Bản án về tội giết người số 07/2023/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH PHÚ YÊN 

BẢN ÁN 07/2023/HS-ST NGÀY 01/03/2023 VỀ TỘI GIẾT NGƯỜI

Vào ngày 01 tháng 3 năm 2023, tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Phú Yên xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 43/2022/TLST-HS ngày 22 tháng 12 năm 2022 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 02/2023/QĐXXST-HS ngày 01 tháng 02 năm 2023 đối với các bị cáo:

1. Y D, tên gọi khác: Ma Bưởi, sinh ngày 19/12/2000; tại tỉnh Phú Yên. Nơi cư trú: Thôn S, xã S, huyện S, tỉnh Phú Yên; nghề nghiệp: Làm nông; trình độ văn hóa (học vấn): 02/12; giới tính: Nam; dân tộc: Chăm (H’roi); tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; cha không xác định được; con bà Hờ G, sinh năm 1976; sống như vợ chồng với Hờ P, sinh năm 2002 và có 02 con, lớn sinh năm 2020, nhỏ sinh năm 2022; tiền án, tiền sự: Không; nhân thân: Ngày 06/12/2017 bị Công an xã S, huyện S xử phạt 325.000 đồng về hành vi đánh nhau, đã nộp phạt ngày 09/01/2018; bắt tạm giam từ ngày 01/6/2022 tại Trại tạm giam Công an tỉnh P; có mặt.

2. Đặng Tấn Q, tên gọi khác: Tý Quang, sinh ngày 02/11/1989; tại tỉnh Phú Yên. Nơi cư trú: Thôn T, xã S, huyện S, tỉnh Phú Yên; nghề nghiệp: Làm nông; trình độ văn hóa (học vấn): 12/12; giới tính: Nam; dân tộc: Kinh; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Đặng Tấn Q1, sinh năm 1960 và bà Trần Thị Kim L, sinh năm 1967; có vợ là Phạm Đặng Bảo H, sinh năm 1993 và 02 con, lớn sinh năm 2011, nhỏ sinh năm 2012; tiền án, tiền sự: Không; nhân thân: Ngày 31/5/2019 bị Công an xã S, huyện S xử phạt 500.000 đồng về hành vi đánh nhau, đã nộp phạt; bắt tạm giam từ ngày 22/11/2022 tại Trại tạm giam Công an tỉnh P; có mặt.

3. Y Tài, sinh ngày 14/3/2000; tại tỉnh Phú Yên. Nơi cư trú: Thôn S, xã S, huyện S, tỉnh Phú Yên; nghề nghiệp: Làm nông; trình độ văn hóa (học vấn): 4/12; giới tính: Nam; dân tộc: Chăm (H’roi); tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Y M, sinh năm 1976 và bà Hờ L1, sinh năm 1977; tiền án, tiền sự: Không; bị cáo tại ngoại; có mặt.

4. Y Hiểu, tên gọi khác: Y N, sinh 01/01/2004 (Khi phạm tội 17 tuổi 01 tháng 13 ngày); tại tỉnh Phú Yên. Nơi cư trú: Thôn S, xã S, huyện S, tỉnh Phú Yên; nghề nghiệp: Làm nông; trình độ văn hóa (học vấn): 07/12; giới tính: Nam; dân tộc: Chăm (H’roi); tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Y N1, sinh năm 1983 và bà Hờ H1, sinh năm 1981; tiền án, tiền sự: Không; bị cáo tại ngoại; có mặt.

5. Bá Thanh N2, sinh ngày 17/5/2003 (Khi phạm tội 17 tuổi 08 tháng 27 ngày); tại tỉnh Phú Yên. Nơi cư trú: Thôn S, xã S, huyện S, tỉnh Phú Yên; nghề nghiệp: Làm nông; trình độ văn hóa (học vấn): 09/12; giới tính: Nam; dân tộc: Chăm (H’roi); tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Bá Thanh H2, sinh năm 1970 và bà Ra Lan Hờ N3, sinh năm 1975; tiền án, tiền sự: Không; bị cáo tại ngoại; có mặt.

- Người bào chữa của bị cáo YD: Bà Lưu Thị Tuyết A - Luật sư, Văn phòng L4, thuộc Đoàn Luật sư tỉnh P; có mặt.

- Người bào chữa của bị cáo Đặng Tấn Q: Ông Trần H3 - Luật sư Văn phòng N5, thuộc Đoàn Luật sư tỉnh P; có mặt.

- Người bào chữa của bị cáo Y T: Ông Trần Văn X - Luật sư Văn phòng L5, thuộc Đoàn Luật sư tỉnh P; có mặt.

- Người bào chữa của của các bị cáo Y H4 và Bá Thanh N2: Ông Ngô Văn T1 - Trợ giúp viên pháp lý do Trung tâm trợ giúp pháp lý Nhà nước tỉnh P cử; có mặt.

- Người đại diện hợp pháp của bị cáo Y H4: Ông Y N1, sinh năm 1983 và bà Hờ L2, sinh năm 1981; là cha mẹ đẻ của bị cáo Y H4. Cùng nơi cư trú: Thôn S, xã S, huyện S, tỉnh Phú Yên; có mặt.

- Người đại diện hợp pháp của bị cáo Bá Thanh N2: Ông Bá Thanh H2, sinh năm 1970 và bà Ra Lan Hờ N3, sinh năm 1975; là cha mẹ đẻ của bị cáo Bá Thanh N2. Cùng nơi cư trú: Thôn S, xã S, huyện S, tỉnh Phú Yên; có mặt.

