Bản án về tội giết người số 04/2020/HS-PT

TÒA ÁN NHÂN DÂN CẤP CAO TẠI HÀ NỘI

BẢN ÁN 04/2020/HS-PT NGÀY 13/01/2020 VỀ TỘI GIẾT NGƯỜI

Ngày 13 tháng 01 năm 2020, tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh C, Tòa án nhân dân cấp cao tại Hà Nội mở phiên tòa xét xử phúc thẩm vụ án hình sự thụ lý số 804/2019/TLPT-HS ngày 09 tháng 10 năm 2019 đối với bị cáo H phạm tội “Giết người” do có kháng cáo của bị cáo đối với Bản án hình sự sơ thẩm số 25/2019/HSST ngày 30/8/2019 của Tòa án nhân dân tỉnh C.

* Bị cáo có kháng cáo: H, sinh năm 1986; nơi ĐKHKTT và chỗ ở trước khi bị bắt: Bản G, xã M, huyện M, tỉnh C; nghề nghiệp: Tự do; trình độ học vấn: 12/12; Dân tộc: Thái; con ông H1 (đã chết) và bà K; vợ, con: Chưa có; tiền án, tiền sự: Không; bị cáo bị tạm giữ từ ngày 15/9/2018, tạm giam từ ngày 24/9/2018, hiện đang tạm giam tại Trại tạm giam Công an tỉnh C (Có mặt).

* Người bào chữa cho bị cáo: Ông K2 - Luật sư Vàn phòng Luật sư Việt Bắc thuộc Đoàn Luật sư tỉnh C (Có mặt).

* Người bị hại: Chị L, sinh năm 1985; nơi cư trú: Bản Bó, xã M, huyện M, tỉnh C (Có mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Tháng 4 năm 2018, H và L làm lễ ăn hỏi theo phong tục tập quán của người Thái và chung sống với nhau như vợ chồng nhưng chưa đăng ký kết hôn. Từ tháng 8 năm 2018, H và L nảy sinh mâu thuẫn, thường xuyên cãi nhau nên H không ở chung với L nữa và đi làm thuê tại xã Z, huyện M. Quá trình đi làm thuê, H có gọi điện, nhắn tin cho L nhưng L không trả lời.

Ngày 14/9/2018, em gái của H đi lấy chồng, gia đình H có mời L đến ăn cơm nhưng L không đến. Khoảng 17 giờ 00 phút cùng ngày, V là bạn của H lấy xe máy của H chở H đi chơi. Khi đi đến đầu bản G, hướng lên xã Pa Ủ, H nhìn thấy L đi xe máy ngược chiều với H và V. H bảo V quay xe lại đuổi theo L. Khi thấy L dừng xe, mua đồ ở quán ven đường, H bảo V lái xe vượt qua. Khi đi đến nhà chị I ở bản G, H bảo V dừng xe đợi, một mình H đi vào nhà I, hỏi mượn con dao nhọn một tý. I đưa cho H 01 con dao dài khoảng 40cm, cán gỗ dài khoảng 10cm, phần lưỡi dao bằng kim loại dài khoảng 30cm, chỗ rộng nhất của lưỡi dao khoảng 03- 04 cm, chỗ dày nhất khoảng 0,4cm, lưỡi dao nhọn. I hỏi mượn dao làm gì thì H bảo mượn để sửa xe. H cầm dao ra để ở giá để đồ trên xe máy. V hỏi H mượn dao để làm gì, H nói để đi chặt cây chuối, rồi bảo V quay xe để đi về phía L thì thấy L điều khiển xe máy đi qua. H bảo V ngồi phía sau, còn H cầm lái quay đầu xe đuổi theo xe của L. Khi đến khu ruộng thuộc bản G, H điều khiển xe ép xe của L vào lề đường và dừng lại. H gạt chân chống xe xuống, dùng tay phải cầm con dao đi vòng ra phía sau xe của L nói: L ơi, tao sẽ giết mày, rồi vung dao lên chém thẳng vào phía sau vùng đầu của L nhưng do L đội mũ bảo hiểm nên chỉ trúng vào mũ. Sau đó, H lại dùng dao đâm vào vùng lưng phía trên thắt lưng bên phải của L, làm xuyên từ sau ra trước, rồi rút dao ra chém tiếp 01 phát vào vùng vai bên phải của L thì L nổ máy điều khiển xe bỏ chạy. H đuổi theo chém tiếp nhiều nhát về phía L, trong đó 04 phát vào lưng, 01 phát vào mép vai trái phía sau; 01 phát vào bắp tay trái phía sau. Đuổi theo L để chém được khoảng 30m thì H quay lại chỗ V đang ngồi trên xe máy nói: V ơi, tao giết người rồi, lúc này H nghĩ chắc L sẽ chết nên hỏi mượn bật lửa của V, mở cốp xe lấy toàn bộ giấy tờ của H và L rồi dùng dao chặt vụn ra và châm lửa đốt xe máy của H. Sau đó, H cầm dao đi về nhà, khi về đến nền nhà cũ của ông Khải ở cùng bản, H vứt con dao ở đó rồi về nhà nói với mẹ đẻ là bà K: Con đã dùng dao chém L, con xin lỗi mẹ rồi bỏ vào rừng. Đến ngày 15/9/2018, H đến Ủy ban nhân dân xã M đầu thú.

