật sư Thành phố Hồ Chí Minh.
Ngoài ra còn có các bị cáo Lê Minh K, Lê Văn T3; người đại diện hợp pháp của bị hại và 07 người liên quan không có kháng cáo và không liên quan đến kháng cáo.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Khoảng 19 giờ 30 phút ngày 21/11/2022, Cao Trung H điều khiển xe mô tô biển số 63B1-xxxxx chở anh Diệp Thế S đến quán Karaoke N thuộc Ấp MP, xã TT, huyện CB, tỉnh T do Lê Văn T3 đứng tên đại diện hộ kinh doanh để tìm Lê Thị Ngọc C (chị ruột của T3), sinh năm 1986, nơi cư trú: ấp ĐL, xã PĐ, huyện CT, tỉnh Bến Tre giải quyết mâu thuẫn tình cảm giữa H với C. Khi thấy H và S đến, C đi vào trong phòng nghỉ đóng cửa lại. H đi đến vặn khóa cửa, kêu C ra ngoài để nói chuyện nhưng C từ chối. Lúc này tại quán Karaoke N bị cúp điện nên T3 nói với H và S khi nào có điện lại sẽ tổ chức cho H, S nhậu.
Sau đó H nằm võng, còn S ngồi trên ghế nhựa tại khu vực nền sảnh phía trước quán để chờ có điện. Lúc này, C sợ H và S quậy phá quán nên điện thoại cho Nguyễn Văn T (là người làm bảo kê cho quán, với số tiền công 3.000.000 đồng/tháng) biết việc H đến quán gây rối, kêu T về quán giải quyết. Khi T nghe điện thoại của C thì T và Lê Minh K đang ngồi uống rượu với nhau nên T nói lại cho K nghe. T rủ K cùng đi giải quyết mâu thuẫn, K đồng ý.
T điều khiển xe mô tô biển số 63V5-xxxx về quán Karaoke N thì gặp H và S, giữa 02 bên có lời qua tiếng lại, dẫn đến cự cãi, thách thức đánh nhau. T đi vào phòng chứa bia của quán lấy 01 cây dao tự chế dài 80cm, đứng nép bên cửa phòng của quán. Khi T nhìn thấy K điều khiển xe mô tô đến quán, thì T cầm dao chạy ra nơi H đang ngồi trên võng chém H một cái nhưng không trúng. H bỏ chạy. T cầm dao quay sang chém S từ trên xuống. S dùng ghế nhựa đang ngồi để chống đỡ làm ghế nhựa bị bể. T tiếp tục cầm dao chém 03 nhát từ trên xuống trúng vào vùng đầu, tay và chân của S, làm con dao bị gãy rời cán và lưỡi, còn S thì gục té xuống tại chỗ. Thấy vậy, K xông vào dùng chân đạp vào người S 02 đến 03 cái. T đến kéo K ra, kêu K lấy xe điều khiển chở T về nhà.
Sau đó Diệp Thế S được đưa đi cấp cứu, đến 17 giờ 30 phút ngày 22/11/2022, thì S tử vong tại bệnh viện CR, thành phố Hồ Chí Minh.
Lê Văn T3 chứng kiến rõ toàn bộ sự việc T và K đánh, chém H và S, nhưng để che giấu tội phạm, T3 chỉ đạo 03 tiếp viên của quán là Trần Thị Thúy H, Nguyễn Thị Thảo L, và Đặng Ngọc C1 (T4) phụ giúp T3 lau rửa vết máu, để tiếp tục đón khách đến uống rượu bia và hát karaoke, yêu cầu các tiếp viên không được khai báo hành vi của T khi Công an đến xác minh vụ việc. Ngoài ra, T3 còn lấy con dao là hung khí mà T đã sử dụng chém S đem vứt sang khu đất vườn cạnh quán.
Đến 15 giờ 50 phút ngày 22/11/2022, Nguyễn Văn T đến Công an xã TT, huyện CB, tỉnh T đầu thú; ngày 23/11/2022 Lê Minh K cũng đến Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an tỉnh T đầu thú.