- Bị hại:

1. Lê Anh H5, sinh ngày 08/6/1996. Nơi cư trú: Thôn S, xã S, Huyện S, tỉnh Phú Yên; có mặt.

2. Lê Xuân B, sinh ngày 30/4/1961. Nơi cư trú: Thôn S, xã S, Huyện S, tỉnh Phú Yên; có mặt.

3. Lê Quốc T2, sinh ngày 22/11/1994. Nơi cư trú: Thôn S, xã S, Huyện S, tỉnh Phú Yên; có mặt.

- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:

1. Võ Đoàn Phúc H6, sinh ngày 05/6/2003. Nơi cư trú: Thôn S, xã S, Huyện S, tỉnh Phú Yên; có mặt.

2. Lưu Văn C, sinh ngày 16/3/1999. Nơi cư trú: Thôn S, xã S, Huyện S, tỉnh Phú Yên; có mặt.

3. Nguyễn Văn T3, sinh năm 1988. Nơi cư trú: Thôn S, xã S, Huyện S, tỉnh Phú Yên; vắng mặt.

4. Lê Trùng D1, sinh ngày 27/12/1991. Nơi cư trú: Thôn S, xã S, Huyện S, tỉnh Phú Yên; có mặt.

5. Y H7, sinh ngày 12/4/1994. Nơi cư trú: Thôn s, xà s, Huyện s, tỉnh Phú Yên; có mặt.

6. Y Trị, sinh ngày 01/6/1999. Nơi cư trú: Thôn S, xã S, Huyện S, tỉnh Phú Yên; có mặt.

7. La O N4, sinh ngày 01/02/2004. Nơi cư trú: Thôn S, xã S, Huyện S, tỉnh Phú Yên; vắng mặt.

* Người làm chứng:

1. Võ Hoàng H8, sinh ngày 05/10/1996. Nơi cư trú: Thôn S, xã S, Huyện S, tỉnh Phú Yên; có mặt.

2. Y Huấn, sinh ngày 01/01/1994. Nơi cư trú: Thôn S, xã S, Huyện S, tỉnh Phú Yên; có mặt.

3. Hà Thị P1, sinh ngày 18/5/1993. Nơi cư trú: Thôn S, xã S, Huyện S, tỉnh Phú Yên; vắng mặt.

4. Sô Thị L3, sinh ngày 07/02/2003. Nơi cư trú: Thôn S, xã S, Huyện S, tỉnh Phú Yên; vắng mặt.

5. Đinh Thị C1, sinh ngày 14/10/2002. Nơi cư trú: Làng Ghếk, xã Y, huyện Đ, tỉnh Gia Lai; vắng mặt.

6. Y Liêm, sinh ngày 30/02/2002. Nơi cư trú: Thôn S, xã S, Huyện S, tỉnh Phú Yên; có mặt.

7. Y H9, sinh ngày 20/5/2002. Nơi cư trú: Thôn S, xã S, Huyện S, tỉnh Phú Yên; có mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 16 giờ ngày 14/02/2021 Đặng Tấn Q, Vò Đoàn Phúc H6, Lưu Văn C, Lê Trùng D1, Lê Anh H5, Lê Quốc T2, Nguyễn Văn T3, Sô Thị L3 và một số người khác tổ chức ăn nhậu tại khu vực hồ S thuộc thôn S, xã S, huyện S, tỉnh Phú Yên thì xảy ra cãi nhau giữa C với H6 và Q. H6 và Q bỏ đi về, H6 gọi điện thoại nói anh trai là Võ Hoàng H8 đến hỏi C lý do đòi đánh H6, còn Q về nhà Mó V tiếp tục nhậu với Y D và Y T. Trong quá trình nhậu, Q kể cho D và T nghe về mâu thuẫn giữa Q, H6 với C. Một lúc sau, H6 đến gặp Q nói C muốn kiếm chuyện với Q. Q nói “Tụi mày đi với anh ra đánh thằng C dằn mặt, có gì anh lo” và được cả ba đồng ý. Q bảo T chở D ra xem C còn nhậu tại bờ hồ hay không nên T điều khiển xe chở D đi đến vị trí C nhậu. D thấy C là người quen nên vào uống 01 ly bia rồi về. Trên đường về, D thấy H6 chở Q chạy ra, Q vẫy tay nên T điều khiển xe chở D quay lại, chạy sau H6 và Q đến chỗ nhóm của C đang nhậu. Q bước xuống xe gọi C ra nói chuyện nhưng C không ra. Q đi đến chỗ C, dùng tay đấm vào mặt C. Dương, Hào, Tỉnh , Tùng (nhóm C) xông vào đòi đánh Q nên D xông vào xô đẩy thách thức nhau với nhóm C. T cũng xông vào nhưng được L3 can ngăn, H6 được H8 giữ lại, chở về nhà. Nhóm C dùng cây đánh Q nên Q và D bỏ chạy về hướng đường bê tông, T thấy Q và D bị rượt đánh nên cũng điều khiển xe mô tô theo. Khi về đến làng, Q lấy 01 khúc cây gỗ dài khoảng 70cm; D lấy 01 cây mã tấu dài 68cm quay ra đánh lại nhóm C; T thấy vậy nên cũng lấy 01 khúc cây gỗ dài khoảng 60cm với mục đích quay lại hỗ trợ Q và D đánh nhóm C. Q bị T3 dùng cây đánh trúng tay trái nên Q dùng cây đánh trúng hông T3. D1 và T3 xông vào đánh Q nên Q bỏ chạy. Dương cầm mũ bảo hiểm rượt đuổi Q thì gặp D, Dương cầm mũ bảo hiểm đánh trúng vào lưng D, D dùng mã tấu chém 02 cái trúng vào tay và xước da vùng cổ của D1. Thấy D và D1 đánh nhau thì T cầm cây xông vào đánh D1 nhưng được L3 can ngăn cầm tay kéo lại không cho đánh. D1 bỏ chạy, D ném mã tấu vào lề đường rồi cầm 01 cây gỗ keo dài khoảng 70cm đuổi theo D1, gặp Lê Anh H5 đang đứng ở dưới đường bê tông, D cầm cây keo đánh nhiều cái vào vùng đầu của H5 gây thương tích. Thấy H5 bị đánh, ông Lê Xuân B (cha của H5) chạy đến can ngăn thì D tiếp tục cầm cây đánh nhiều cái vào đầu, tay của ông B gây thương tích. D ném cây lại hiện trường rồi chạy về làng, H5 và ông B được mọi người đưa đi cấp cứu. Hậu quả Lê Anh H5 bị thương tích vùng đầu dài 5cm, sâu thấu xương sọ; sưng nề vùng trán (CT Scanner sọ não: dập xuất huyết nhu mô não vùng thái dương đỉnh phải). Lê Xuân B bị thương tích vùng đỉnh đầu phải, dập tổ chức dưới da đầu dài 7cm, sâu thấu xương sọ, vùng gò má trái có vết thương dài 02cm, sâu 01 cm, gãy xương chính mũi.

