Bản án về tội giết người số 03/2024/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ CẦN THƠ

BẢN ÁN 03/2024/HS-ST NGÀY 17/01/2024 VỀ TỘI GIẾT NGƯỜI

Ngày 17 tháng 01 năm 2024, tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Cần Thơ xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 47/2023/TLST-HS ngày 17 tháng 11 năm 2023 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 02/2024/QĐXXST-HS ngày 04 tháng 01 năm 2024 đối với bị cáo:

Họ và tên: Nguyễn Văn U, sinh năm 1979 tại Cần Thơ. Nơi cư trú: khu vực X, phường H, quận Cái Răng, thành phố Cần Thơ; giới tính: nam; quốc tịch: Việt Nam; dân tộc: Kinh; tôn giáo: không; trình độ học vấn: không biết chữ; nghề nghiệp: không; con ông Nguyễn Văn K (chết) và bà Nguyễn Thị B (chết); bị cáo chưa có vợ, con. Tiền sự: không.

Tiền án: 01. Ngày 19/9/1996, bị Tòa án nhân dân thành phố Cần Thơ, tỉnh Cần Thơ (cũ) xử phạt 03 tháng 09 ngày tù theo Bản án số 160/HSST ngày 19/9/1996 về tội “Trộm cắp tài sản công dân”, được Hội đồng xét xử trả tự do tại phiên tòa do thời hạn tạm giam bằng thời hạn phạt tù, bị cáo chưa nộp án phí.

Nhân thân:

- Ngày 23/12/1996, bị Công an thành phố Cần Thơ, tỉnh Cần Thơ (cũ) bắt về hành vi “Cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác”, được trả tự do theo yêu cầu miễn truy cứu trách nhiệm hình sự của bị hại.

- Ngày 17/9/1998, bị áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào Cơ sở giáo dục với thời hạn 24 tháng theo Quyết định số 2409/QĐ – UBND của Chủ tịch Ủy ban nhân dân tỉnh Cần Thơ, chấp hành xong ngày 30/9/2000.

Bị cáo bị bắt, tạm giữ, tạm giam từ ngày 17/6/2023 cho đến nay và có mặt tại phiên tòa.

* Người bào chữa cho bị cáo: Luật sư Nguyễn Ngọc D – Công ty Luật TNHH MTV Miền Tây, Đoàn Luật sư thành phố Cần Thơ (Có mặt).

* Người bị hại: Ông Phạm Minh Đ (chết);

Người đại diện hợp pháp của bị hại: Bà Phạm Thị Ngọc B, sinh năm 1971. Địa chỉ: khu vực X, phường H, quận Cái Răng, thành phố Cần Thơ (Có mặt).

* Người làm chứng:

- Ông Đàm Nguyễn T, sinh năm 1990;

Địa chỉ: khu vực X, phường H, quận Cái Răng, thành phố Cần Thơ (Có mặt).

- Ông Lê Trường L, sinh năm 1993;

Địa chỉ: khu vực X, phường H, quận Cái Răng, thành phố Cần Thơ (Có mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Nguyễn Văn U, Phạm Minh Đ và Phạm Thị Ngọc B có mối quan hệ anh, em cùng mẹ khác cha, cùng cư ngụ tại khu vực X, phường H, quận Cái Răng, thành phố Cần Thơ.

Vào khoảng 18 giờ ngày 16 tháng 6 năm 2023, Nguyễn Văn U uống rượu, bia cùng với Trần Văn B và Đàm K tại khu vực bờ kè thuộc khu vực X, phường H, quận Cái Răng, thành phố Cần Thơ. Đến khoảng 21 giờ thì nghỉ, U đi về nhà. Khi về đến nhà, Phạm Thị Ngọc B thấy U thường xuyên uống rượu nên có lời qua tiếng lại dẫn đến cự cãi, lớn tiếng với nhau. Lúc này, Phạm Minh Đ đi công việc về nhà thấy sự việc nên cũng lớn tiếng, cự cãi với U rồi bỏ đi ra phía trước nhà, U đi theo tìm để đánh nhau với Đ nhưng không gặp nên vào nhà lấy bia ra khu vực bờ kè ngồi uống một mình, được một lúc rồi đi vào nhà lên võng nằm ngủ. Sau đó, U thức dậy thấy Đ đang nằm ngủ trên võng tại sân phía trước nhà, do bực tức từ việc cự cãi trước đó nên U nảy sinh ý định dùng dao đâm Đ để trả thù. U đi ra phía sau nhà bếp lấy con dao cán bằng nhựa màu vàng, lưỡi bằng kim loại, sắc nhọn, chiều dài 21cm (loại dao Thái Lan) trên kệ để chén, đi đến vị trí nơi Đ đang nằm ngủ, U đứng trước đầu võng, phía bên trên đầu của Đ nằm đâm một nhát vào ngực trái Đ, sau đó U bỏ con dao tại hiện trường và đi đến nói cho B và Đàm Nguyễn T (cháu của U ở gần nhà) biết việc U đã dùng dao đâm Đ. Đồng thời, U đến Công an phường Hưng Phú, quận Cái Răng, thành phố Cần Thơ đầu thú.