Bản kết luận giám định pháp y về tử thi số 349/2022/TTh ngày 22/11/2022 của Trung tâm Pháp y tỉnh T xác định nguyên nhân tử vong của Diệp Thế S:
- Dấu hiệu chính qua giám định: Vỡ sọ thái dương trái nhiều mảnh phức tạp, phòi nhu mô não. Xuất huyết dưới màng cứng toàn bộ hai bán cầu đại não, máu cục đen sậm số lượng nhiều bán cầu trái. Dập não vùng thái dương đỉnh trái. Xuất huyết dưới nhện hai bán cầu đại não. Xuất huyết hai bán cầu tiểu não. Phổi phải sung huyết thùy dưới màu tím sậm. Nhu mô phổi phải và trái có máu lẫn bọt khí. Kết luận nguyên nhân tử vong của Diệp Thế S là: Chấn thương sọ não hở do xuất huyết dưới màng cứng, dưới nhện 02 bán cầu đại não. Dập não thái dương đỉnh trái. Vỡ vòm sọ. Xuất huyết tiểu não.
Bản kết luận giám định số 500/KL-KTHS ngày 18/01/2023 của Phân viện khoa học hình sự Bộ Công an tại Thành phố Hồ Chí Minh kết luận đối với các mẫu vật đã thu giữ tại hiện trường trong quá trình khám nghiệm, như sau: Trên mẫu ký hiệu A1 (lưỡi dao bằng kim loại màu trắng dài 32cm), A2 (cán dao bằng kim loại màu đen dài 48cm) có ADN của nạn nhân Diệp Thế S. Không phát hiện ADN của nạn nhân Diệp Thế S trên các mẫu ký hiệu A3 (nón kết), A4 (mẫu khăn giấy), A5 (lông tóc).
Tại Bản cáo trạng số: 17/CT-VKSTG - P2 ngày 15 tháng 5 năm 2023, Viện kiểm sát nhân dân tỉnh T đã truy tố các bị cáo Nguyễn Văn T, Lê Minh K về tội “Giết người” quy định tại điểm n khoản 1 Điều 123 Bộ luật Hình sự; truy tố bị cáo Lê Văn T3 về tội “Che giấu tội phạm” quy định tại khoản 1 Điều 389 Bộ luật Hình sự.
Tại Bản án hình sự sơ thẩm số 34/2023/HS-ST ngày 02/8/2023 của Tòa án nhân dân tỉnh T đã quyết định:
Tuyên bố bị cáo Nguyễn Văn T phạm tội “Giết người”.
Áp dụng điểm n khoản 1 Điều 123; điểm s khoản 1,2 Điều 51; Điều 39 Bộ luật Hình sự.
Xử phạt bị cáo Nguyễn Văn T tù chung thân. Thời hạn tù được tính từ ngày 22/11/2022.
Ngoài ra, Bản án sơ thẩm còn quyết định tội danh và hình phạt đối với các bị cáo Lê Minh K, Lê Văn T3; về trách nhiệm dân sự; về xử lý vật chứng; về án phí sơ thẩm; về trách nhiệm do chậm thi hành án; nghĩa vụ thi hành án và quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.
- Ngày 05/8/2023 bị cáo Nguyễn Văn T kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt.
Tại phiên tòa phúc thẩm hôm nay:
- Bị cáo Nguyễn Văn T khai nhận hành vi phạm tội của các bị cáo đúng như án sơ thẩm đã xử, không oan. Tuy nhiên mức hình phạt quá nặng nên bị cáo kháng cáo xin giảm nhẹ một phần hình phạt vì đã khắc phục bồi thường xong cho gia đình bị hại; hoàn cảnh gia đình của bị cáo khó khăn, bị cáo là lao động chính trong gia đình.
Đại diện Viện Kiểm sát nhân dân cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh có ý kiến: Về người tiến hành tố tụng và người tham gia tố tụng tại phiên tòa phúc thẩm đã thực hiện đúng quy định của Bộ luật tố tụng hình sự; đơn kháng cáo của bị cáo T hợp lệ đủ điều kiện để xem xét theo thủ tục phúc thẩm.