Thời điểm nhóm C rượt đánh Q và D thì cách vị trí nhóm C đang nhậu khoảng 50m có Y H4, Bá Thanh N2, Y, Y T4, Lao N4 và một số người khác đang ăn nhậu tại khu vực bờ hồ S. Thấy nhóm C đang rượt đuổi phía sau Y T, nghĩ Y T bị đánh nên H8, T4, N4, H4, N2 mỗi người lấy 01 khúc cây gỗ keo chạy xuống đường bê tông. Thấy T2 điều khiển xe mô tô cầm cây chạy về hướng T nên H8 chặn xe lại hỏi đi đâu thì T2 trả lời “Chuyện của tao với Tý Q2 chắc mày biết” rồi lên xe định chạy đi, sợ T2 đánh T nên H8 kéo xe của T2 thì bị T2 cầm cây đánh 02 cái trúng vào vùng lưng và tay của H8. Thấy T2 đánh H8, N2 cầm cây gỗ keo đánh vào vùng lưng T2, T2 bỏ chạy thì N2 và H4 đuổi theo dùng cây đánh nhiều cái trúng vào người làm T2 té ngã dưới hố cạnh đường bê tông bất tỉnh. Hậu quả T2 bị sưng u kích thước (4x4)cm vùng thái dương phải, gãy xương chính mũi, gày chỏm xương bàn II bàn tay trái.

Y D, Lê Trùng D1, Y H7, Đặng Tấn Q bị thương tích nhưng từ chối giám định thương tích và có đơn không yêu cầu xử lý hình sự.

Kết luận giám định pháp y về thương tích số: 108, 109, 110 ngày 19/4/2021 của Trung tâm Pháp Y tỉnh p kết luận: Lê Anh H5 bị thương tích 54%, do vật tày + vật có cạnh sắc gây nên; Lê Xuân B bị thương tích 17% do vật tày có cạnh gây nên; Lê Quốc T2 bị thương tích 17%, do vật tày gây nên.

Bản Cáo trạng số: 01/CT-VKS-P1 ngày 20/12/2022 của Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Phú Yên truy tố: Các bị cáo Y D, Đặng Tấn Q và Y T về tội “Giết người” theo Điểm a, n Khoản 1 Điều 123 Bộ luật Hình sự; các bị cáo Y H4, Bá Thanh N2 về tội “Cố ý gây thương tích” Điểm đ, Khoản 2 Điều 134 Bộ luật Hình sự.

Tại phiên tòa, các bị cáo Y D, Đặng Tấn Q, Y T, Y H4, Bá Thanh N2 vẫn khai nhận tội như đã khai tại Cơ quan điều tra, thừa nhận toàn bộ hành vi phạm tội như nội dung bản Cáo trạng đã truy tố; các bị cáo đều xin lỗi bị hại và đều mong được pháp luật khoan hồng.

Kiểm sát viên tham gia phiên tòa trình bày lời luận tội, vẫn giữ nguyên quyết định truy tố như nội dung bản Cáo trạng. Sau khi phân tích hành vi phạm tội và các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, đề nghị Hội đồng xét xử tuyên các bị cáo Y D, Đặng Tấn Q và Y T phạm tội “Giết người”; các bị cáo Y H4 và Bá Thanh N2 phạm tội “Cố ý gây thương tích”.

Về Hình phạt:

+ Áp dụng Điểm a, n Khoản 1 Điều 123; Điểm b, s Khoản 1 Điều 51; Điều 15; Khoản 3 Điều 57 Bộ luật Hình sự đối với các bị cáo; thêm Khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự đối với bị cáo Y D; Điều 54 Bộ luật Hình sự đối với bị cáo Y T; phạt:

- Bị cáo Y D từ 14 năm đến 15 năm tù. Thời hạn tù tính từ ngày bắt tạm giam, ngày 01/6/2022.

- Bị cáo Đặng Tấn Q từ 12 năm đến 13 năm tù. Thời hạn tù tính từ ngày bắt tạm giam, ngày 22/11/2022.

- Bị cáo Y T từ 07 năm đến 08 năm tù. Thời hạn tù tính từ ngày bắt thi hành án.

+ Áp dụng Điểm đ, Khoản 2 Điều 134; Điểm b, s Khoản 1 Điều 51; Điều 91; 101 Bộ luật Hình sự đối với các bị cáo; phạt:

- Bị cáo Y H4 từ 02 năm đến 02 năm 06 tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày bắt thi hành án.

- Bị cáo Bá Thanh N2 từ 02 năm đến 02 năm 06 tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày bắt thi hành án.

Về trách nhiệm bồi thường dân sự: Áp dụng Điều 48 Bộ luật Hình sự; các Điều 585, 590 Bộ luật Dân sự;

Buộc các bị cáo Y D, Đặng Tấn Q và Y T phải liên đới bồi thường cho Tê Anh H5 số tiền 201.462.000 đồng, Lê Xuân B số tiền 27.656.000 đồng. Do mức độ lỗi gây thiệt hại khác nhau, nên các bị cáo D, Q phải bồi thường 80%, trong đó D bồi thường cao hơn Q; bị cáo T phải chịu 20% số tiền phải bồi thường.

Buộc các bị cáo Y H4 và Bá Thanh N2 phải liên đới bồi thường cho Lê Quốc T2 số tiền 29.558.921 đồng, theo phần ngang nhau.

Xử lý vật chứng: Áp dụng Điều 47 Bộ luật Hình sự; Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự;

Tịch thu tiêu hủy 01 khúc cây gỗ dài 70cm, có cạnh (3x5)cm, trên thân khúc gỗ có đóng nhiều cây đinh bằng kim loại; 01 dao tự chế dài 68cm, lười dao bằng kim loại dài 48 cm, rộng 04cm, cán bằng gỗ.

Người bào chữa của các bị cáo đều cho rằng việc áp dụng tội danh đối với các bị cáo như Kiểm sát viên đề nghị là đúng, không oan, nhưng mức án mà Kiểm sát viên đề nghị phạt các bị cáo là cao; do đó, đề nghị Hội đồng xét xử quyết định mức hình phạt thấp hơn nữa cho các bị cáo.