Phạm Minh Đ được Đàm Nguyễn T và Lê Trường L đưa đến bệnh viện Đa khoa thành phố Cần Thơ để cấp cứu, nhưng đã tử vong vào lúc 00 giờ 30 phút ngày 17/6/2023.

Vật chứng thu giữ:

- 01 (một) con dao cán nhựa màu vàng, lưỡi dao bằng kim loại mũi nhọn, dài 21 cm;

- 01 (một) chiếc áo thun ngắn tay, cổ tròn, nền trắng sọc đen kẻ ngang;

- 01 (một) chiếc quần sọt nam vải kaki màu đen;

- 01 (một) quần lửng màu vàng;

- 01 (một) chiếc áo thun nam, ngắn tay màu xám;

- 01 (một) võng bằng vải màu xám.

Tại Bản kết luận giám định tử thi số 89/KLGĐTT-PC09 ngày 25/7/2023 của Phòng Kỹ thuật Hình sự Công an thành phố Cần Thơ kết luận: nạn nhân Phạm Minh Đ, sinh năm 1965, tử vong do suy hô hấp cấp, sau vết thương đứt thủng phổi, trên cơ địa viêm lao phổi và viêm khe thận mạn.

Tại Kết luận giám định số 21/KLGĐ-KTHS-SV ngày 19/7/2023 của Phòng Kỹ thuật Hình sự Công an thành phố Cần Thơ kết luận:

- Máu ghi thu của Phạm Minh Đ thuộc nhóm máu O; Máu ghi thu của Nguyễn Văn U thuộc nhóm máu B.

- Trên quần, áo ghi thu của nạn nhân Phạm Minh Đ, vết nghi máu ghi thu tại vị trí số 1, 2 hiện trường, cây dao thu tại vị trí số 3 hiện trường, chiếc võng ghi thu tại vị trí số 1 hiện trường đều có máu người và thuộc nhóm máu O, trùng với nhóm máu nạn nhân Phạm Minh Đ.

Tại Kết luận giám định pháp y tâm thần theo trưng cầu số 374/2023/KLGĐ ngày 27/9/2023 của Trung tâm Pháp y tâm thần khu vực Tây Nam Bộ kết luận đối với Nguyễn Văn U:

- Về y học: Trước, trong, sau khi thực hiện hành vi phạm tội và hiện tại: Rối loạn nhân cách, hành vi do sử dụng rượu (F10.71-ICD10).

- Về khả năng nhận thức và điều khiển hành vi: Tại thời điểm thực hiện hành vi phạm tội và hiện tại: Đương sự hạn chế khả năng nhận thức và điều khiển hành vi.

Về trách nhiệm dân sự: Bà Phạm Thị Ngọc B là chị cùng mẹ khác cha, đại diện cho nạn nhân Phạm Minh Đ có làm đơn không yêu cầu bồi thường thiệt hại và xin giảm nhẹ hình phạt đối với Nguyễn Văn U.

Tại Cáo trạng số 42/CT-VKS-P2 ngày 15/11/2023 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Cần Thơ đã truy tố bị cáo Nguyễn Văn U về tội “Giết người” theo điểm n khoản 1 Điều 123 Bộ luật hình sự.

Tại phiên toà sơ thẩm hôm nay:

Đại diện Viện kiểm sát giữ quyền công tố luận tội và tranh luận: Giữ nguyên nội dung cáo trạng truy tố về tội danh và điều khoản áp dụng đối với bị cáo. Sau khi phân tích tính chất, mức độ phạm tội, nhân thân, các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, Kiểm sát viên đề nghị tuyên bố: bị cáo Nguyễn Văn U phạm tội “Giết người”. Đồng thời đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng điểm n khoản 1 Điều 123; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; điểm h khoản 1 Điều 52 và Điều 38 Bộ luật hình sự xử phạt Nguyễn Văn U mức án từ 14 đến 15 năm tù.

Về trách nhiệm dân sự: do gia đình bị hại không yêu cầu nên không đặt ra xem xét.

Về xử lý vật chứng: đề nghị tịch thu tiêu hủy cây dao cán nhựa màu vàng, lưỡi dao bằng kim loại, mũi nhọn, dài 21cm do là công cụ dùng vào việc phạm tội và áo, quần, võng của bị cáo và bị hại do không có/không còn giá trị sử dụng.