Đối với chị L, sau khi bị H dùng dao đâm, chém đã nổ máy điều khiển xe đi đến nhà ông U cách chỗ bị H đâm, chém khoảng 50m và được anh U đưa đi cấp cứu tại Trạm xá xã M.

Tại Cơ quan điều tra và tại phiên tòa, bị cáo H đã thừa nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình như đã nêu trên.

Tại bản Kết luận giám định pháp y về thương tích số 60/BKL -TTPY ngày 18/9/2018 của Trung tâm pháp y thuộc Sở y tế tỉnh C kết luận: Tỷ lệ tổn thương cơ thể của L hiện tại là 60%.

Tại Bản án hình sự sơ thẩm số 25/2019/HSST ngày 30/8/2019 của Tòa án nhân dân tỉnh C quyết định: Căn cứ điểm n khoản 1 Điều 123; Điều 47, Điều 48;

điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; khoản 3 Điều 57 Bộ luật hình sự; xử phạt bị cáo H 12 (Mười hai) năm tù về tội “Giết người”. Thời hạn tù tính từ ngày 15/9/2018.

Ngoài ra Tòa án cấp sơ thẩm còn quyết định về xử lý vật chứng, trách nhiệm dân sự, án phí và thông báo quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.

Ngày 09/9/2019, bị cáo H làm đơn kháng cáo xin giảm hình phạt. Tại phiên tòa phúc thẩm, bị cáo cho rằng bị cáo chỉ phạm tội cố ý gây thương tích, mức hình phạt quá nặng do chị L không chết nên bị cáo xin giảm nhẹ.

Ngày 25/9/2019, người bị hại là chị L có đơn đề nghị giữ nguyên hình phạt đối với bị cáo. Tại phiên tòa phúc thẩm, chị L trình bày đồng ý với quyết định của Bản án sơ thẩm nhưng do biết bị cáo kháng cáo nên chị viết đơn đề nghị giữ nguyên Bản án sơ thẩm.

Đại diện Viện kiểm sát cấp cao tại Hà Nội có quan điểm không có căn cứ để chấp nhận kháng cáo của bị cáo, đề nghị giữ nguyên quyết định của bản án sơ thẩm.

Luật sư bào chữa cho bị cáo trình bày nội dung cho rằng bị cáo là người dân tộc thiểu số, nhận thức pháp luật hạn chế nên đề nghị áp dụng Điều 54 Bộ luật hình sự để xem xét giảm nhẹ cho bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về tố tụng: Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng ở cấp sơ thẩm đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự.