Trong phần đối đáp, Kiểm sát không nhất trí với đề nghị của những Người bào chữa, giữ nguyên quan điểm; các bị cáo nói lời sau cùng tiếp tục xin được pháp luật khoan hồng.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào tài liệu có trong hồ sơ đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về thủ tục tố tụng [1.1] Các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng trong quá trình giải quyết vụ án không bị khiếu nại. Việc điều tra, thu thập chứng cứ của Cơ quan điều tra đã được thực hiện đúng trình tự, thủ tục do Bộ luật Tố tụng hình sự quy định, nên các chứng cứ thu thập được đều đảm bảo giá trị chứng minh và hợp pháp.

[1.2] Tại phiên tòa, một số người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan; người làm chứng vắng mặt lần thứ hai không lý do. Nhưng xét thấy, những người này đều đã có lời khai tại Cơ quan điều tra, việc vắng mặt của họ không gây trở ngại cho việc xét xử. Do đó, chấp nhận ý kiến của các bị cáo, những người bào chữa và Kiểm sát viên, căn cứ Điều 292; 293 Bộ luật Tố tụng hình sự. Tòa án tiến hành xét xử vụ án.

[2] Sau khi tổng hợp, kiểm tra, đánh giá đầy đủ, khách quan, toàn diện mọi chứng cứ đã thu thập được về vụ án, thấy rằng: Lời khai nhận tội của các bị cáo tại Cơ quan điều tra và tại phiên tòa đều phù hợp với nhau; phù hợp với lời khai của người bị hại; người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan; người làm chứng; biên bản khám nghiệm, sơ đồ, bản ảnh hiện trường; kết quả đối chất, thực nghiệm điều tra, các bản kết luận giám định, cùng các tài liệu là chứng cứ có tại hồ sơ, đủ cơ sở kết luận:

Khoảng 16 giờ ngày 14/02/2021, tại thôn s, xà s, huyện S, tỉnh Phú Yên. Đặng Tấn Q rủ Y D và Y T đi đánh Lưu Văn C thì bị nhóm của c đánh nên bỏ chạy về làng lấy hung khí quay lại đánh nhóm của C. Y D dùng một khúc cây keo dài khoảng 70cm đánh nhiều cái vào vùng đầu của Lê Anh H5 gây thương tích, tỷ lệ 54%, thấy con bị đánh ông Lê Xuân B vào can ngăn thì bị D tiếp tục dùng cây đánh nhiều cái vào đầu, tay gây thương tích, tỷ lệ 17%. Giữa bị cáo Y D với các bị hại Lê Anh H5, Lê Xuân B không hề mâu thuẫn và bị cáo nhận thức rõ hành vi dùng cây là hung khí nguy hiểm đánh nhiều nhát vào vùng đầu là vùng trọng yếu trên cơ thể của các bị hại, có thể gây nguy hiểm đến tính mạng, việc các bị hại không chết là do được cấp cứu, điều trị kịp thời và nằm ngoài ý thức chủ quan của bị cáo.

Đối với các bị cáo Đặng Tấn Q và Y T, ban đầu thống nhất cùng Y D đi đánh C; nhưng không giới hạn chỉ được đánh C không được đánh người khác hay giới hạn về hậu quả, nên sau khi gặp và xô xát với C, bị nhóm C đuổi đánh chạy về làng. Q cầm cây, D cầm mã tấu, T cầm cây hỗ trợ cho D và Q đánh nhóm của C; như vậy các bị cáo đã thống nhất với nhau về mặt ý chí để cùng thực hiện một tội phạm, nên người thực hành phạm tội gì thì các đồng phạm còn lại, phạm tội đấy.

Đối với các bị cáo Bá Thanh N2 và Y H4 không gặp bị cáo Y T, không được T kêu gọi nhưng khi thấy T bị một nhóm người cầm cây đuổi phía sau, nên N2 và H4 mỗi bị cáo đã cầm 01 khúc cây chạy ra đường bê tông, thấy Lê Quốc T2 đánh Y H7 nên Bá Thanh N2 và Y H4 đã dùng cây đánh nhiều cái vào người Lê Quốc T2 gây thương tích, tỷ lệ 17%. Hành vi của Bá Thanh N2, Y H4 không tiếp nhận ý chí của Y T, nên tính chất phạm tội hoàn toàn độc lập với Y T. Vị trí mà các bị cáo Y H4, Bá Thanh N2 đánh Lê Quốc T2 không phải là vùng trọng yếu trên cơ thể của người bị hại, nhưng phạm tội thuộc trường hợp có tính chất côn đồ dùng hung khí nguy hiểm.

Do đó, bản Cáo trạng số: 01/CT-VKS-P1 ngày 20/12/2022 của Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Phú Yên truy tố các bị cáo Y D, Đặng Tấn Q và Y T về tội “Giết người” theo Điểm a, n Khoản 1 Điều 123 Bộ luật Hình sự; các bị cáo Y H4, Bá Thanh N2 về tội “Cố ý gây thương tích” Điểm đ, Khoản 2 Điều 134 Bộ luật Hình sự là có căn cứ, đúng tội.

[3] Hành vi của các bị cáo nguy hiểm cho xã hội, đã xâm phạm đến tính mạng, sức khỏe của người khác trái pháp luật, gây mất trật tự trị an - an toàn xã hội ở địa phương. Đánh giá vai trò, vị trí, tính chất, mức độ nguy hiểm do hành vi phạm tội của từng bị cáo thực hiện. Hội đồng xét xử phân hóa cụ thể như sau:

[3.1] Bị cáo Y D không được xem là người có nhân thân tốt và trực tiếp gây thương tích cho các bị hại, nên cần xử phạt nghiêm và hình phạt của bị cáo phải cao hơn các bị cáo khác trong vụ án. Tuy nhiên, bị cáo là người dân tộc thiểu số, có học vấn thấp, hoàn cảnh gia đình khó khăn thuộc diện hộ cận nghèo, có ông cố bên ngoại là liệt sỹ; sau khi phạm tội thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải; tác động gia đình nộp bồi thường 2.000.000 đồng để khắc phục một phần thiệt hại và phạm tội thuộc trường hợp chưa đạt, nên xem xét cho bị cáo hưởng các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự tại Điểm b, s Khoản 1, Khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự, đồng thời áp dụng Điều 15; Khoản 3 Điều 57 Bộ luật Hình sự để quyết định hình phạt cho phù hợp.