Đại diện gia đình bị hại có ý kiến: Đại diện gia đình người bị hại yêu cầu Hội đồng xét xử xét xử bị cáo theo pháp luật. Về trách nhiệm dân sự, không yêu cầu bị cáo bồi thường.

Người bào chữa cho bị cáo U trình bày: Luật sư thống nhất với tội danh và khung hình phạt, các tình tiết tăng nặng và tình tiết giảm nhẹ mà Viện kiểm sát nhân dân thành phố Cần Thơ đề nghị. Tuy nhiên Luật sư đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng thêm tình tiết như bị cáo bị hạn chế năng lực hành vi, bị cáo đầu thú và đại diện người bị hại không yêu cầu bồi thường thiệt hại được quy định tại điểm q khoản 1 và khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự để giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

Bị cáo U trình bày: Bị cáo thừa nhận hành vi phạm tội, ăn năn hối hận về hành vi đã thực hiện, bị cáo xin Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt để sớm trở về đoàn tụ gia đình.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an thành phố Cần Thơ, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân thành phố Cần Thơ, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo, Luật sư bào chữa cho bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Tại phiên tòa, bị cáo thừa nhận hành vi phạm tội như nội dung cáo trạng đã truy tố. Lời khai của bị cáo phù hợp với chứng cứ, tài liệu có trong hồ sơ vụ án. Hội đồng xét xử có đủ căn cứ để xác định:

Ngày 16/6/2023, sau khi ngủ dậy và thấy bị hại đang nằm ngủ trên võng tại sân phía trước nhà, bực tức vì chuyện cự cãi trước đó nên bị cáo nảy sinh ý định dùng dao đâm bị hại. Để thực hiện mục đích, bị cáo vào nhà bếp lấy con dao Thái Lan loại dao cán bằng nhựa màu vàng, lưỡi bằng kim loại sắc nhọn, chiều dài 21 cm đi đến nơi bị hại đang nằm ngủ và dùng dao đâm một nhát vào ngực trái của bị hại. Sau đó, bị cáo bỏ lại con dao tại hiện trường và đi đến nói lại sự việc đã đâm bị hại cho bà B biết nhưng bà B không trả lời, bị cáo đi ra trước nhà gặp T nói lại sự việc vừa đâm bị hại rồi đến Công an phường Hưng Phú, quận Cái Răng đầu thú. Còn bị hại được đưa đi cấp cứu tại Bệnh viện Đa khoa thành phố Cần Thơ nhưng đã tử vong vào lúc 00 giờ 30 phút ngày 17/6/2023.

Tại Bản kết luận giám định tử thi số 89/KLGĐTT-PC09 ngày 25/7/2023 của Phòng Kỹ thuật Hình sự Công an thành phố Cần Thơ kết luận: nạn nhân Phạm Minh Đ, sinh năm 1965, tử vong do suy hô hấp cấp, sau vết thương đứt thủng phổi, trên cơ địa viêm lao phổi và viêm khe thận mạn.

Tại Kết luận giám định pháp y tâm thần theo trưng cầu số 374/2023/KLGĐ ngày 27/9/2023 của Trung tâm Pháp y tâm thần khu vực Tây Nam Bộ kết luận đối với Nguyễn Văn U:

- Về y học: Trước, trong, sau khi thực hiện hành vi phạm tội và hiện tại: Rối loạn nhân cách, hành vi do sử dụng rượu (F10.71-ICD10).

- Về khả năng nhận thức và điều khiển hành vi: Tại thời điểm thực hiện hành vi phạm tội và hiện tại: Đương sự hạn chế khả năng nhận thức và điều khiển hành vi.

Tại Công văn số 374.0/PYTT ngày 27/9/2023 của Trung tâm Pháp y tâm thần khu vực Tây Nam Bộ xác định: Về trách nhiệm hình sự: tại thời điểm phạm tội, đương sự Nguyễn Văn U có năng lực trách nhiệm hình sự.

Như vậy, chỉ từ mâu thuẫn nhỏ trong lời ăn tiếng nói và cách sinh hoạt thường ngày trong gia đình mà bị cáo đã nhẫn tâm dùng dao tước đoạt mạng sống của anh trai mình. Do đó, hành vi của bị cáo đã đủ yếu tố cấu thành tội “Giết người” với tình tiết định khung “có tính chất côn đồ” theo quy định tại điểm n khoản 1 Điều 123 Bộ luật hình sự. Viện kiểm sát nhân dân thành phố Cần Thơ truy tố bị cáo theo tội danh và điều khoản đã viện dẫn là có căn cứ.