Về nội dung giải quyết vụ án: Xét thấy trước đó bị cáo và bị hại không có mâu thuẫn gì trước nhưng khi nghe điện thoại của C nói có người đến quán Karaoke kiếm chuyện thì bị cáo rủ K đến quán và sau khi cự cãi qua lại bị cáo đã dùng dao chém nhiều nhát vào người bị hại, hậu quả làm cho bị hại tử vong. Hành vi phạm tội của bị áo là bặc biệt nguy hiểm cho xã hội. Bản án sơ thẩm đã tuyên bố bị cáo phạm tội “Giết người” theo điểm n khoản 1 Điều 123 Bộ luật Hình sự là đúng người, đúng tội. Tại phiên tòa phúc thẩm mặc dù bị cáo có tình tiết giảm nhẹ mới là tự nguyện bồi thường thiệt hại cho gia đình bị hại, người đại diện hợp pháp của bị hại có đơn xin giảm hình phạt cho bị cáo và bị cáo có bác ruột là liệt sĩ. Nhưng xét hình phạt mà bản án tuyên xử đối với bị cáo là tương xứng nên đề nghị không chấp nhận kháng cáo của bị cáo. Giữ nguyên bản án sơ thẩm về hình phạt đối với bị cáo.
Luật sư bào chữa cho bị cáo Nguyễn Văn T có ý kiến: Thống nhất với tội danh mà án sơ thẩm đã xét xử. Tuy nhiên tại cấp phúc thẩm bị cáo có nhiều tình tiết giảm nhẹ như thật thà khai báo, ăn năn hối cải; bị cáo đã bồi thường thiệt hại cho gia đình bị hại; người đại diện hợp pháp của bị hại có đơn xin giảm nhẹ cho bị cáo; gia đình bị cáo có bác ruột là liệt sĩ là các tình tiết giảm nhẹ chưa được Tòa án cấp sơ thẩm xem xét. Do đó đề nghị Tòa án cấp phúc thẩm áp dụng Điều 357 Bộ luật Tố tụng hình sự giảm nhẹ một phần hình phạt cho bị cáo cũng đủ răn đe và giáo dục đối với bị cáo và giúp bị cáo được sớm trở về sum họp gia đình.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1] Đơn kháng cáo của bị cáo Nguyễn Văn T làm trong thời hạn luật định, đủ điều kiện để giải quyết theo thủ tục phúc thẩm.
[2] Lời khai nhận của bị cáo tại phiên tòa phù hợp với biên bản khám nghiệm hiện trường, kết luận giám định pháp y, biên bản thu giữ vật chứng, lời khai của những người liên quan, người làm chứng, vật chứng thu giữ, kết quả khám nghiệm hiện trường, khám nghiệm tử thi, kết luận giám định và các chứng cứ, tài liệu khác do cơ quan điều tra thu thập có trong hồ sơ vụ án, nên có đủ cơ sở xác định: Vào khoảng 19 giờ 30 ngày 21/11/2022, anh Cao Trung H và Diệp Thế S đến quán Karaoke N, thuộc Ấp MP, xã TT, huyện CB, tỉnh T la lối thì chị Lê Thị Ngọc C điện thoại báo cho Nguyễn Văn T là đối tượng bảo kê của quán karaoke biết việc anh H, anh S đến quán gây rối. Sau khi nghe điện thoại của chị C, T đi đến quán và điện thoại cho Lê Minh K cùng đi đến quán. Tại quán karaoke, T với anh H, anh S xảy ra cự cãi dẫn đến đánh nhau, T lấy dao tự chế cất giấu tại quán chém 03 nhát vào vùng đầu, tay, chân của anh S làm cho anh S té ngã xuống đất. Thấy vậy, K tiếp tục xông vào dùng chân đạp, đá liên tục 2 – 3 cái vào người anh S rồi cùng với bị cáo T bỏ đi. Sau đó anh S được đưa đi cấp cứu nhưng đã tử vong. Tại Bản kết luận giám định pháp y về tử thi số 349/2022/TTh ngày 22/11/2022 của Trung tâm Pháp y tỉnh T kết luận nguyên nhân tử vong của Diệp Thế S là do chấn thương sọ não hở do xuất huyết dưới màng cứng, dưới nhện 02 bán cầu đại não. Dập não thái dương đỉnh trái. Vỡ vòm sọ. Xuất huyết tiểu não.
Do đó Bản án sơ thẩm tuyên bố bị cáo Nguyễn Văn T phạm tội “Giết người” theo điểm n khoản 1 Điều 123 Bộ luật Hình sự là đúng người, đúng tội.