[3.2] Bị cáo Đặng Tấn Q đã bị xử phạt hành chính về hành vi đánh nhau, nhưng không tích cực sửa chữa lỗi lầm, lại tiếp tục rủ rê, lôi kéo các bị cáo Y D, Y T đi đánh nhau không giới hạn về hậu quả, chứng tỏ bị cao có ý thức bất chấp pháp luật, dẫn đến Y D có hành giết 02 người, nên cần xử phạt nghiêm nhưng hình phạt thấp hơn bị cáo Y D và cao hơn các bị cáo khác trong vụ án. Tuy nhiên, bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải; tác động gia đình nộp bồi thường 10.000.000 đồng để khắc phục một phần thiệt hại và phạm tội thuộc trường hợp chưa đạt, nên xem xét cho bị cáo hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự tại Điểm b, s Khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự, đồng thời áp dụng Điều 15; Khoản 3 Điều 57 Bộ luật Hình sự để quyết định hình phạt cho phù hợp.

[3.3] Bị cáo Y T là người giúp sức để bị cáo Y D thực hiện hành giết 02 người, nên cần xử phạt nghiêm nhưng hình phạt thấp hơn bị cáo Đặng Tấn Q và cao hơn các bị cáo còn lại trong vụ án. Tuy nhiên, bị cáo là người dân tộc thiểu số, có học vấn thấp; sau khi phạm tội thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải; đã nộp bồi thường 4.000.000 đồng để khắc phục một phần thiệt hại; bị cáo phạm tội lần đầu là người giúp sức trong vụ án đồng phạm nhưng có vai trò không đáng kể và thuộc trường hợp chưa đạt, nên xem xét cho bị cáo hưởng các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự tại Điểm b, s Khoản 1, Khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự, đồng thời áp dụng Khoản 2 Điều 54; Điều 15; Khoản 3 Điều 57 Bộ luật Hình sự để quyết định hình phạt; và cho bị cáo thấy được tính khoan hồng của pháp luật mà yên tâm cải tạo.

[3.3] Các bị cáo Y H4 và Bá Thanh N2 tuy không tiếp nhận ý chí của Y T, nhưng khi thấy Y T bị đuổi đánh, vì muốn bênh T nên đã cầm cây chạy đến, thấy Lê Quốc T2 đánh Y H7 nên đã dùng cây đánh T2 gây thương tích, do đó cần xử phạt nghiêm để răn đe, giáo dục các bị cáo. Tuy nhiên, các bị cáo đều là người dân tộc thiểu số, bị cáo Y H4 có anh trai Y H9 mới hoàn thành nghĩa vụ quân sự được tặng giấy khen; sau khi phạm tội các bị cáo đều thành khẩn khai báo; mỗi bị cáo đã bồi thường cho người bị hại 5.000.000 đồng, thể hiện thái độ ăn năn hối cải; mặt khác, các bị cáo tuổi đời còn trẻ, khi phạm tội bị cáo Y H4 mới 17 tuổi 01 tháng 13 ngày, bị cáo Bá Thanh N2 mới 17 tuổi 08 tháng 27 ngày; nên áp dụng Điểm b, s Khoản 1, Khoản 2 Điều 51; Điều 91; Điều 101 Bộ luật Hình sự để quyết định hình phạt với mức án ngang bằng nhau, để cải tạo giáo dục các bị cáo.

[4] Về trách nhiệm bồi thường dân sự: Theo quy định tại Điều 48 Bộ luật Hình sự; và các Điều 585, 586, 587, 590 Bộ luật Dân sự, thì các bị cáo hoặc người đại diện của các bị cáo là người từ đủ 15 tuổi nhưng dưới 18 tuổi phải bồi thường toàn bộ thiệt hại do hành vi phạm tội của các bị cáo gây ra. Trên cơ sở yêu cầu của các bị hại có những khoản không phù hợp hoặc mới yêu cầu tại phiên tòa, nên xem xét chấp nhận như sau:

[4.1] Bị hại Lê Anh H5: - Chi phí cấp cứu, điều trị thương tích, tuy có những khoản không có hóa đơn, chứng từ nhưng là chi phí thực tế: 29.862.316 đồng (có hóa đơn 7.929.148 đồng); Chi phí bồi dưỡng, phục hồi sức khỏe và chức năng bị mất, bị giảm sút (01 năm) = 365 ngày x 300.000 đồng/ngày = 109.500.000 đồng; Thu nhập thực tế bị mất trong thời gian điều trị tại Bệnh viện từ 15/02/2021 đến 15/3/2021 là 30 ngày x 300.000 đồng/ngày = 9.000.000 đồng; T5 công người nuôi trong thời gian điều trị tại Bệnh viện từ 15/02/2021 đến 15/3/2021 là 30 ngày x 300.000 đồng/ngày = 9.000.000 đồng; Tiền tổn thất tinh thần là 50 tháng lương cơ sở x 1.490.000đ = 74.500.000 đồng. Tổng cộng: 231.862.316 đồng. Buộc các bị cáo Y D, Đặng Tấn Q, Y T phải liên đới bồi thường tương ứng với mức độ lỗi của từng bị cáo gây ra, cụ thể: Y Dĩ phải bồi thường 90.000.000 đồng, Đặng Tấn Q phải bồi thường 80.000.000 đồng, Y T phải bồi thường 61.862.316 đồng cho bị hại Lê Anh H5. Bị cáo Y D đã nộp bồi thường 1.000.000 đồng, nên còn tiếp tục bồi thường cho bị hại Lê Anh H5 89.000.000 đồng; bị cáo Đặng Tấn Q đã nộp bồi thường 5.000.000 đồng, nên còn tiếp tục bồi thường cho bị hại Lê Anh H5 75.000.000 đồng; bị cáo Y T đã nộp bồi thường 2.000.000 đồng, nên còn tiếp tục bồi thường cho bị hại Lê Anh H5 59.862.316 đồng.