[3] Xét tính chất, mức độ phạm tội và tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của bị cáo trong vụ án:

[3.1] Hành vi phạm tội mà bị cáo thực hiện là rất nghiêm trọng, nguy hiểm cho xã hội, không chỉ trực tiếp xâm phạm đến sức khỏe, tính mạng của người khác được pháp luật bảo vệ mà còn gây ảnh hưởng xấu đến trật tự trị an tại địa phương. Bị cáo là người đã thành niên, có năng lực chịu trách nhiệm hình sự. Mặc dù thời điểm phạm tội, bị cáo được xác định hạn chế khả năng nhận thức và điều khiển hành vi nhưng bị cáo đủ nhận thức để biết hành vi của mình có khả năng tước đoạt mạng sống của bị hại nhưng chỉ vì đạt được mục đích, bị cáo vẫn bỏ mặc hậu quả xảy ra để thực hiện với lỗi cố ý. Để đảm bảo tính nghiêm minh của pháp luật cần phải áp dụng mức hình phạt tương xứng nhằm cải tạo, giáo dục để bị cáo biết sống đặt mình vào khuôn khổ của pháp luật; đồng thời đảm bảo tác dụng răn đe và phòng ngừa chung trong xã hội.

[3.2] Tiến trình tố tụng, bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải nên được hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự. Bên cạnh đó, sau khi sự việc xảy ra bị cáo đã đến cơ quan chức năng để đầu thú nên Hội đồng xét xử xem xét cho bị cáo hưởng thêm các tình tiết giảm nhẹ theo quy định tại khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự. Tuy nhiên, việc bị cáo đã bị kết án chưa được xóa án tích mà lại thực hiện hành vi phạm tội do cố ý nên phải chịu tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự “tái phạm” theo quy định tại điểm h khoản 1 Điều 52 Bộ luật hình sự.

[3.3] Trên cơ sở đánh giá toàn diện về nguyên nhân, tính chất, mức độ thực hiện hành vi phạm tội; về nhân thân và các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự như đã phân tích ở trên, Hội đồng xét xử thấy cần phải áp dụng một hình phạt tương xứng và cách ly ra khỏi đời sống xã hội một thời hạn nhất định để bị cáo ăn năn, hối lỗi đối với hành vi phạm tội của mình và thấy được chính sách khoan hồng của pháp luật mà an tâm cải tạo, học tập, tu dưỡng để trở thành người có ích cho xã hội sau này.

[4] Về trách nhiệm dân sự: đại diện hợp pháp của bị hại không yêu cầu bị cáo bồi thường về trách nhiệm dân sự nên Hội đồng xét xử không đặt ra xem xét.

[5] Về xử lý vật chứng:

Con dao cán nhựa màu vàng, lưỡi dao bằng kim loại mũi nhọn, dài 21 cm là công cụ dùng vào việc phạm tội nên tịch thu tiêu hủy.

Áo, quần và võng của bị cáo và bị hại không có/không còn giá trị sử dụng nên tịch thu tiêu hủy.

[6] Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

1. Tuyên bố: Bị cáo Nguyễn Văn U phạm tội “Giết người”.

Áp dụng: điểm n khoản 1 Điều 123; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; điểm h khoản 1 Điều 52 và Điều 38 Bộ luật hình sự.

Xử phạt: bị cáo Nguyễn Văn U 15 (mười lăm) năm tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 17/6/2023.

2. Về xử lý vật chứng: Áp dụng Điều 47 Bộ luật Hình sự, Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự.

Tịch thu tiêu hủy: 01 (một) con dao cán nhựa màu vàng, lưỡi dao bằng kim loại mũi nhọn, dài 21 cm; 01 (một) chiếc áo thun ngắn tay, cổ tròn, nền trắng sọc đen kẻ ngang; 01 (một) chiếc quần sọt nam vải kaki màu đen; 01 (một) quần lửng màu vàng; 01 (một) chiếc áo thun nam, ngắn tay màu xám; 01 (một) võng bằng vải màu xám.

(theo Biên bản giao nhận vật chứng ngày 20/11/2023).

3. Về án phí: áp dụng khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự, Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về án phí, lệ phí Tòa án.

Bị cáo phải chịu 200.000 đồng (hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

Bị cáo và đương sự có mặt có quyền kháng cáo bản án này trong thời hạn 15 (mười lăm) ngày kể từ ngày tuyên án, để yêu cầu xét xử theo thủ tục phúc thẩm.

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các điều 6,7, 7a, 7b và 9 Luật thi hành án dân sự; Thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

7
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội giết người số 03/2024/HS-ST

Số hiệu:03/2024/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Cần Thơ
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 17/01/2024
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về