[3] Hành vi phạm tội của bị cáo là đặc biệt nguy hiểm cho xã hội, đã xâm phạm trực tiếp đến tính mạng của bị hại được pháp luật bảo vệ, làm ảnh hưởng rất xấu đến tình hình trật tự, trị an tại địa phương. Do vậy, cần phải xử phạt bị cáo thật nghiêm mới đảm bảo tác dụng giáo dục đối với bị cáo và răn đe phòng ngừa chung cho xã hội.
Tòa án cấp sơ thẩm đã đánh giá đúng tính chất, mức độ phạm tội và xem xét đầy đủ các tình tiết giảm nhẹ cho bị cáo theo quy định tại điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự và tuyên phạt bị cáo mức hình phạt tù chung thân là có căn cứ, đúng quy định của pháp luật.
[4] Tại cấp phúc thẩm, bị cáo có xuất trình được tình tiết giảm nhẹ mới do bị cáo đã tác động gia đình bồi thường toàn bộ số tiền cho gia đình bị hại; người đại diện hợp pháp của bị hại có đơn xin giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo; gia đình bị cáo có bác ruột Nguyễn Văn N là liệt sĩ được quy định tại điểm b khoản 1 và khoản 2 Bộ luật Hình sự chưa được Tòa án cấp sơ thẩm xem xét nên cần được xem xét các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự cho bị cáo là có căn cứ. Tuy nhiên, xét mức hình phạt mà Tòa án sơ thẩm tuyên phạt đối với bị cáo là tương xứng với tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội mà bị cáo đã gây ra.
Vì vậy, không có căn cứ chấp nhận kháng cáo của bị cáo và ý kiến bào chữa của Luật sư đề nghị giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo. Giữ nguyên bản án sơ thẩm về hình phạt đối với bị cáo Nguyễn Văn T theo ý kiến đề nghị của đại diện Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại thành phố Hồ Chí Minh là có căn cứ.
[5] Án phí hình sự phúc thẩm: Bị cáo Nguyễn Văn T kháng cáo không được chấp nhận nên phải chịu án phí hình sự phúc thẩm theo luật định.
[6] Các quyết định khác của Bản án sơ thẩm quyết định tội danh và hình phạt đối với các bị cáo Lê Minh K, Lê Văn T3; về trách nhiệm dân sự; về xử lý vật chứng; về án phí sơ thẩm; về trách nhiệm do chậm thi hành án; nghĩa vụ thi hành án không có kháng cáo, kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.
Vì các lẽ trên;
QUYẾT ĐỊNH
1. Căn cứ điểm a khoản 1 Điều 355, Điều 356 Bộ luật Tố tụng hình sự; Điều 23 của Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án;
- Không chấp nhận kháng cáo của bị cáo Nguyễn Văn T.
2. Giữ nguyên Bản án hình sự sơ thẩm số 34/2023/HS-ST ngày 02/8/2023 của Tòa án nhân dân tỉnh T về hình phạt đối với bị cáo Nguyễn Văn T:
2.1. Tuyên bố bị cáo Nguyễn Văn T phạm tội “Giết người”.
Áp dụng điểm n khoản 1 Điều 123; điểm b, s khoản 1 và khoản 2 Điều 51;
Điều 39 Bộ luật Hình sự năm 2015 được sửa đổi bổ sung năm 2017;
Xử phạt bị cáo Nguyễn Văn T tù Chung thân về tội “Giết người”. Thời hạn tù tính từ ngày 22/11/2022.
Tiếp tục tạm giam bị cáo Nguyễn Văn T để đảm bảo thi hành án.
3. Bị cáo Nguyễn Văn T phải nộp 200.000 đồng (hai trăm ngàn đồng) án phí hình sự phúc thẩm.
4. Các quyết định khác của Bản án sơ thẩm quyết định tội danh và hình phạt đối với các bị cáo Lê Minh K, Lê Văn T3; về trách nhiệm dân sự; về xử lý vật chứng; về án phí sơ thẩm; về trách nhiệm do chậm thi hành án; nghĩa vụ thi hành án không có kháng cáo, kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.
5. Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.
Bản án về tội giết người số 1000/2023/HS-PT
Số hiệu: | 1000/2023/HS-PT |
Cấp xét xử: | Phúc thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân cấp cao |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 22/12/2023 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về