T6 trả cho bị hại Lê Anh H5 1.000.000 đồng trong số tiền 2.000.000 đồng mà bị cáo Y D đã nộp tại Biên lai số 0002908 ngày 24/02/2023; 5.000.000 đồng trong số tiền 10.000.000 đồng mà bị cáo Đặng Tấn Q đã nộp tại Biên lai số 0002909 ngày 27/02/2023; 2.000.000 đồng trong số tiền 4.000.000 đồng mà bị cáo Y T đã nộp tại Biên lai số 0002907 ngày 23/02/2023 của Cục Thi hành án dân sự tỉnh Phú Yên.

[4.2] Bị hại Lê Xuân B: - Chi phí cấp cứu, điều trị thương tích, tuy có những khoản không có hóa đơn, chứng từ nhưng là chi phí thực tế: 1.676.340 đồng (có hóa đơn 753.594 đồng); Chi phí bồi dưỡng, phục hồi sức khỏe và chức năng bị mất, bị giảm sút (01 tháng) = 30 ngày x 300.000 đồng/ngày = 9.000.000 đồng; Thu nhập thực tế bị mất trong thời gian điều trị tại Bệnh viện từ 15/02/2021 đến 24/02/2021 là 10 ngày x 300.000 đồng/ngày = 3.000.000 đồng; T5 công người nuôi trong thời gian điều trị tại Bệnh viện từ 15/02/2021 đến 24/02/2021 là 1 0 ngày x 300.000 đồng/ngày = 3.000.000 đồng; Tiền tổn thất tinh thần là 3 0 tháng lương cơ sở x 1.490.000đ= 44.700.000 đồng. Tổng cộng: 61.376.340 đồng. Buộc các bị cáo Y D, Đặng Tấn Q, Y T phải liên đới bồi thường tương ứng với mức độ lỗi của từng bị cáo gây ra, cụ thể: Y Dĩ phải bồi thường 25.000.000 đồng, Đặng Tấn Q phải bồi thường 20.000.000 đồng, Y T phải bồi thường 16.376.340 đồng cho bị hại Lê Xuân B. Bị cáo Y D đã nộp bồi thường 1.000.000 đồng, nên còn tiếp tục bồi thường cho bị hại Lê Xuân B 24.000.000 đồng; bị cáo Đặng Tấn Q đã nộp bồi thường 5.000.000 đồng, nên còn tiếp tục bồi thường cho bị hại Lê Xuân B 15.000.000 đồng; bị cáo Y T đã nộp bồi thường 2.000.000 đồng, nên còn tiếp tục bồi thường cho bị hại Lê Xuân B 14.376.340 đồng.

T6 trả cho bị hại Lê Xuân B 1.000.000 đồng trong số tiền 2.000.000 đồng mà bị cáo Y D đã nộp tại Biên lai số 0002908 ngày 24/02/2023; 5.000.000 đồng trong số tiền 10.000.000 đồng mà bị cáo Đặng Tấn Q đã nộp tại Biên lai số 0002909 ngày 27/02/2023; 2.000.000 đồng trong số tiền 4.000.000 đồng mà bị cáo Y T đã nộp tại Biên lai số 0002907 ngày 23/02/2023 của Cục Thi hành án dân sự tỉnh Phú Yên.

[4.3] Bị hại Lê Quốc T2: - Chi phí cấp cứu, điều trị thương tích, tuy có những khoản không có hóa đơn, chứng từ nhưng là chi phí thực tế: 2.958.920 đồng (có hóa đơn 1.674.803 đồng); Chi phí bồi dưỡng, phục hồi sức khỏe và chức năng bị mất, bị giảm sút 10 ngày x 300.000 đồng/ngày = 3.000.000 đồng; Thu nhập thực tế bị mất trong thời gian điều trị tại Bệnh viện từ 15/02/2021 đến 18/02/2021, 04 ngày và 28 ngày đăng bột không lao động được là 32 ngày x 300.000 đồng/ngày = 9.600.000 đồng; T5 công người nuôi trong thời gian điều trị tại Bệnh viện từ 15/02/2021 đến 18/02/2021 là 04 ngày x 300.000 đồng/ngày = 1.200.000 đồng; Tiền tổn thất tinh thần là 20 tháng lương cơ sở x 1.490.000đ = 29.800.000 đồng. Tổng cộng: 46.558.920 đồng. Buộc các bị cáo Y H4 và Bá Thanh N2 phải liên đới bồi thường theo phần bằng nhau, cụ thể mỗi bị cáo phải bồi thường 23.279.460 đồng cho bị hại Lê Quốc T2. Các bị cáo Y H4 và Bá Thanh N2 mỗi bị cáo đã nộp bồi thường cho bị hại Lê Quốc T2 5.000.000 đồng, nên môi bị cáo còn phải bồi thường cho bị hại Lê Quốc T2 18.279.460 đồng.

Các bị cáo Y H4 và Bá Thanh N2 là người từ đủ mười lăm tuổi nhưng chưa đủ mười tám tuổi gây thiệt hại thì phải bồi thường bằng tài sản của mình; nếu các bị cáo không đủ tài sản để bồi thường thì ông Y N1, bà Hờ H1 là cha, mẹ bị cáo Y H4; ông Bá Thanh H2, bà Ra Lan H10 Nghẹ là cha, mẹ bị cáo Bá Thanh N2 phải bồi thường phần còn thiếu bằng tài sản của mình.

T6 trả cho bị hại Lê Quốc T2 10.000.000 đồng mà các bị cáo Bá Thanh N2, Y H4 đã nộp tại các Biên lai số 0000238, 0000239 ngày 13/02/2023 của Cục Thi hành án dân sự tỉnh Phú Yên.

[5] Về xử lý vật chứng: 01 (Một) khúc cây gỗ dài 70cm, có cạnh (3x5)cm, trên thân khúc gỗ có đóng nhiều cây đinh bằng kim loại; 01 (Một) dao tự chế dài 68cm, lưỡi dao bằng kim loại dài 48 cm, rộng 04cm, cán bằng gỗ. Các vật chứng nêu trên, có vật chứng không có giá trị, có vật chứng không còn sử dụng được, nên chấp nhận ý kiến của Kiểm sát viên, tuyên tịch thu tiêu hủy theo Điều 47 Bộ luật Hình sự; Điểm c, Khoản 2 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự.