Tại phiên tòa phúc thẩm, bị cáo giữ nguyên kháng cáo. Người bị hại là chị L trình bày khi biết bị cáo kháng cáo, chị đã viết đơn gửi cấp phúc thẩm, chị L khẳng định nhất trí như nội dung Bản án sơ thẩm đã tuyên. Như vậy, đơn của người bị hại viết sau khi hết hạn kháng cáo, nội dung đồng ý với quyết định bản án đã tuyên nên không coi là kháng cáo đối với Bản án sơ thẩm.

[2] Xét kháng cáo của bị cáo:

Tại phiên tòa lời khai của bị cáo phù hợp với lời khai bị hại, những người làm chứng, phù hợp với bản Thực nghiệm điều tra, Kết luận giám định thương tích và phù hợp các tài liệu, chứng cứ khác có tại hồ sơ vụ án đã được thẩm tra. Vì vậy có đủ cơ sở xác định: Khoảng 17 giờ 00 phút ngày 14/9/2018, H đã dùng dao nhọn đâm vào bụng, chém vào đầu và nhiều nhát vào lưng, vai, tay cùa chị L. Hậu quả làm chị L bị tổn thương cơ thề 60%.

Xuất phát từ mâu thuẫn nhỏ nhặt trong cuộc sống mà bị cáo chủ động gây sự, dùng dao cố ý tước đoạt sinh mạng của người phụ nữ từng chung sống thể hiện sự hung hãn, coi thường pháp luật. Bị cáo trình bày do người bị hại không chết nên bị cáo chỉ phạm tội cố ý gây thương tích, tuy nhiên bị cáo nhận thức được hành vi dùng hung khí đâm vào bụng, chém vào đầu và nhiều nhát vào lưng, vai, tay của chị L là nguy hiểm đến tính mạng nhưng vẫn cố ý thực hiện. Ngoài việc thực hiện hành vi tấn công nói trên, bị cáo còn thể hiện ý chí tước đoạt tính mạng của chị L thông qua lời nói: “L ơi, tao sẽ giết mày”. Sau khi bị cáo vung dao nhọn để tấn công, chị L bỏ chạy bị cáo vẫn tiếp tục đuổi theo chém liên tục nhiều nhát vào nơi trọng yếu trên cơ thể người bị hại; việc chị L không bị tử vong là ngoài mong muốn của bị cáo nên Tòa án sơ thẩm xét xử bị cáo về tội ‘'Giết người” theo điểm n khoản 1 Điều 123 Bộ luật hình sự là đúng.

Cấp sơ thẩm đã đánh giá tính chất, mức độ, hậu quả hành vi phạm tội, áp dụng quy định về phạm tội chưa đạt đối với bị cáo theo khoản 3 Điều 57 Bộ luật hình sự và áp dụng đầy đủ các tình tiết giảm nhẹ đối với bị cáo nên mức hình phạt đã tuyên không nặng, kháng cáo của bị cáo không có cơ sở, cần giữ nguyên quyết định của bản án sơ thẩm.

[3] Về án phí: Do kháng cáo không được chấp nhận nên bị cáo phải chịu án phí hình sự phúc thẩm theo quy định.

Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật, Hội đồng xét xử không xem xét.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ điểm a, điểm đ khoản 1 Điều 355, Điều 356 Bộ luật Tố tụng hình sự; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 của Quốc Hội ngày 30/12/2016.

1. Không chấp nhận kháng cáo của bị cáo, giữ nguyên Bản án hình sự sơ thẩm số 25/2019/HSST ngày 30/8/2019 của Tòa án nhân dân tỉnh C.

Căn cứ điểm n khoản 1 Điều 123. Điều 47, Điều 48, điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51, khoản 3 Điều 57 Bộ luật hình sự; xử phạt bị cáo H 12 (Mười hai) năm tù về tội “Giết người”. Thời hạn tù tính từ ngày 15/9/2018.

2. Về án phí: Bị cáo phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự phúc thẩm.

3. Các quyết định khác của bản án sơ thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

Bản án hình sự phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

392
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội giết người số 04/2020/HS-PT

Số hiệu:04/2020/HS-PT
Cấp xét xử:Phúc thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân cấp cao
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 13/01/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về