Vật chứng có đặc điểm mô tả như Biên bản giao nhận vật chứng ngày 22/12/2022 giữa cơ quan Cảnh sát điều tra Công an tỉnh P với Cục Thi hành án dân sự tỉnh Phú Yên.

[6] Về án phí: Các bị cáo Y D, Đặng Tấn Q, Y T, Y H4, Bá Thanh N2 bị kết án, mỗi bị cáo phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm; và bị cáo Y D còn phải bồi thường thiệt hại 113.000.000 đồng x 5%, nên phải chịu 5.650.000 đồng án phí dân sự sơ thẩm, bị cáo Đặng Tấn Q còn phải bồi thường thiệt hại 90.000.000 đồng x 5%, nên phải chịu 4.500.000 đồng án phí dân sự sơ thẩm, bị cáo Y T còn phải bồi thường thiệt hại 74.238.656 đồng x 5%, nên phải chịu 3.711.933 đồng án phí dân sự sơ thẩm, các bị cáo Y H4, Bá Thanh N2 mỗi bị cáo còn phải bồi thường thiệt hại 18.279.460 đồng x 5%, nên mỗi bị cáo phải chịu 913.973 đồng án phí dân sự sơ thẩm theo Khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự; các Điều 23; 26 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

[7] Võ Đoàn Phúc H6 đồng ý cùng đi đánh Lưu Văn C giúp Q nhưng được can ngăn và đi về nhà không tham gia đánh nhau, không giúp sức cho Q, D đánh nhóm của C nên hành vi của H6 không cấu thành tội phạm.

[8] Y H7, Y T4, La O N4 có hành vi cầm cây can ngăn nhóm thanh niên rượt theo Y T, nhưng không hỗ trợ Y H4 và Bá Thanh N2 đánh Lê Quốc T2 nên hành vi của Y H7, Y T4 và La O N4 không cấu thành tội phạm.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Tuyên bố: Các bị cáo Y D, Đặng Tấn Q và Y T phạm tội “Giết người”; các bị cáo Y H4 và Bá Thanh N2 phạm tội “Cố ý gây thương tích”.

1. Về Hình phạt:

+ Áp dụng Điểm a, n Khoản 1 Điều 123; Điểm b, s Khoản 1 Điều 51; Điều 15; Khoản 3 Điều 57 Bộ luật Hình sự đối với các bị cáo; thêm Khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự đối với các bị cáo Y D, Y T; Điều 54 Bộ luật Hình sự đối với bị cáo Y T; phạt:

1.1. Bị cáo Y D 14 (Mười bốn) năm tù. Thời hạn tù tính từ ngày bắt tạm giam, ngày 01/6/2022.

1.2. Bị cáo Đặng Tấn Q 13 (Mười ba) năm tù. Thời hạn tù tính từ ngày bắt tạm giam, ngày 22/11/2022.

1.3. Bị cáo Y T 07 (B1) năm tù. Thời hạn tù tính từ ngày bắt thi hành án.

+ Áp dụng Điểm đ, Khoản 2 Điều 134; Điểm b, s Khoản 1, Khoản 2 Điều 51; các Điều 91; 101 Bộ luật Hình sự đối với các bị cáo; phạt:

1.4. Bị cáo Y H4 02 (Hai) năm tù. Thời hạn tù tính từ ngày bắt thi hành án.

1.5. Bị cáo Bá Thanh N2 02 (Hai) năm tù. Thời hạn tù tính từ ngày bắt thi hành án.

2. Về trách nhiệm bồi thường dân sự: Áp dụng Điều 48 Bộ luật Hình sự; các Điều 585, 586, 587, 590 Bộ luật Dân sự;

2.1. Buộc các bị cáo Y D, Đặng Tấn Q và Y T phải liên đới bồi thường thiệt hại về sức khỏe bị xâm phạm cho bị hại Lê Anh H5 số tiền 232.862.316đ (Hai trăm ba mươi hai triệu tám trăm sáu mươi hai nghìn ba trăm mười sáu đồng), cụ thể: Y D phải bồi thường 90.000.000đ (Chín mươi triệu đồng), Đặng Tấn Q phải bồi thường 80.000.000đ (Tám mươi triệu đồng), Y T phải bồi thường 61.862.316đ (Sáu mươi mốt triệu tám trăm sáu mươi hai nghìn ba trăm mười sáu đồng) cho bị hại Lê Anh H5. Bị cáo Y D đã nộp bồi thường 1.000.000đ (Một triệu đồng), nên còn tiếp tục bồi thường cho bị hại Lê Anh H5 89.000.000đ (Tám mươi chín triệu đồng); bị cáo Đặng Tấn Q đã nộp bồi thường 5.000.000đ (Năm triệu đồng), nên còn tiếp tục bồi thường cho bị hại Lê Anh H5 75.000.000đ (Bảy mươi lăm triệu đồng); bị cáo Y T đã nộp bồi thường 2.000.000 đồng, nên còn tiếp tục bồi thường cho bị hại Lê Anh H5 59.862.316đ (Năm mươi chín triệu tám trăm sáu mươi hai nghìn ba trăm mười sáu đồng).

T6 trả cho bị hại Lê Anh H5 1.000.000đ (Mộ t triệu đồng) trong số tiền 2.000.000đ (Hai triệu đồng) mà bị cáo Y D đã nộp tại Biên lai số 0002908 ngày 24/02/2023; 5.000.000đ (Năm triệu đồng) trong số tiền 10.000.000d (Mười triệu đồng) mà bị cáo Đặng Tấn Q đã nộp tại Biên lai số 0002909 ngày 27/02/2023; 2.000.000đ (Hai triệu đồng) trong số tiền 4.000.000đ (Bốn triệu đồng) mà bị cáo Y T đã nộp tại Biên lai số 0002907 ngày 23/02/2023 của Cục Thi hành án dân sự tỉnh Phú Yên.

2.2. Buộc các bị cáo Y D, Đặng Tấn Q và Y T phải liên đới bồi thường thiệt hại về sức khỏe bị xâm phạm cho bị hại Lê Xuân B số tiền 61.376.340đ (Sáu mươi mốt triệu ba trăm bảy mươi sáu nghìn ba trăm bốn mươi đồng), cụ thể: Y D phải bồi thường 25.000.000đ (Hai mươi lăm triệu đồng), Đặng Tấn Q phải bồi thường 20.000.000đ (Hai mươi triệu đồng), Y T phải bồi thường 16.376.340đ (Mười sáu triệu ba trăm bảy mươi sáu nghìn ba trăm bốn mươi đồng) cho bị hại Lê Xuân B. Bị cáo Y D đã nộp bồi thường 1.000.000đ (Một triệu đồng), nên còn tiếp tục bồi thường cho bị hại Lê Xuân B 24.000.000đ (Hai mươi bốn triệu đồng); bị cáo Đặng Tấn Q đã nộp bồi thường 5.000.000đ (Năm triệu đồng), nên còn tiếp tục bồi thường cho bị hại Lê Xuân B 15.000.000đ (Mươi lăm triệu đồng); bị cáo Y T đã nộp bồi thường 2.000.000đ (Hai triệu đồng), nên còn tiếp tục bồi thường cho bị hại Lê Xuân B 14.376.340đ (Mười bốn triệu ba trăm bảy mươi sáu nghìn ba trăm bốn mươi đồng).

T6 trả cho bị hại Lê Xuân B 1.000.000đ (Mộ t triệu đồng) trong số tiền 2.000.000đ (Hai triệu đồng) mà bị cáo Y D đã nộp tại Biên lai số 0002908 ngày 24/02/2023; 5.000.000đ (Năm triệu đồng) trong số tiền 10.000.000d (Mười triệu đồng) mà bị cáo Đặng Tấn Q đã nộp tại Biên lai số 0002909 ngày 27/02/2023; 2.000.000đ (Hai triệu đồng) trong số tiền 4.000.000đ (Bốn triệu đồng) mà bị cáo Y T đã nộp tại Biên lai số 0002907 ngày 23/02/2023 của Cục Thi hành án dân sự tỉnh Phú Yên.

2.3. Buộc các bị cáo Y H4 và Bá Thanh N2 phải liên đới bồi thường thiệt hại về sức khỏe bị xâm phạm cho bị hại Lê Quốc T2 số tiền 46.558.920đ (Bốn mươi sáu triệu năm trăm năm mươi tám nghìn chín trăm hai mươi đồng), cụ thể mỗi bị cáo phải bồi thường 23.279.460d (Hai mươi ba triệu hai trăm bảy mươi chín nghìn bốn trăm sáu mươi đồng) cho bị hại Lê Quốc T2. Các bị cáo Y H4 và Bá Thanh N2 mỗi bị cáo đã nộp bồi thường cho bị hại Lê Quốc T2 5.000.000đ (Năm triệu đồng), nên mỗi bị cáo còn phải bồi thường cho bị hại Lê Quốc T2 18.279.460đ (Mươi tám triệu hai trăm bảy mươi chín nghìn bốn trăm sáu mươi đồng).

Các bị cáo Y H4 và Bá Thanh N2 là người từ đủ mười lăm tuổi nhưng chưa đủ mười tám tuổi gây thiệt hại thì phải bồi thường bằng tài sản của mình; nếu các bị cáo không đủ tài sản để bồi thường thì ông Y N1, bà Hờ H1 là cha, mẹ bị cao Y H4; ông Bá Thanh H2, bà Ra Lan H10 Nghẹ là cha, mẹ bị cáo Bá Thanh N2 phải bồi thường phần còn thiếu bằng tài sản của mình.

T6 trả cho bị hại Lê Quốc T2 10.000.000d (Mười triệu đồng) mà các bị cáo Bá Thanh N2, Y H4 đã nộp tại các Biên lai số 0000238, 0000239 ngày 13/02/2023 của Cục Thi hành án dân sự tỉnh Phú Yên.

Kể từ ngày có đơn yêu cầu thi hành án của người được thi hành án (Đối với các khoản tiền phải trả cho người được thi hành án) cho đến khi thi hành án xong tất cả các khoản tiền, hàng tháng bên phải thi hành án còn phải chịu khoản tiền lãi của số tiền còn phải thi hành án theo mức lãi suất quy định tại Khoản 2 Điều 357 Bộ luật Dân sự.

Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

3. Về xử lý vật chứng: Áp dụng Điều 47 Bộ luật Hình sự; Điểm c, Khoản 2 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự;

Tuyên tịch thu tiêu hủy: 01 (Một) khúc cây gỗ dài 70cm, có cạnh (3x5)cm, trên thân khúc gỗ có đóng nhiều cây đinh bằng kim loại; 01 (Một) dao tự chế dài 68cm, lười dao bằng kim loại dài 48 cm, rộng 04cm, cán bằng gỗ.

Vật chứng có đặc điểm mô tả như Biên bản giao nhận vật chứng ngày 22/12/2022 giữa cơ quan Cảnh sát điều tra Công an tỉnh P với Cục Thi hành án dân sự tỉnh Phú Yên.

4. Về án phí: Áp dụng Khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự; các Điều 23; 26 Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án;

4.1. Về án phí Hình sự sơ thẩm: Các bị cáo Y D, Đặng Tấn Q, Y T, Y H4, Bá Thanh N2 mỗi bị cáo phải chịu 200.000đ (Hai trăm nghìn đồng).

4.2. Về án phí dân sự sơ thẩm: Bị cáo Y D phải chịu 5.650.000đ (Năm triệu sáu trăm năm mươi nghìn đồng); bị cáo Đặng Tấn Q phải chịu 4.500.000đ (Bốn triệu năm trăm nghìn đồng); bị cáo Y T phải chịu 3.711.933đ (Ba triệu bảy trăm mười một nghìn chín trăm ba mươi ba đồng); các bị cáo Y H4, Bá Thanh N2 mỗi bị cáo phải chịu 913.973đ (Chín trăm mười ba nghìn chín trăm bảy mươi ba đồng).

Báo cho các bị cáo, các bị hại, đại diện hợp pháp và người bào chữa của các bị cáo chưa đủ 18 tuổi khi phạm tội được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án sơ thẩm.

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan vắng mặt được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc niêm yết bản án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

9
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội giết người số 07/2023/HS-ST

Số hiệu:07/2023/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Phú Yên
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 01/03/2023
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về